Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng CAND trong đảm bảo an ninh quốc gia ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.16 KB, 159 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ BÍCH THẢO

PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA LỰC
LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN TRONG ĐẢM BẢO AN NINH
QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ BÍCH THẢO

PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA LỰC
LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN TRONG ĐẢM BẢO AN NINH
QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: CNDVBC&DVLS
Mã số: 9 22 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM XUÂN PHÚC



HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn trích dẫn rõ ràng. Các
kết quả nghiên cứu của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả

ĐỖ THỊ BÍCH THẢO


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.............................................................................................. 6
1.1. Những công trình nghiên cứu về nhân tố chủ quan và phát huy vai trò
nhân tố chủ quan............................................................................................................................. 6
1.2. Những công trình nghiên cứu lý luận cơ bản về an ninh quốc gia và
nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia .......16
Liên quan đến vấn đề này, có thể kể đến một số công trình sau: ........................... 16
1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp phát huy vai trò nhân tố
chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia ........................ 19
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho đề tài luận
án tiếp tục giải quyết.................................................................................................................. 23
Chƣơng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ
NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN
TRONG ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM.................................. 27

2.1. Nhân tố chủ quan và vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an
trong đảm bảo an ninh quốc gia............................................................................................ 27
2.2. Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm
bảo an ninh quốc gia: khái niệm và đặc điểm................................................................. 58
Chƣơng 3: PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA LỰC
LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN TRONG ĐẢM BẢO AN NINH
QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN
NHÂN.................................................................................................................................................... 72
3.1. Thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an
trong đảm bảo an ninh quốc gia............................................................................................ 72
3.2. Đánh giá thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng
công an trong đảm bảo an ninh quốc gia........................................................................ 104


Chƣơng 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY
VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN CỦA LỰC LƢỢNG CÔNG AN
NHÂN DÂN TRONG ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY....................................................................................................................................... 114
4.1. Một số yêu cầu phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công
an trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay ....................................... 114
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nhân tố chủ quan của
lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay ......117
KẾT LUẬN...................................................................................................................................... 141
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ................................... 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 144


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ANND

ANPTT

: An ninh nhân dân
:
n ninh phi tru ền thống

ANQG

: An ninh quốc gia

ANTT

: An ninh, trật tự

CAND

:

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

ĐKKQ

: Điều kiện khách quan

NTCQ

: Nhân tố chủ quan


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

Công an nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
An ninh quốc gia là vấn đề cơ bản, hệ trọng của quốc gia, là điều kiện
hàng đầu để quốc gia phát triển. Bảo vệ an ninh quốc gia có vị trí đặc biệt quan
trọng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Ý thức được điều đó,
Đảng và nhà nước ta luôn xác định: “Tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt” [41, tr.45].
Mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển của mình luôn có những
phương thức, cách thức, biện pháp khác nhau để đảm bảo an ninh quốc gia một
cách hiệu quả trên bình diện tổng thể, cũng như trong từng lĩnh vực. Nhận thức
nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc gia là trọng trách vô cùng khó khăn, đồng thời là
niềm vinh dự mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho lực lượng công an - thực
hiện vai trò nòng cốt đảm bảo an ninh quốc gia. Đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy và cán
bộ, chiến sĩ toàn lực lượng luôn quán triệt tinh thần, “Công an nhân dân vì nước
quên thân, vì nhân dân phục vụ”, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ.
Trong bối cảnh tình hình trong nước, khu vực và thế giới đang có nhiều
tha đổi, biến động phức tạp, tác động nhiều chiều đến công tác đảm bảo an ninh
quốc gia của lực lượng công an. S ự nghiệp đổi mới ở nước ta, tu đã đạt được

những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vẫn đứng trước những khó khăn,
thách thức lớn. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững; tốc độ tăng trưởng GDP

chưa cao, cơ cấu kinh tế có mặt chưa hợp lý, các ngu cơ chệch hướng, tụt hậu
xa hơn về kinh tế chưa bị đẩy lùi. Tình hình an ninh các vùng chiến lược còn
tiềm ẩn ngu cơ mất ổn định. Các thế lực thù địch gia tăng hoạt động “diễn
biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, tha
đổi chế độ XHCN ở nước ta. Xu thế toàn cầu hóa và cách mạng khoa học
- công nghệ phát triển nhanh, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
1


tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức, làm chuyển biến mạnh mẽ, sâu
sắc các mối quan hệ chính trị - xã hội, đem lại những lợi ích to lớn cho nhân
loại, nhưng cũng bị các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm sử
dụng đe dọa hòa bình và ổn định chung. Các ngu cơ an ninh phi tru ền thống
diễn biến phức tạp. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thực tiễn đòi hỏi lực
lượng công an phải luôn luôn cảnh giác, có những biện pháp hữu hiệu đấu tranh
với những những luận điệu sai trái, phá hoại chính trị tư tưởng cũng như những
hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, hòng gây áp lực đòi xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, đòi đa đảng, đòi tha đổi chế độ.
Vận dụng quan điểm triết học Mác - Lênin trong giải quyết mối quan hệ
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm
bảo an ninh quốc gia, trước hết đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ công an phải là người
giác ngộ chính trị cao, có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu về
pháp luật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn, khoa học công nghệ
hiện đại; có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có sức dẻo dai về tâm lý, cường
tráng về thể chất…Thực chất, những đòi hỏi này chính là yêu cầu phát phát huy
vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia.
Trong nhận thức cũng như trong nghiên cứu hiện đang tồn tại một số quan điểm
khác nhau khi đưa ra quan niệm về nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan; mối
quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan cũng như vai
trò và cơ chế hoạt động của nhân tố chủ quan trong sự vận động của quy luật xã

hội. Ở góc độ an ninh quốc gia, hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến
khía cạnh nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn… trong đảm bảo an ninh quốc gia
trên từng lĩnh vực cụ thể và chủ yếu liên quan đến công tác nghiệp vụ công an.
Việc khai thác vấn đề thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc gia từ góc độ
nhân tố chủ quan trong bối cảnh hiện nay của đất nước chưa thấy có công trình
nghiên cứu nào đề cập.

2


Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, chuyên sâu về vấn
đề phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an
ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay là rất cấp thiết.
Xuất phát từ những phân tích trên, chúng tôi chọn đề tài “Phát huy vai trò
nhân tố chủ quan của Lực lượng Công an nhân dân trong đảm bảo an ninh
quốc gia ở Việt Nam hiện nay” làm Luận án Tiến sĩ, chu ên ngành CNDVBC và
DVLS.

2. Mục đích, nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng về phát huy vai trò
của nhân tố chủ quan của lực lượng Công an Nhân dân, luận án đề xuất một số
yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực
lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án;
Hai là, làm rõ một số vấn đề lý luận về phát huy vai trò của nhân tố chủ

quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam hiện nay;
Ba là, phân tích thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực

lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam hiện nay; Chỉ rõ những ưu
điểm và hạn chế cùng với nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế trong phát huy vai
trò NTCQ của lực lượng công an.
Bốn là, đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hiệu
quả vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt
Nam hiện nay.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phát huy vai trò của nhân tố chủ quan của lực
lượng công an nhân dân trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu, khảo sát vấn đề phát
huy vai trò của nhân tố chủ quan của lực lượng công an nhân dân trong đảm bảo

3


an ninh quốc gia trên toàn lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam từ năm 2013 đến
nay (Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 của Ban chấp hành Trung ương
đảng khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới).

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tố chủ quan và phát huy vai trò nhân
tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia.
Phương pháp nghiên cứu là dựa trên các nguyên tắc, quan điểm của chủ
nghĩa du vật biện chứng và chủ nghĩa du vật lịch sử: phương pháp phân tích tổng
hợp, phương pháp qu nạp, diễn dịch, phương pháp kết hợp lịch sử - logic,
phương pháp so sánh, phương pháp sử dụng chu ên gia và các phương pháp
chung của khoa học xã hội.


