Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.4 KB, 9 trang )

Số 59 - Tháng 7/2018

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý
trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
The Moving Trend from Autobiography to Psychological Novels in Vietnamese
Literature in the Period 1930 – 1945
ThS. Trần Thanh Việt,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội
Tran Thanh Viet, M.A.,
University of Social Sciences and Humanities – Vietnam National University, Hanoi
Tóm tắt
Văn học nước nhà giai đoạn 1930 – 1945 đã chứng kiến nhiều nhà văn viết tự truyện: Ngun Hồng,
Lan Khai, Nguyễn Tn, Vũ Bằng, Tơ Hồi, Nam Cao... Cũng chính những nhà văn này, trước u cầu
đổi mới nền văn học và theo dòng chảy tự nhiên của tiểu thuyết hiện đại, đã chuyển mình sang sáng tác
tiểu thuyết tâm lý. Có thể khẳng định rằng giai đoạn văn học 1930 - 1945 đã xuất hiện xu hướng dịch
chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý.
Xu hướng dịch chuyển này diễn ra với dấu hiệu hết sức rõ ràng từ căn cứ tác phẩm tiểu thuyết. Đó là
dấu hiệu nhân vật chính mang hình bóng tác giả, và chi tiết, sự kiện trong tác phẩm vừa thực vừa có thể
được hư cấu.
Từ khố: xu hướng dịch chuyển, tự truyện, tiểu thuyết tâm lý, văn học Việt Nam 1930-1945.
Abstract
There were many famous autobiographers in Vietnamese literature in the period 1930-1945: Nguyen
Hong, Lan Khai, Nguyen Tuan, Vu Bang, To Hoai, Nam Cao...
In order to meet the needs of literature innovation, together with the natural flow of modern novels,
those writers have transformed themselves into psychological novelists. It can be argued at that time
Vietnamese literature has emerged as a shift from autobiography to psychological novels.
This shift has taken place with very clear signs from the basis of the novels where the main characters
bearing the characteristics of the writers; and the details or events in novels can be both realistic and
fictitious.


Keywords: the moving trend, autobiography, psychological novels, Vietnamese literature in the period
1930 – 1945.

Đặt vấn đề
Trong giai đoạn văn học 1930 - 1945,
qng thời gian mới có mười lăm năm
nhưng với tốc độ hiện đại hố diễn ra

nhanh chóng, với sự xuất hiện nhiều nhà
văn tài năng, nhiều tiểu thuyết có giá trị đã
ra đời và để lại dư âm lớn đến tận ngày
nay. Văn học nước nhà giai đoạn 1930 –
138


TRẦN THANH VIỆT

1945 đã chứng kiến nhiều nhà văn viết tự
truyện: Nguyên Hồng, Lan Khai, Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Và
cũng chính những nhà văn này, trước yêu
cầu đổi mới nền văn học, theo dòng chảy
tự nhiên của tiểu thuyết hiện đại, đã chuyển
mình sang sáng tác tiểu thuyết tâm lý. Có
thể khẳng định rằng, trong giai đoạn văn
học này đã xuất hiện xu hướng dịch chuyển
từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý.
1. Cơ sở xác định sự dịch chuyển tự
truyện sang tiểu thuyết tâm lý
Khảo sát văn học Việt Nam giai đoạn

1930 – 1945, chúng tôi nhận thấy hầu hết
các nhà văn thành công với thể tài tiểu
thuyết tâm lý đã từng trước đó thành công
với tiểu thuyết dạng tự truyện. Dù sáng tác
tiểu thuyết tâm lý hay tự truyện, các nhà
văn đều gửi gắm hình bóng và tâm sự của
chính cuộc đời mình vào hình tượng nhân
vật. Đây là những thể loại đắc địa để các
nhà văn giai đoạn này thể hiện sự cách tân
nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết: nhân vật
tâm lý, kết cấu tâm lý, ngôn ngữ tâm lý. Và
bao hàm trong đó, là thành công của nghệ
thuật phân tích tâm lý nhân vật.
Ngoài ra, chính lịch sử chính trị - xã
hội giai đoạn này đã tạo nên yêu cầu đổi
mới nền văn học và góp phần gây nên trào
lưu viết tiểu thuyết tâm lý. Sự chuyển hoá
từ tiểu thuyết tự truyện sang tiểu thuyết
tâm lý là quá trình phức tạp. Văn học Việt
Nam lúc này đã chứng kiến sự chuyển hoá
như thế khi có nhiều nhà văn theo cả
khuynh hướng hiện thực hay lãng mạn đều
viết tự truyện, mà những cuốn tự truyện ấy
đều hàm chứa bên trong một quá trình vận
động sang tiểu thuyết tâm lý.
Khó có thể căn cứ vào tiểu thuyết của
các nhà văn theo khuynh hướng lãng mạn
như Tự lực văn đoàn hay tiểu thuyết của
các nhà văn theo khuynh hướng hiện thực


