Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Độc tính cấp và tác động giảm đau ngoại biên, kháng viêm cấp của bài thuốc thu thập tại tỉnh Sóc Trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.97 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019

Nghiên cứu Y học

ĐỘC TÍNH CẤP VÀ TÁC ĐỘNG GIẢM ĐAU NGOẠI BIÊN,
KHÁNG VIÊM CẤP CỦA BÀI THUỐC THU THẬP TẠI TỈNH SÓC TRĂNG
Bùi Phạm Minh Mẫn*, Nguyễn Văn Đàn*, Bùi Chí Bảo*, Trịnh Thị Diệu Thường*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan tại TP.HCM bệnh lý thoái hóa khớp có
tần suất chung là 66% ở người trên 40 tuổi, trong đó chủ yếu là thoái hóa cột sống thắt lưng và thái hóa khớp
gối. Việc điều trị bằng thuốc đặc biệt là các thuốc kháng viêm ở các bệnh lý thoái hóa khớp có hiệu quả cải thiện
triệu chứng nhanh tuy nhiên có tác dụng phụ trên tim mạch, thận và đường tiêu hóa, gây khó khăn trong việc sử
dụng lâu dài. Trong khi đó ở nước ta, với tinh thần “Nam dược trị nam nhân”, có nhiều bài thuốc dân gian vẫn
còn lưu giữ và bảo tồn cho đến ngày nay. Cụ thể, tại Sóc Trăng qua sưu tầm các bài thuốc dân gian chúng tôi có
thu thập bài thuốc gồm Cỏ xước, Lá lốt, Cây trinh nữ, Rễ nhàu và Tang ký sinh được sử dụng để điều trị một số
bệnh xương khớp, đặc biệt là thái hóa khớp gối. Hầu hết người dân sử dụng bài thuốc là do truyền miệng, chưa có
bất kỳ một nghiên cứu nào chứng minh hiệu quả cũng như tính an toàn của bài thuốc. Vì vậy đề tài muốn nghiên
cứu độc tính cấp và tác động giảm đau ngoại biên, kháng viêm cấp của bài thuốc trên.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cao chiết nước bài thuốc gồm Cỏ xước, Lá lốt, Cây trinh nữ, Rễ
nhàu, Tang ký sinh. Thử nghiệm độc tính cấp qua việc xác định liều Dmax, LD100, LD50, LD0. Khảo sát tác động
giảm đau trên mô hình gây đau quặn bụng bằng acid acetic trên 32 chuột chia ngẫu nhiên làm 4 lô, lô chứng
bệnh cho chuột uống nước cất, lô đối chứng cho chuột uống diclofenac liều 7,5 mg/kg, lô thử 1 cho chuột uống cao
thử liều 60 mg/kg, lô thử 2 cho liều 120 mg/kg; theo dõi số lần đau quặn bụng các lô từng khoảng thời gian khác
nhau. Khảo sát tác dụng kháng viêm cấp trên mô hình gây viêm bàn chân chuột bằng carrageenan trên 24 chuột
chia ngẫu nhiên vào 3 lô, lô chứng bệnh cho uống nước cất, lô đối chứng cho uống diclofenac liều 10 mg/kg, lô
thử cho uống cao thử liều 60 mg/kg; theo dõi thể tích bàn chân chuột ở các thời điểm khác nhau.
Kết quả: Cao chiết nước bài thuốc gồm Cỏ xước, Lá lốt, Cây trinh nữ, Rễ nhàu, Tang ký sinh không xác
định được giá trị LD50, không thể hiện độc tính cấp đường uống với liều tối đa bơm qua được đầu kim (Dmax) là
20,06 g/kg trọng lượng chuột. Qua thử nghiệm tác dụng giảm đau ngoại biên, chuột uống cao thử liều 60 và 120
mg/kg có số lần đau quặn thấp hơn lô chứng bệnh có ý nghĩa thống kê trong khoảng thời gian 20 phút đầu và từ