như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao để
đưa ra những tiêu chí phân biệt rạch ròi
đâu là tự truyện, đâu là tiểu thuyết tâm lý.
Nhưng trên cơ sở nghiên cứu quá trình tự
chuyển hoá trong quan điểm sáng tác của
các nhà văn và quá trình ra đời của các tác
phẩm, có thể thấy sự dịch chuyển tự truyện
sang tiểu thuyết tâm lý đã diễn ra liên tục
trong giai đoạn văn học này. Từ những
năm 1940 trở đi, tự truyện xuất hiện nhiều
đã đưa tiểu thuyết tâm lý phát triển lên một
tầm cao mới về nghệ thuật biểu hiện.
Trong đó có, Những ngày thơ ấu (1939)
của Nguyên Hồng, Thiếu quê hương
(1940) của Nguyễn Tuân, Mực mài nước
mắt (1941) của Lan Khai, Cai (1943) của
Vũ Bằng, Cỏ dại (1944) của Tô Hoài, Sống
mòn (1944) của Nam Cao... [1].
Như vậy, có thể khẳng định sự ra đời
gần như cùng lúc của những cuốn tự truyện
đã chứng tỏ có sự giao thoa giữa tự truyện
và tiểu thuyết tâm lý. Sự giao thoa này
không theo hướng tiểu thuyết tâm lý ảnh
hưởng đến tự truyện như thế nào mà ngược
lại, trên bước đường hiện đại hoá tiểu
thuyết, các nhà văn phần nhiều lấy chất
liệu xây dựng hình tượng nhân vật từ
những trải nghiệm của chính cuộc đời
mình. Vì thế, tự truyện trở thành tiểu
thuyết. Tự truyện hướng đến quá trình hình

thành tiểu thuyết tâm lý bởi ý muốn của
nhà văn, bởi ý thức mãnh liệt về thể loại
của người sáng tác và hơn thế nữa, bởi thị
hiếu của độc giả đương thời. Chính nghệ
thuật phân tích tâm lý nhân vật trong tự
truyện và trong tiểu thuyết tâm lý giai đoạn
này đã chứng minh, có một sự vận động
trong quan niệm nghệ thuật của các nhà
văn, trong bản thân quá trình hiện đại hoá
tiểu thuyết. Sự dịch chuyển từ tự truyện
sang tiểu thuyết tâm lý diễn ra trên cả nội
dung tư tưởng và nghệ thuật.
139


XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM…

Cơ sở để chúng tôi khảo sát sự tác
động qua lại giữa tự truyện và tiểu thuyết
tâm lý từ nghệ thuật tự sự của tác giả ở bài
viết này, ngoài căn cứ thời điểm xuất hiện
tác phẩm trên văn đàn còn dựa vào sự vận
động, phát triển của nghệ thuật tự sự trong
tiểu thuyết của cả giai đoạn. Tiểu thuyết
tâm lý, từ Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc
Phách đến Bướm trắng (1939) của Nhất
Linh, Sống mòn (1944) của Nam Cao là cả
một chặng đường rất dài, chặng đường
chứng kiến sự phát triển vượt bậc của nghệ
thuật tiểu thuyết. Bướm trắng đại diện cho

khuynh hướng tiểu thuyết lãng mạn và
Sống mòn đại diện cho khuynh hướng tiểu
thuyết hiện thực. Ở đó, nhà văn thể hiện tài
năng phân tích tâm lý nhân vật đến mức
điêu luyện. Xin được nói thêm, Sống mòn
xuất hiện vào năm 1944 nhưng đến năm
1956 tác phẩm này mới được xuất bản và
phổ biến rộng rãi tới số đông công chúng
yêu văn học. Tuy nhiên chính sự ra đời của
Sống mòn vào năm 1944 đã góp phần
khẳng định, Nam Cao viết tự truyện và tiểu
thuyết tâm lý đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật
tự sự. Đây là cuốn tiểu thuyết tâm lý thành
công, nhưng cũng là cuốn tự truyện ghi lại
cuộc đời hoạt động sôi nổi cùng biết bao
suy tư, chiêm nghiệm của chính tác giả,
nhà văn Nam Cao.
Nhiều nhà văn viết tiểu thuyết không
phải để xuất bản ngay thành sách mà đăng
dưới dạng truyện nhiều kỳ trên báo hoặc
tạp chí. Vì thế, tuy chưa có sự ủng hộ nhiệt
tình từ đội ngũ các nhà phê bình lúc bấy
giờ nhưng khuynh hướng dịch chuyển tiểu
thuyết từ tự truyện sang tâm lý là một đã
diễn ra và thành công.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tự
truyện là “Tác phẩm văn học thuộc loại tự
sự, tác giả tự viết về cuộc đời mình” [6;
tr.389]. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật


ngữ văn học quan niệm rằng, tự truyện là
“tác phẩm văn học tự sự, thường được viết
bằng văn xuôi trong đó tác giả tự kể và
miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [2;
tr.378]. Trong tự truyện, nhân vật tác giả
xuất hiện song trùng với con người thật
ngoài đời mình; còn trong tiểu thuyết, nhân
vật luôn có sự hư cấu, do bàn tay nhào nặn
của nhà văn mà thành. Tuy vậy, nhân vật
trong tự truyện cũng có sự hư cấu nhất định.
Với tự truyện, tác giả “thường tập trung vào
quá trình hình thành và lịch sử thế giới nội
tâm của mình trong sự tương tác giữa nó với
thế giới bên ngoài” [2; tr. 379]. Đặc điểm
này xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết vào
cuối những năm 1930 đến đầu những năm
1940 ở nước ta và khá gần gũi với tính chất
nghệ thuật của tiểu thuyết tâm lý.
Ở đây, chúng tôi không nhằm tranh
luận xem tự truyện hay tiểu thuyết tâm lý
nằm ở vị trí nào trong mối quan hệ vô cùng
mật thiết, thậm chí khó có thể tách bạch
giữa giữa khuynh hướng hiện thực và
khuynh hướng lãng mạn, mà nhằm mục
đích nhấn mạnh khả năng dịch chuyển từ
tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. Tự truyện
nở rộ trong văn học Việt Nam từ những
năm 1940 trở đi và trên thực tế, nó cũng
tồn tại dưới hình thức tiểu thuyết đời tư,
phản ánh đời tư của các tác giả; trong đó,

đối tượng được hướng đến là các diễn biến
tâm lý.
Tự truyện góp phần đưa tiểu thuyết
tâm lý trở thành một xu hướng phát triển
của tiểu thuyết Việt Nam, giúp tiểu thuyết
Việt Nam gặt hái nhiều thành tựu. Điểm
giao thoa giữa hai loại hình tiểu thuyết này
chính là việc xây dựng hình tượng nhân vật
chính. Ở đó, nhà văn chọn quá trình diễn
biến tâm lý của nhân vật chính làm đối
tượng hướng đến của ngòi bút văn chương.
Mọi nỗ lực của nhà văn đều nhằm mục
140


TRẦN THANH VIỆT

đích phân tích tâm lý của nhân vật. Quá
trình diễn biến tâm lý của nhân vật tạo nên
sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết. Nhân vật
trong tự truyện dễ dàng giao thoa với nhân
vật trong tiểu thuyết tâm lý. Sự giao thoa
đó đã diễn ra, cho phép đặt Sống mòn của
Nam Cao vào tiểu thuyết tự truyện hay tiểu
thuyết tâm lý đều được, mặc dù Thứ là
nhân vật chính có tính chất hư cấu. Chỉ có
những tâm trạng, suy tư của anh ta mới là
những mảnh ghép chân thực về con người
và tính cách của Nam Cao. Tương tự, nhân
vật Tôi trong Những ngày thơ ấu của

Nguyên Hồng là nhà văn nhưng sức hấp
dẫn của cuốn tự truyện không chỉ là những
biến cố trong cuộc đời nhân vật, mà còn là
những xúc cảm, suy tư của đứa trẻ sống
trong hoàn cảnh bất hạnh, những suy nghĩ
về thân phận, về gia đình và nhất là về
người mẹ tội nghiệp giàu tình thương con.
Giữa tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945 nói chung và tự truyện giai
đoạn này nói riêng luôn có điểm gặp gỡ
nhau. Đó là, bất kể thuộc khuynh hướng
hiện thực hay thuộc khuynh hướng lãng
mạn, nhân vật chính trong tiểu thuyết
thường ít nhiều mang bóng hình của tác
giả. Ở đó, các nhà văn có gửi gắm những
trải nghiệm của cuộc đời mình vào nhân
vật trong tác phẩm.
Một cơ sở nữa chúng tôi muốn nhắc
đến là bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
cũng như nhu cầu tự thân vận động, đổi mới
nền văn học đã dẫn đến việc tiểu thuyết có
những bước phát triển nhanh chóng. Hầu
hết các công trình nghiên cứu tiểu thuyết
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đều đề cập
đến cơ sở này. Trên thực tế, những tác phẩm
mà chúng tôi khảo sát đều xuất hiện vào
thời điểm tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ
nhất cả về số lượng và chất lượng, đó là vào
cuối những năm 30 sang đầu những năm 40