phút 36 đến phút 40. So với diclofenac liều 10mg/kg, số lần đau quặn ở lô cao thử liều 60 và 120 mg/kg khác
nhau không có ý nghĩa thống kê; so sánh số lần đau quặn giữa 2 liều 60 và 120 mg/kg cũng không khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Qua thử nghiệm tác dụng kháng viêm cấp, lô chuột uống cao thử liều 60 mg/kg có tác động giảm
độ phù bàn chân so với lô chứng bệnh tại thời điểm 5 giờ sau khi gây viêm (30,63% và 51,73%); so sánh giữa lô
cao thử liều uống 60 mg/kg và lô đối chứng diclofenac 10 mg/kg, ở tất cả các thời điểm khảo sát, tác động giảm độ
phù bàn chân chuột ở lô cao liều 60 mg/kg thấp hơn sơ với lô đối chứng diclofenac 10mg/kg, sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê.
Kết luận: Cao chiết từ bài thuốc không có độc tính cấp trên chuột, có tác động giảm đau ngoại biên ở 2 liều
60 mg/kg và 120 mg/kg tương tự diclofenac liều 10 mg/kg và không có sự khác biệt giữa 2 liều. Cao chiết uống
liều 60 mg/kg có tác dụng kháng viêm cấp tại thời điểm sau khi gây viêm 5 giờ, tác động này chậm và thấp hơn so
với thuốc đối chứng diclofenac 10 mg/kg trên mô hình gây phù chân chuột.
Từ khóa: Cỏ xước, Lá lốt, Cây trinh nữ, Rễ nhàu, Tang ký sinh, thoái hoá khớp gối
* Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Bùi Phạm Minh Mẫn

Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền

ĐT: 0916080803

Email:

75


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019

ABSTRACT
ACUTE TOXICITY AND PERIPHERAL PAIN RELIEVING, ACUTE ANTI-INFLAMMATORY EFFECT

OF FOLK REMEDY IN SOC TRANG PROVINCE
Bui Pham Minh Man, Nguyen Van Dan, Bui Chi Bao, Trinh Thi Dieu Thuong
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 75 – 81
Objectives: In Vietnam, according to Ho Pham Thuc Lan's study in Ho Chi Minh City, osteoarthritis
disease has a common frequency of 66% in people over 40 years old, mainly degenerative lumbar spine and knee
joint. The treatment with drugs, especially anti-inflammatory drugs in degenerative joint diseases, effectively
improves symptoms quickly but there will be side effects on the heart, kidney and gastrointestinal tract, making it
difficult for long-period use. Meanwhile in our country, with the spirit of "Southern medicine is for southern
people", many folk remedies are still preserved until today. Specifically, in Soc Trang, we have collected remedies
including Achyranthes aspera L., Piper lolot L., Mimosa pudica L., Morinda citrifolia L., Loranthus parasiticus
Merr, which are used to treat osteoarthritis, especially, degenerative knee joint. Most people use the remedy
because of word-of- mouth. There has not been any research to prove the effectiveness and safety of the
prescription. Therefore, the study wants to study acute toxicity and peripheral pain relieving and acute antiinflammatory effects of the above-mentioned remedy.
Materials and Methods highly-extracted including Achyranthes aspera L., Piper lolot L., Mimosa pudica
L., Morinda citrifolia L., Loranthus parasiticus. Acute toxicity test was used to determine Dmax, LD100, LD50, LD0
values. Investigating analgesic effect on acetic acid-induced abdominal cramps model in 32 mice which were
randomly divided into 4 groups. In control groups: mice were taken distilled water. In treatment group: mice were
taken diclofenac dose of 7.5 mg/kg. In trial group: group 1 mice were taken a high dose of extract, 60 mg/kg and
group 2 with 120 mg/kg; monitor the number of abdominal cramps in each group in different periods.
Investigating acute anti-inflammatory effect of carrageenan-induced inflammation of mouse foot model in 24 mice
which were randomly divided into 3 group, control group: taken distilled water, treatment group: taken diclofenac
dose of 10 mg/kg, trial group taken dose of 60 mg/kg of extract; track mice feet volume at different times.
Results The LD50 value of aqueous extract including Combretum Achyranthes aspera L., Piper lolot L.,
Mimosa pudica L., Morinda citrifolia L., Loranthus parasiticus Merr. could not be determined. The extract did
not show orally acute toxicity with maximum dose to be taken (Dmax) (20.06 g/kg of mouse weight). Through the
testing of peripheral analgesic effects, mice taken high doses of 60 and 120 mg/kg had a lower number of cramps
than the control group with statistical significance during the first 20 minutes and from 36 to 40. Compared with
diclofenac dose of 10mg/kg, the number of pain episodes were different from that in the high dose of 60 and 120
mg/kg doses with no statistically significance; Comparing the numbers of cramps between doses of 60 and 120
mg/kg, they did not differ significantly. Through acute anti-inflammatory test, rats with high dose of 60 mg/kg

had an effect on reducing foot edema compared to the control group at 5 hours after inflammation (30.63% and
51.73). %); comparing between extract of 60 mg/kg and the control group of diclofenac 10 mg/kg, in all time, the
effect of lowering rat foot edema in the high dose of 60 mg/kg was lower than that of the control group diclofenac
10mg/kg, the difference was statistically significant.
Conclusions: Aqueous extract of the remedy was not toxic in mice and had a peripheral analgesic effect at 2
doses of 60 mg/kg and 120 mg/kg similar to diclofenac at a dose of 10 mg/kg. There was no difference between 2
doses. The extract of 60 mg/kg had an acute anti-inflammatory effect at the time of 5 hours after inflammation,
this effect is slower and lower than that of diclofenac 10 mg/kg on the model of rat foot edema.
Keywords: Achyranthes aspera L., Piper lolot L., Mimosa pudica L., Morinda citrifolia L., Loranthus

76

Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019

Nghiên cứu Y học

parasiticus Merr., degenerative knee joint

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Hồ Phạm
Thục Lan về các bệnh cơ xương khớp thường
gặp tại TP.HCM cho thấy ở người trên 40 tuổi
tần suất chung của thoái hóa khớp là 66%,
những vị trí thường gặp nhất là cột sống thắt
lưng và khớp gối(5). Các số liệu này cho thấy quy
mô của bệnh cơ xương khớp ở Việt Nam tương
đương với các nước khác trên thế giới. Các biện

pháp dùng thuốc tân dược (thuốc giảm đau,
chống viêm non-steroid và steroid) có hiệu quả
nhanh đối với các triệu chứng, song cũng gây
nhiều tác dụng phụ cho tim mạch, thận và
đường tiêu hóa. Do đó, các trường hợp đau mạn
tính không thể sử dụng thuốc giảm đau kháng
viêm tân dược thường xuyên thì việc sử dụng
các thuốc có nguồn gốc thảo dược trong điều trị
bệnh lý thoái hóa khớp với ít tác dụng không
mong muốn đang được các nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu.
Ở nước ta, truyền thống sử dụng các bài
thuốc kinh nghiệm dân gian truyền từ nhiều đời
vẫn còn lưu giữ và bảo tồn cho đến ngày nay,
đúng như câu nói của Tuệ Tĩnh “Nam dược trị
nam nhân”(8). Ở các địa phương cũng đều có các
bài thuốc và kinh nghiệm dân gian truyền
miệng, tại Sóc Trăng qua thu thập chúng tôi có
được rất nhiều bài thuốc điều trị các bệnh lý
khác nhau trong đó có bài gồm cỏ xước, lá lốt,
cây trinh nữ, rễ nhàu, tang ký sinh được sử dụng
để điều trị một số bệnh xương khớp, đặc biệt là
thoái hóa khớp gối. Hầu hết người dân sử dụng
và đánh giá sự hiệu quả các bài thuốc dân gian
nói chung và bài thuốc này nói riêng là do
truyền miệng, chưa có bất kỳ một nghiên cứu
nào trên thực nghiệm chứng minh điều này,
cũng như chưa có nghiên cứu nào khảo sát đánh
giá các độc tính tiềm ẩn.
Vì vậy đề tài muốn thực hiện các đánh giá

nhằm xác định độc tính tiềm ẩn của bài thuốc
gồm cỏ xước, lá lốt, cây trinh nữ, rễ nhàu, tang
ký sinh. Cụ thể, nghiên cứu độc tính cấp và tác
động giảm đau ngoại biên, kháng viêm cấp trên

Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền

chuột của bài thuốc. Qua đó tạo tiền đề để thực
hiện các nghiên cứu khác ứng dụng trên lâm
sàng trong điều trị các bệnh lý thoái hóa khớp
đặc biệt là thoái hóa khớp gối.

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu

Chế phẩm nghiên cứu
Cao chiết nước bài thuốc điều trị thoái hóa
khớp gối thu thập tại tỉnh Sóc Trăng gồm: Cỏ
xước (Combretum achyranthes aspera L.), Lá lốt
(Piper lolot L.), Cây trinh nữ (Mimosa pudica L.),
Rễ nhàu (Morinda citrifolia L.), Tang ký sinh
(Loranthus parasiticus Merr).
Động vật thử nghiệm
Chuột nhắt trắng (Mus musculus var. albino),
trưởng thành, khỏe mạnh, từ 10-12 tuần tuổi, có
nguồn gốc từ Viện Kiểm nghiệm thuốc Tp. Hồ
Chí Minh. Chuột được nuôi trong điều kiện
phòng thí nghiệm, vệ sinh hàng ngày, điều kiện
12 giờ sáng/tối, nhiệt độ 28oC, ẩm độ <50%, được
cung cấp thức ăn và nước uống (nước cất) cung

cấp liên tục hàng ngày.
Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp chiết xuất cao bài thuốc
Dược liệu được thu hái tại Sóc Trăng vào
tháng 10/2015, người thu hái là ông Võ Văn
Thành Niệm.
Dược liệu được bào chế và bảo quản đúng
quy trình và được kiểm tra chất lượng lý – hóa
tính, định lượng vi sinh vật, dư lượng thuốc
bảo vệ thực vật, tồn dư kim loại nặng. Các chỉ
tiêu chất lượng đều nằm trong giới hạn an
toàn theo quy định(1,2,4). Sau đó được chiết với
nước thành cao.
Thử nghiệm độc tính cấp trên chuột
Cho chuột thử nghiệm dùng cùng liều thuốc
trong điều kiện ổn định như nhau, quan sát các
phản ứng xảy ra trong vòng 72 giờ.
Cho 6 chuột (50% đực, 50% cái) nhịn đói ít
nhất 12 giờ trước khi cho uống cao chiết bài
thuốc liều duy nhất tối đa có thể bơm qua đầu

77


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019

kim (thể tích tối đa là 0,2 ml/10g trọng lượng

chuột). Theo dõi và ghi nhận cử động tổng quát,
biểu hiện về hành vi, trạng thái lông, ăn uống,
tiêu tiểu và số lượng chết của chuột trong vòng
72 giờ. Nếu sau 72 giờ, chuột không có dấu hiệu
bất thường hoặc chết, tiếp tục theo dõi trong
vòng 14 ngày.

Nghiên cứu tác dụng giảm đau ngoại biên
Khảo sát tác động giảm đau trên mô hình
gây đau quặn bụng bằng acid acetic (được mô tả
bởi Koster và cs, 1959)(6).
Chọn 32 chuột thỏa các tiêu chuẩn thí
nghiệm chia ngẫu nhiên vào 4 lô, mỗi lô 8 con:
Lô chứng bệnh: cho chuột uống nước cất;
Lô đối chứng: cho chuột uống diclofenac liều
10 mg/kg;
Lô thử 1: cho chuột uống cao thử liều 60
mg/kg;
Lô thử 2: cho chuột uống cao thử liều 120
mg/kg.
Sau khi cho chuột uống nước cất, diclofenac
hoặc cao thử 30 phút, tiêm phúc mô acid acetic
0,7% với thể tích 0,1 ml/10 g. Số lần đau quặn
của chuột được quan sát và ghi nhận trong mỗi 5
phút trong 40 phút sau khi tiêm acid acetic. Biểu
hiện của cơn đau quặn bụng là cơ bụng co lại,
chuột uốn mình, gập lưng và duỗi thẳng ít nhất
một chân sau.
Nghiên cứu tác dụng kháng viêm cấp
Khảo sát tác dụng kháng viêm cấp trên mô