của thế kỷ XX. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu những đóng góp của Tự lực văn
đoàn với tiến trình văn học dân tộc. Trong
giai đoạn này, tiểu thuyết của các nhà văn
như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam..,
đã thực sự dịch chuyển sang tiểu thuyết
tâm lý.
Căn cứ vào thực tế sáng tác của các nhà
văn, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
đề cập đến sự dịch chuyển từ tự truyện sang
tiểu thuyết tâm lý qua khảo sát sáng tác của
một số nhà văn như Những ngày thơ ấu
(1939) của Nguyên Hồng, Thiếu quê hương
(1940) của Nguyễn Tuân, Mực mài nước
mắt (1941) của Lan Khai, Cai (1943) của
Vũ Bằng, Cỏ dại (1944) của Tô Hoài, Sống
mòn (1944) của Nam Cao.
2. Xu hướng dịch chuyển nhân vật
chính mang bóng hình tác giả sang nhân
vật chính hoàn toàn hư cấu
Nhân vật chính trong những cuốn tự
truyện trên con đường vận động chuyển
sang tiểu thuyết tâm lý bao giờ cũng gần
gũi thậm chí song trùng với hình bóng của
chính tác giả. Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân,
Lan Khai, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao..,
viết tiểu thuyết đều nhằm sáng tạo nên hình
tượng nhân vật để khám phá những diễn
biến tâm lý còn ẩn sâu trong tâm hồn con
người. Đó cũng là nguyên nhân giải thích

vì sao phần nhiều các tự truyện trong quá
trình dịch chuyển sang tiểu thuyết tâm lý
đã thúc đẩy sự phát triển tiểu thuyết theo
khuynh hướng lãng mạn. Điều đó thể hiện
khá rõ trong tác phẩm của các nhà văn như
Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Lan Khai...
Với những sáng tác theo khuynh hướng
văn học hiện thực cũng thế, tác phẩm luôn
chất chứa nỗi niềm tâm sự, u uẩn, dằn vặt
khôn nguôi của tác giả. Cái thống khổ của
cuộc đời, sự chèn ép của xã hội nửa thực
dân, nửa phong kiến đương thời, cái lầm
141


XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM…

lạc mà đời một văn nghệ sĩ vướng vào, có
khi chỉ là cái cớ để người viết bày tỏ suy
tư, chiêm nghiệm của chính mình. Đó là
những tác phẩm của Nguyên Hồng, Vũ
Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Ở đây nhân vật
trong tiểu thuyết có quan hệ song trùng với
hình tượng tác giả người đang kể lại câu
chuyện về cuộc đời mình bằng giọng trực
tiếp hoặc bán trực tiếp.
Thật không khó nhận ra trong tiểu
thuyết Mực mài nước mắt, hình tượng nhân
vật Khải lại chính là bóng hình của nhà văn
Lan Khai. Nỗi khốn khó của lớp văn sĩ tiền

chiến được Lan Khai giãi bày cả trong tác
phẩm, từ cái tên văn sĩ Khải – Lan Khai
cho đến người vợ hiền thảo, những đứa con
thơ, ông cụ thân sinh là một nhà Nho làm
nghề bốc thuốc mấy đời ở tỉnh Tuyên
Quang cho đến chuyến xe chuyển nhà về
quê đón Tết, ở lại vùng quê xa xôi ấy và
tạm chôn đi giấc mộng văn chương. Lan
Khai đã rút ruột mình để đưa vào Mực mài
nước mắt những lời khắc khoải đắng cay:
“Chỉ còn độc một kế là viết cho xong
quyển tiểu thuyết này. Khải cầm lấy bút.
Trời, suốt đời chàng, Khải có lẽ không
mong gì còn có lúc thoát ly được cái khổ
đánh đĩ ngòi bút chăng? Nếu vậy thì đổi
quách nghề như Kim đã nói” [9; tr.265].
Lúc nào Khải cũng sống trong hoảng hốt,
lo sợ, phải gồng mình lên để tránh nợ, để
tự hỏi làm cách nào để kiếm ra tiền. Nhưng
chưa lúc nào chàng có thể trả lời câu hỏi ấy
một cách thoả đáng. Cho đến tận ngày
chàng phải thu xếp cùng vợ con về quê, bỏ
lại Hà thành, bỏ lại giấc mộng văn chương,
chàng vẫn không thôi trăn trở, khổ đau về
việc này.
Trong Thiếu quê hương, người đọc có
thể nhận ra nhân vật Bạch khá gần gũi với
lối sống và thú “xê dịch” của nhà văn
Nguyễn Tuân. Cuộc đời Bạch gắn với


những chuyến đi. Chiếc va li bằng da thuộc
có dán nhãn của đủ mọi khách sạn, những
nơi mà Bạch đã đi qua được chàng vô cùng
nâng niu, quý trọng. Thiếu quê hương lôi
cuốn người đọc bởi những trang phân tích
tâm lý mà cảnh vật được miêu tả có khi chỉ
là cái cớ để nhân vật bộc lộ tâm sự. Khi
biết Dung, người vợ mới cưới đã đem kỳ
cọ sạch những nhãn dán trên chiếc va li,
“Bạch đứng trước cái va li buồn thiu có
hàng nửa giờ đồng hồ, mồ hôi toát ra đầm
đìa, dáng điệu bơ phờ thương xót như một
người quyến luyến với một cố nhân già
đang thở hắt mãi ra để mà về trời, mỗi phút
qua là làm giá lạnh một đoạn mình mảy tái
xám thêm lại. Bạch cứ thế mà điếng cả
người cho đến suốt ngày hôm sau, không
ăn được, không ngủ được” [10; tr.917].
Ở một tiểu thuyết khác, Nam Cao đã
đưa người đọc đến với cuộc đời của một
anh giáo khổ trường tư luôn phải dằn vặt,
sám hối để cố gắng sống tốt hơn giữa cuộc
đời toàn những toan tính, lọc lừa, vô cảm
vùi mãi con người ta xuống vũng bùn.
Chính Thứ từng thừa nhận: “Đáng ghét,
đáng nguyền rủa ấy là cái sống lầm than nó
đã bắt buộc người ích kỷ, nó đã tạo ra
những con người tàn nhẫn và tham tham”
[5; tr.62]. Thứ đến “một cái nhân loại rất
mênh mông, rất bao la rộng rãi, cái nhân

loại hỗn độn đang bị khổ cực, đau đớn,
điên cuồng vì những lỗi lầm của mọi
người” và “Y náo nức muốn dự một phần
nào vào việc xây dựng lại cái nhân loại ấy”
[5; tr.63]. Nhưng rồi, Thứ đã quên rất
nhanh những điều mộng tưởng rất đỗi xa
xôi ấy: “Nhưng chẳng bao lâu, y lại phải
trở về thực tế, với cuộc đời chật hẹp của y.
Sau buổi học chiều, y lại phải gặp Oanh”
[5; tr.64]. Anh giáo khổ trường tư đã có lúc
dằn vặt: “Y có rất nhiều gánh nặng. Càng
nhìn xa, y càng thấy đời y cứ càng ngày
142


TRẦN THANH VIỆT

mà em đọc đến, hẳn em không giấu được
mỉm cười ngạc nhiên rằng sao anh khéo
nhớ ma mãnh thế. Nhâm đã quên và chắc
là bây giờ chẳng còn những ngày rầu rĩ như
thế. Tôi thì tôi nhớ dai, nhớ lắm em ạ”
[7; tr.83].
Có thể thấy, sự ra đời của nhiều tự
truyện trong những năm 40 của thế kỷ XX,
cũng đánh dấu mốc thời gian tự truyện dịch
chuyển sang tiểu thuyết tâm lý. Ta bắt gặp
điều đó trong Những ngày thơ ấu (1939)
của Nguyên Hồng, Thiếu quê hương
(1940) của Nguyễn Tuân, Mực mài nước

mắt (1941) của Lan Khai, Cỏ dại (1941)
của Tô Hoài, Cai (1943) của Vũ Bằng và
Sống mòn (1944) của Nam Cao. Trong hầu
hết những cuốn tự truyện có hướng chuyển
sang tiểu thuyết tâm lý, nhân vật chính của
tiểu thuyết đúng là những mảnh ghép từ
cuộc đời của chính tác giả, thông qua
những dòng hồi tưởng chứa chan kỷ niệm
về quá khứ đã trôi qua không trở lại. Khi
người đọc được đắm chìm trong quá khứ
cùng nhân vật chính, tiểu thuyết gần với tự
truyện; khi người đọc cùng nhân vật chính
quay lại thực tại (thời gian trong tác phẩm),
tiểu thuyết là cuốn tiểu thuyết tâm lý.
3. Xu hướng dịch chuyển chi tiết, sự
kiện xác thực sang chi tiết, sự kiện hoàn
toàn hư cấu
Một đặc điểm nổi bật của một số tiểu
thuyết có khuynh hướng tự truyện trong
thời gian này là, tác phẩm chứa đựng nhiều
chi tiết có thể có thật vì nhân vật chính
chính là tác giả (Những ngày thơ ấu, Cai,
Cỏ dại). Song ngay cả những chi tiết hiện
lên qua dòng hồi tưởng đầy chủ quan của
tác giả cũng chưa chắc có thật, thậm chí có
tác phẩm, tác giả chỉ vận dụng cuộc đời
mình như chất liệu xây dựng nhân vật, cho
nên trong tác phẩm đan xen cả chi tiết có
thật và chi tiết hư cấu. Trí tưởng tượng của