hình gây viêm bàn chân chuột bằng carrageenan
(được mô tả bởi Winter và cs năm 1962)(10).
Chọn 24 chuột thỏa các tiêu chuẩn thí
nghiệm chia ngẫu nhiên vào 3 lô, mỗi lô 8 con:
Lô chứng bệnh: uống nước cất;
Lô đối chứng: uống diclofenac liều 10 mg/kg;
Lô thử: uống cao thử liều 60 mg/kg.
Đo thể tích chân chuột bình thường (V0) trên
máy Plethysmometer bằng cách nhúng chân
chuột vào dung dịch chống thấm đến khủy
chân. 60 phút sau khi uống nước, diclofenac
hoặc cao thử, chuột ở các lô được gây viêm bằng

78

cách tiêm dưới da vào gan bàn chân phải sau
0,025 ml hỗn dịch carrageenan 1% và được cho
vào lồng có giá đỡ để tránh nhiễm trùng chân.
Đo thể tích chân chuột sau sau khi gây viêm
1giờ, 3 giờ và 5 giờ (Vt).
Mức độ phù bàn chân chuột X (%) ở các thời
điểm khảo sát được tính theo công thức:
X (%) = [(Vt – Vo)/ Vo] x 100
Trong đó:
X là độ phù bàn chân chuột tính theo %,
Vt là thể tích chân chuột tại thời điểm sau khi
gây viêm (ml),
Vo là thể tích chân chuột tại thời điểm trước
khi gây viêm (ml).
Xử lý số liệu

Kết quả được trình bày ở dạng giá trị trung
bình ± SEM (standard error of mean - sai số
chuẩn của số trung bình). Sự khác biệt giữa các
lô được phân tích bằng phép kiểm KruskalWallis và Mann-Whitney với phần mềm SPSS
22.0. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p<0,05.

KẾT QUẢ
Độc tính của bài thuốc trên chuột
Bảng 1: Kết quả khảo sát độc tính cấp đường uống
của thuốc
Cao thuốc
Chuột thử nghiệm
1
2
3
4
5
6
Phái






Trọng lượng (g)
22,3 23,5 22,5 24,2 23,3 22,8
V cho uống (ml)
0,45 0,47 0,45 0,48 0,47 0,46
Tổng trọng lượng (g)

138,6
Tổng thể tích (ml)
2,78
Tổng khối lượng cao (g)
2,780
Liều cho uống (gam
20,06
cao/kg)
Số chuột thử nghiệm
6
Số chuột tử vong sau 72
0
giờ
Số chuột tử vong sau 14
0
ngày

Sau khi cho chuột uống cao thuốc với liều tối
đa có thể bơm được qua kim lần lượt là 20,06
g/kg, tất cả chuột thử nghiệm đều khỏe mạnh,
ăn cám viên, uống nước, tiêu tiểu, cử động bình
thường, không có dấu hiệu bất thường nào và

Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
không có chuột nào chết trong thời gian 72 giờ
quan sát. Tiếp tục theo dõi chuột trong 14 ngày ở
điều kiện chăm sóc bình thường, kết quả cho

thấy không có chuột nào chết; chuột không có
dấu hiệu bất thường về hành vi, trạng thái lông,
ăn uống, tiêu tiểu (Bảng 1).

Nghiên cứu Y học

Tác dụng giảm đau ngoại biên của bài thuốc
trên chuột
Kết quả ghi nhận số lần đau quặn bụng
trung bình được trình bày ở Bảng 2.