càng thắt chặt vào, càng chật chội thêm. Y
có thể khổ hơn lên, không thể sướng ra” [5;
tr.74-75]. Những gánh nặng như thế bủa
vây khiến cho nhân vật Thứ không có lối
thoát. Sự căng thẳng tinh thần thường
xuyên ở Thứ chính là sự giằng co giữa hai
mặt cao thượng và thấp hèn trong cùng một
nhân vật. Nhà văn Vũ Bằng trong Cười
Đông, cười Tây, cười kim, cười cổ [4;
tr.128] kể rằng trong truyện ngắn Cười với
trăng đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy, nhân
vật chính đúng là Nam Cao.
Trong Những ngày thơ ấu, Nguyên
Hồng bộc bạch: “Biết bao nhiêu cảm giác,
bao nhiêu ý tưởng, đằm thắm và say sưa đã
rung động và mơn man cõi lòng tôi. Tâm
tư tôi không còn lởn vởn những sự phẫn
uất ghen hờn nên những cái gì là tốt đẹp
của một trẻ nhỏ đều được hoàn toàn nảy nở
trong những giấc mơ tươi sáng và quen
quen ấy” [8; tr.290]. Đằng sau những xúc
cảm, những dòng nước mắt là sự thương
yêu của người mẹ đối với đứa con thơ.
Không chỉ trong tiểu thuyết tự truyện này
mà trong nhiều truyện ngắn khác, Nguyên
Hồng luôn hồi tưởng lại quá khứ. Quá khứ
ấy để lại trong lòng đứa trẻ vết sẹo không
dễ liền lại theo thời gian. Đó cũng là sức
hấp dẫn của tự truyện. Sau này Nguyễn
Đăng Mạnh có kể lại rằng, Nguyên Hồng

là người dễ xúc động và rất dễ khóc. Đấy là
cá tính mà cũng là phong cách của ông, nó
ảnh hưởng ngay trong văn chương.
Tô Hoài viết Cỏ dại hồi tưởng lại
quãng thời thơ ấu của chính mình. Bằng
giọng văn hóm hỉnh, dí dỏm, Tô Hoài đưa
người đọc trở ngược lại quá khứ về với
tuổi thơ ông, với cái tôi nội cảm đầy tâm
trạng của chú bé Bưởi, tên nhân vật chính
trong truyện: “Tôi gọi Nhâm vu vơ dưới
ngòi bút, trong ánh đèn dầu đêm mùa xuân
này. Có khi nào những dòng ký ức của anh
143


XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM…

nhà văn buộc phải vận dụng mọi tri thức
tích luỹ, mọi vốn sống để thực hiện điều
này. Đây là chỗ tạo nên sức hấp dẫn của tự
truyện đồng thời đây cũng là điểm tạo nên
sự mới lạ, gây sự tò mò của độc giả khi
tiếp nhận tiểu thuyết tâm lý (Thiếu quê
hương, Mực mài nước mắt, Sống mòn).
Đây là điểm hấp dẫn của tự truyện trong
giai đoạn này.
Tự truyện của nhiều nhà văn như Vũ
Bằng, Nguyên Hồng, Tô Hoài khá gần gũi
với tiểu thuyết tâm lý. Việc những tác
phẩm như Những ngày thơ ấu, Cai, Cỏ dại

chứa đựng nhiều chi tiết khó có thể kiểm
chứng đã nói lên điều đó. Sự mập mờ giữa
thực và ảo trong việc chọn chi tiết, tổ chức
“lắp ráp” nên hình tượng nhân vật, từ đó
bộc bạch những tâm sự sâu kín của nhân
vật mà cũng là tác giả, khiến cho việc đánh
giá quá trình dịch chuyển từ tự truyện sang
tiểu thuyết tâm lý trở nên phức tạp. Nhưng
cũng vì thế, tác phẩm còn giữ mãi sự cuốn
hút người đọc về mặt thể loại, ngay cả khi
tác phẩm được nhà văn ý thức thể loại rất
rõ ràng (trường hợp Cai, Vũ Bằng đặt tên
là hồi ký) thì sự tiếp nhận của người đọc
vẫn nghiêng về việc xem tác phẩm này là
một tiểu thuyết. Mà một cuốn tiểu thuyết
dứt khoát có sự hư cấu, nhiều chi tiết ảo
chứ không thật, nên có những khi nhân vật
chính trong tiểu thuyết Cai đã không chỉ
còn là hình bóng của chính nhà văn nữa.
Trong tiểu thuyết Cai, Vũ Bằng hồi tưởng
lại những ngày tháng vật vã cắt cơn nghiện
thuốc phiện của chính mình, còn độc giả
khi đọc lại chứng kiến sự biến chuyển
trong tâm trạng một nhân vật từng nghiện
thuốc phiện với bao cảm giác đáng sợ: “Tự
trong thẳm cùng của lòng tôi, nở lên một
cái ý tưởng rất não nùng là mong được chết
đơn độc ở một cái xó xỉnh nào, không có
một con mắt quen thuộc nào trông thấy”


[3; tr. 144]. Rồi người đọc xúc động với
tâm tình của Vũ Bằng khi gặp lại Liên
Hường, bạn tình và cũng là bạn nghiện
năm xưa: “Đến một ngã ba, chúng tôi từ
giã nhau như hai người bạn không may
trên đường đời. Nàng đi về với thuốc
phiện. Còn tôi, tôi đi về... nhà” [3, tr. 208].
Có thể thấy, trong tự truyện ở giai
đoạn này, cốt truyện không bao gồm nhiều
sự kiện, tình tiết éo le. Những biến cố trong
cuộc đời của tác giả không được miêu tả tỉ
mỉ với nhiều tình tiết gay cấn. Đổi lại nhà
văn thoải mái tận dụng những chi tiết,
những biến cố từng xảy ra với mình để bày
tỏ tâm trạng, chiêm nghiệm, suy tư. Từ
Những ngày thơ ấu (1939) của Nguyên
Hồng trở đi, đặc điểm nghệ thuật của tự
truyện đã tiệm cận đặc điểm nghệ thuật của
tiểu thuyết tâm lý, đó là lấy biểu hiện tâm
lý, lấy quá trình phân tích tâm lý làm đối
tượng phản ánh của tiểu thuyết.
Chính nhà văn Vũ Bằng, trong Khảo
về tiểu thuyết, [4; tr.56] lưu ý bạn đọc:
“Một nhân vật sống không cứ phải nói
nhiều, hò hét nhiều, hành động nhiều
nhưng tự gây ra sự tình, biến cố, chỉ định
lấy những cảnh ngộ, và cảm nghĩ rất phiền
phức. Sống đây là sống tất cả vật chất và
tinh thần, sống cái đời sống bên ngoài và
sống cả cái đời sống bên trong nữa – mà có

khi lại sống cái đời sống bên trong nhiều
hơn đời sống bên ngoài” [4; tr. 56]. Ý kiến
của Vũ Bằng đã chứng minh cho quan
điểm sáng tác của nhiều nhà văn lúc bấy
giờ, rằng viết tự truyện hay tiểu thuyết tâm
lý, việc chú ý gây dựng cho nhân vật cái
đời sống bên trong là quan trọng. Chính
đời sống bên trong của nhân vật mới đủ tạo
nên sức hấp dẫn của tác phẩm đối với bạn
đọc lúc bấy giờ cũng như sau này. Nhân
vật có đời sống bên trong là “nhân vật
sống” theo cách gọi của Vũ Bằng.
144


TRẦN THANH VIỆT

Rõ ràng là trong tự truyện, những chi
tiết, sự kiện thuộc về đời tư của nhà văn
trên thực tế chỉ còn là chất liệu, phương
tiện để nhà văn truyền tải những diễn biến
tâm lý vô cùng tinh vi, phức tạp trong tâm
hồn nhân vật chính, tức hình bóng của
chính mình, suy nghĩ của chính mình phản
chiếu lại trong cuốn tiểu thuyết. Những giãi
bày, tâm sự, những dằn vặt, đớn đau khi
hồi tưởng quãng đời đã trải qua lại trở
thành đối tượng chính của cuốn sách.
Trong khi đó, ở tiểu thuyết tâm lý, chính
quá trình biến chuyển tâm lý của nhân vật