Bảng 2. Số lần đau quặn bụng trung bình của chuột ở các lô thử nghiệm

Chứng bệnh
Diclofenac 10 mg/kg
Cao thử 60 mg/kg
Cao thử 120 mg/kg

Thời gian theo dõi (phút)
0-5
6-10
11-15
16-20
21-25
26-30
23,1 ± 3,6 35,4 ± 2,8 25,8 ± 2,0 22,5 ± 2,8 15,4 ± 3,2 12,8 ± 2,8
6,6 ± 1,3* 19,6 ± 1,9* 19,8 ± 1,1* 12,9 ± 1,1* 11,1 ± 1,5
9,4 ± 1,1
11,4 ± 1,8* 23,0 ± 2,1* 18,0 ± 1,2* 13,5 ± 1,4* 10,0 ± 0,5
7,6 ± 1,2

6,8 ± 1,4* 15,8 ± 1,5* 14,3 ± 1,3* 11,1 ± 1,1* 9,3 ± 1,3
7,5 ± 1,1

31-35
36-40
12,1 ± 2,9 10,5 ± 2,2
8,3 ± 1,3 6,0 ± 1,1
6,8 ± 0,9 4,8 ± 1,0*
7,0 ± 1,9 4,9 ± 0,9*

* p <0,05: so với lô chứng bệnh ở cùng thời điểm khảo sát

Chuột ở lô chứng bệnh có số lần đau quặn
bụng tăng cao nhất trong khoảng thời gian 6-10
phút sau khi tiêm acid acetic, từ phút 11 đến
phút 40, số lần đau quặn bụng giảm dần theo
thời gian.
Chuột ở lô uống diclofenac 10 mg/kg có số
lần đau quặn thấp hơn lô chứng bệnh ngay từ
0-5 phút và kéo dài trong suốt 20 phút đầu
(p<0,05), từ phút 21 đến 40, số lần đau quặn
bụng thấp hơn nhưng không có ý nghĩa thống
kê (p >0,05).

nhưng không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). So
với diclofenac, số lần đau quặn ở lô cao thử liều
60 và 120 mg/kg khác nhau không có ý nghĩa
thống kê từ trong 40 phút khảo sát (p >0,05).
So sánh giữa 2 liều 60 và 120 mg/kg cũng
không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p >0,05).

Tác động kháng viêm cấp của bài thuốc trên
chuột
Do cao thử thể hiện tác động giảm đau ngoại
biên không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
liều 60 và 120 mg/kg nên chỉ khảo sát tác động
kháng viêm cấp của cao thử ở liều 60 mg/kg. Kết
quả Sự thay đổi độ phù chân chuột theo thời
gian giữa các lô chuột được trình bày ở Bảng 3.

Chuột uống cao thử liều 60 và 120 mg/kg có
số lần đau quặn thấp hơn lô chứng bệnh có ý
nghĩa thống kê trong khoảng thời gian 0-20 phút
và phút 36-40 (p <0,05), trong thời gian từ phút
21 đến phút 35 số lần đau quặn bụng thấp hơn
Bảng 3. Sự thay đổi độ phù chân chuột theo thời gian giữa các lô
Lô thử nghiệm
Chứng bệnh (uống nước cất)
Đối chứng diclofenac 10 mg/kg
Cao thử 60 mg/kg

V1h
4,45 ± 3,42
2,75 ± 1,34
13,21 ± 3,10*##

Độ phù trung bình ± SEM (%)
V3h
32,84 ± 6,91
9,78 ± 4,01*
32,25 ± 2,13##


V5h
51,73 ± 6,44
9,79 ± 1,35**
30,63 ± 4,16*##

* p <0,05; ** p <0,01: so với lô chứng bệnh ở cùng thời điểm khảo sát
## p <0,01: so với lô đối chứng diclofenac 10 mg/kg ở cùng thời điểm khảo sát

Lô đối chứng diclofenac làm giảm độ phù
bàn chân chuột so với lô chứng bệnh. Sự khác
biệt ý nghĩa thống kê (p <0,05) bắt đầu từ sau 3
giờ (tại thời điểm 3 giờ và 5 giờ sau khi gây viêm).
Lô cao thử liều 60 mg/kg có tác động giảm
độ phù bàn chân chuột so với lô chứng bệnh tại
thời điểm 5 giờ sau khi gây viêm (p <0,05).

Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền

Tuy nhiên, dù độ phù ở thời điểm 1 giờ cao
hơn so với lô chứng bệnh nhưng tại thời điểm
sau 3 giờ, độ phù tương đương nhau và tại thời
điểm 5h, độ phù thấp hơn có ý nghĩa thống kê
(30,63% vs 51,73%; p <0,05). Kết quả này chứng
tỏ cao thử có tác động kháng viêm cấp trên mô
hình chuột nhắt trắng. Ngoài ra, khi so sánh giữa

79



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019

lô cao thử liều uống 60 mg/kg và lô đối chứng
diclofenac 10 mg/kg, ở tất cả các thời điểm khảo
sát, sự khác biệt về độ phù bàn chân chuột giữa 2
lô đều có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Tác động
kháng viêm cấp của cao thử thể hiện chậm và
thấp hơn so với diclofenac. Điều này có thể giải
thích do cao thử có nguồn gốc tự nhiên, còn
diclofenac là thuốc có nguồn gốc hóa học.
Tuy nhiên, ưu điểm của cao thử là ít tác
dụng phụ, đặc biệt khi sử dụng trong thời gian
dài với các bệnh mạn tính như các chứng viêm
mạn, viêm khớp.

BÀN LUẬN
Độc tính cấp của bài thuốc
Như vậy, qua việc thử nghiệm độc tính cấp
trên chuột, cao chiết từ bài thuốc không xác định
được giá trị LD50, không thể hiện độc tính cấp
đường uống với liều tối đa có thể cho uống qua
kim (Dmax) là 20,06 g/kg trọng lượng chuột. Điều
này thể hiện tính an toàn khi sử dụng bài thuốc
trong thời gian ngắn, tuy nhiên tính an toàn của
bài thuốc sử dụng trong thời gian dài chưa được
chứng minh. Điều này phù hợp với tình hình sử
dụng thực tế bài thuốc trên tại địa phương
không ghi nhận các biểu hiện độc tính cấp.

Ngoài ra cũng phù hợp với các nghiên cứu độc
vị trên thế giới từng công bố như cây cỏ xước
trong nghiên cứu của Chinnappa V. Reddy và
các cộng sự năm 2014 hay cây trinh nữ trong
nghiên cứu của Pradeep KV và các cộng sự năm
2012 cũng chứng minh nước chiết của cỏ xước
và trinh nữ không có độc tính cấp.
Tác dụng giảm đau ngoại biên và kháng viêm
cấp của bài thuốc
Đối với tác dụng giảm đau ngoại biên, cao
thử ở cả 2 liều 60 mg/kg và 120 mg/kg đều có tác
dụng giảm đau như nhau được quan sát thông
qua thử nghiệm giảm đau quặn bụng trên chuột.
So sánh với thuốc giảm đau kháng viêm thường
được sử dụng là diclofenac liều 10 mg/kg cho
thấy cao thuốc thử có tác dụng giảm đau tương
đương trong thời gian theo dõi 40 phút. Trong
các nghiên cứu độc vị trên thế giới, Saurabh

80

Srivastav và các cộng sự năm 2011 cũng chứng
minh tác dụng giảm đau của nước chiết cỏ xước
cũng như nước chiết của trinh nữ cũng được
Pradeep KV. chứng minh tác dụng giảm đau
vào năm 2012.
Đối với tác dụng kháng viêm cấp, do tác
dụng giảm đau ngoại như nhau ở 2 liều nên chỉ
thực hiện thử nghiệm trên liều 60 mg/kg. Các kết
quả cho thấy cao thử cho uống liều 60 mg/kg có

tác dụng kháng viêm thông qua việc làm giảm
độ phù chân chuột tại thời điểm sau khi gây
viêm 5 giờ. Tác động này chậm và thấp hơn so
với thuốc đối chứng diclofenac 10 mg/kg trên
mô hình gây viêm bằng hỗn dịch carragenan 1%.
Trên thực tế, tác dụng kháng viêm của các dược
liệu cũng đã được chứng minh như cỏ xước
(Saurabh Srivastav và cộng sự, 2011), lá lốt
(Wibool Ridtitid và cộng sự, 2007), trinh nữ
(Pradeep KV 2012).
Theo Y học cổ truyền, các vị thuốc cỏ xước,
lá lốt, cây trinh nữ, rễ nhàu, tang ký sinh chủ yếu
quy kinh Can Thận, có tác dụng thanh nhiệt tiêu
viêm, chỉ thống, an thần, cường gân cốt được sử
dụng điều trị các chứng quan tiết thống, phong
thấp tê bại, gân cốt yếu mỏi(3,4,7,9). Từ các kết quả
trên cho thấy có sự tương đương giữa tác dụng
thanh nhiệt tiêu viêm, chỉ thống của cao thuốc
thử với tác dụng kháng viêm cấp, giảm đau
ngoại biện theo Y học hiện đại.

KẾT LUẬN
Cao chiết từ bài thuốc không có độc tính cấp
trên chuột, có tác động giảm đau ngoại biên ở 2
liều 60 mg/kg và 120 mg/kg tương tự diclofenac
liều 10 mg/kg và không có sự khác biệt giữa 2
liều. Cao chiết uống liều 60 mg/kg có tác dụng
kháng viêm cấp tại thời điểm sau khi gây viêm 5
giờ, tác động này chậm và thấp hơn so với thuốc
đối chứng diclofenac 10 mg/kg trên mô hình gây

phù chân chuột.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Y tế (2002). Dược điển Việt Nam IV. Nhà xuất bản Y Học Hà
Nội, />
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
2.
3.

4.

5.
6.
7.

Bộ Y tế (2017). Hướng dẫn phương pháp chế biến các vị thuốc
cổ truyền ban hành ngày 11/7/2017. Thông tư 30/2017/TT-BYT.
Chaudhary R, Roy R, Uton M (2001). “Traditional medicine in
Asia”. New Delhi: World Health Organization, Regional office for
South-East Asia.
Đỗ Tất Lợi (2005). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nhà
xuất
bản
Khoa
học

Kỹ
thuật

Nội,
/>Hồ Phạm Thục Lan (2017). “Thoái hóa khớp yếu tố nguy cơ và
di truyền”. Đề tài cơ sở KH&CN TP HCM.
Koster R, Anderson M and De Beer EJ (1959). “Acetic Acid for
Analgesic Screening”. Federation Proceedings, 18:412-417.
Li CY, Tsai WJ, Damu AG, Lee EJ, et al (2007). “Isolation and
identification of antiplatelet aggregatory principles from the
leaves of Piper lolot”. Journal of Agricultural and Food Chemistry,
55(23):9436-42.

Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền

Nghiên cứu Y học

8.

Nguyễn Bá Tĩnh (2007). Tuệ Tĩnh toàn tập. Nhà xuất bản Y học
Hà Nội, pp.367-380.
9. Wan OWN, Lau SF, Mohamed S (2017). “Scopoletinstandardized Morinda elliptica leaf extract suppressed
inflammation and cartilage degradation to alleviate
osteoarthritis: A preclinical study”. Phytother Res, 31(12):19541961.
10. Winter CA, Risley EA & Nuss GW (1962). “CarrageeninInduced Edema in Hind Paw of the Rat as an Assay for
Antiinflammatory Drugs”. Proceedings of the Society for
Experimental Biology and Medicine, 111(3):544–547.

Ngày nhận bài báo:


28/07/2019

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

20/08/2019

Ngày bài báo được đăng:

14/09/2019

81



×