lại là mục đích mà nhà văn hướng tới.
Chính những suy tư, trải nghiệm của nhân
vật chính trở thành mục đích của văn
chương. Những chuyện trong hiện tại chỉ là
cái cớ khơi gợi cho nhân vật chính hồi
tưởng câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ
để nghĩ suy, để độc thoại nội tâm, để lý
giải những gì xảy ra trong hiện tại. Ngay cả
khi đó, những gì xảy ra trong quá khứ cũng
có thể chỉ còn là cái cớ để nhân vật tỏ bày
tâm sự mà thôi.
Trong tự truyện của Nguyên Hồng, Tô
Hoài, Vũ Bằng.., từ việc sắp đặt các chi
tiết, sự kiện ít mang tính xác thực đến việc
tăng cường các tình huống tâm lý để lôi
cuốn người đọc dõi theo những diễn biến
tâm lý phức tạp của nhân vật, đã chứng tỏ
quá trình dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu
thuyết tâm lý diễn ra một cách liên tục.
Quá trình này được đánh dấu bởi hàng loạt
những tác phẩm như Những ngày thơ ấu
(1939) của Nguyên Hồng, Mực mài nước
mắt (1941) của Lan Khai, Cai (1943) của
Vũ Bằng, Cỏ dại (1944) của Tô Hoài, Sống
mòn (1944) của Nam Cao... Việc tăng
cường tình huống tâm lý, tăng cường ngôn
từ miêu tả cảm xúc để xây dựng nhân vật
trong tự truyện đã góp phần tạo nên quá
trình dịch chuyển nói trên.


Ngoài ra, từ nhân vật Tôi trong Những
ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, nhân vật
Khải trong Mực mài nước mắt của Lan
Khai, nhân vật Tôi trong Cai của Vũ Bằng
đến nhân vật Thứ trong Sống mòn của Nam
Cao, tiểu thuyết giai đoạn này đã chứng
kiến một quá trình vận động và phát triển:
dịch chuyển từ việc tập trung miêu tả hành
động của nhân vật sang tập trung miêu tả
tâm lý nhân vật, dịch chuyển từ việc xây
dựng nhân vật có nhiều yếu tố xác thực
trong tự truyện sang xây dựng nhân vật
mang nhiều yếu tố hư cấu trong tiểu thuyết
tâm lý.
Kết luận
Như vậy, văn học Việt nam giai đoạn
1930 – 1945 đã chứng kiến sự giao thoa
nghệ thuật giữa tự truyện với tiểu thuyết
tâm lý. Nhưng hơn hết, cùng với quá trình
dịch chuyển tiểu thuyết luận đề sang tiểu
thuyết tâm lý của các nhà văn trong nhóm
Tự lực văn đoàn, sự giao thoa này khẳng
định xu hướng dịch chuyển từ tự truyện
sang tiểu thuyết tâm lý với những dấu hiệu
nổi bật như những mảnh ghép số phận của
nhân vật trong tiểu thuyết tâm lý song
trùng với những mảnh ghép cuộc đời của
chính tác giả và những chi tiết, sự kiện
trong tự truyện lung linh giữa hai bờ thực
và ảo, khó kiểm chứng khiến cho tự truyện

gần gũi với tiểu thuyết. Sức hấp dẫn của tự
truyện với tiểu thuyết tâm lý là ở chỗ đó.
Đích đi đến của nhà văn viết tự truyện là
phân tích tâm lý. Đích đi đến của nhà viết
tiểu thuyết cũng chính là quá trình phân
tích tâm lý. Từ cơ sở trên, chúng tôi đi đến
nhận định: tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945 có sự dịch chuyển mạnh mẽ
từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. Điều
đó chứng tỏ tiểu thuyết hiện đại nước nhà
đã đạt được thành tựu rất lớn góp phần
hoàn tất quá trình hiện đại hoá nền văn học
145


XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM…

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

5. Nam Cao (2002), Nam Cao toàn tập tập 2,
Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
(2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
7. Tô Hoài (1995), Tự truyện, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Nguyên Hồng (2004), Bỉ vỏ, Những ngày thơ
ấu, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
9. Lan Khai (1999), Mực mài nước mắt, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
10. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác
phẩm văn xuôi Việt Nam tập 1, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn
học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Vũ Bằng (2006), Vũ Bằng toàn tập tập 1, Nxb
Văn học, Hà Nội.
4. Vũ Bằng (2006), Vũ Bằng toàn tập tập 4, Nxb
Văn học, Hà Nội.

Ngày nhận bài: 28/10/2017

tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

Biên tập xong: 15/7/2018

146

Duyệt đăng: 20/7/2018



×