5. Cái mới của luận án
Về lý luận: Luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về phát huy vai
trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam;
luận án cũng làm nổi bật những ưu điểm và hạn chế trong việc phát huy vai trò
nhân tố chủ quan của lực lượng công an hiện nay.
Về thực tiễn: Luận án là công trình góp phần tổng kết thực tiễn phát huy
vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG, chỉ rõ
những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và ngu ên nhân, làm cơ sở đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phát huy vai trò nhân tố chủ quan của lực lượng
công an trong đảm bảo ANQG ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần hệ thống hóa quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và những nhà nghiên cứu mácxít về vấn đề NTCQ và vai trò NTCQ.
Trên cơ sở làm rõ vai trò NTCQ của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG, luận
án đã đưa ra êu cầu và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phát huy vai trò
nhân tố chủ quan của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG.

4


Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, học tập về những vấn đề liên quan đến nhân tố chủ quan, nhân tố chủ
quan của lực lượng công an nhân dân trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt
Nam hiện nay. Các kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có ý nghĩa khu ến nghị
trong việc nâng cao hiệu quả việc phát huy vai trò của nhân tố chủ quan của lực
lượng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay.

7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được

cấu trúc thành 4 chương, 10 tiết.

5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu về nhân tố chủ quan và phát huy
vai trò nhân tố chủ quan
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về nhân tố chủ quan và vai trò của
nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan và vai trò của nhân tố chủ quan là đối tượng nghiên cứu
của nhiều tác giả, với nhiều công trình khoa học. Các công trình nghiên cứu này
đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề nhân tố chủ quan và vai trò nhân
tố chủ quan, tiêu biểu là các công trình của các tác giả sau đâ .
Trong các nghiên cứu của tác giả Liên Xô (cũ), có thể kể đến các công trình
“Phép biện chứng về điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng
chủ nghĩa cộng sản” của G.E.Gleserman, Tạp chí “Những vấn đề triết học” [47]; tác
phẩm “Cái khách quan và chủ quan” của V.Ph.Cudơmin [108]; tác phẩm “Biện
chứng của cái khách quan và cái chủ quan trong sự biểu hiện của các quy luật xã
hội” của A.Ph.Iaxkevich, Minxcơ; tác phẩm “Biện chứng của cái khách quan và cái
chủ quan trong CNXH phát triển” của tập thể tác giả, Kiep, 1980; bài “Cái chủ quan
và cái khách quan trong các quá trình xã hội” của B.A.Vôrônôvích, Tạp chí “Các
khoa học triết học”, số 3/1984… Các công trình của các nhà triết học Liên Xô (cũ)
kể trên có điểm giống nhau chủ yếu là đề cập đến vấn đề khách quan, chủ quan liên
quan đến việc vận dụng các quy luật xã hội trong quá trình xây dựng CNXH. Các
tác giả đã xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng để xem xét cái khách quan, cái
chủ quan, nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan, cũng như quan hệ biện chứng
giữa cái khách quan và cái chủ quan và vấn đề phát huy vai trò của nhân tố chủ

quan trong quá trình xây dựng CNXH và Chủ nghĩa Cộng sản. Những nghiên cứu
này mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu lý luận cơ bản và sự vân dụng đối với
công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô. Vấn đề vận dụng vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam thì không được đề cập.

6


Ở Việt Nam, liên quan đến các vấn đề này, có các công trình như bài viết
của tác giả Hồ Văn Thông - “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa nhân tố chủ
quan và nhân tố khách quan trong thực tiễn” [96, tr.195-221]. Trong công trình
này, tác giả đã bàn về mối quan hệ khách quan - chủ quan liên hệ với phạm trù
vật chất, ý thức; từ đó, chỉ ra sự giống và khác nhau giữa 2 cặp phạm trù này.
Viện dẫn quan điểm của V.I.Lênin và qua sự phân tích của mình, tác giả đi đến
kết luận: Khách quan là tất cả những gì không phụ thuộc vào chủ thể hoạt động
và chủ quan là tất cả những gì phụ thuộc vào chủ thể hoạt động. Chủ quan và
khách quan có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với nhau; nhưng ếu tố khách
quan bao giờ cũng giữ vai trò cơ sở qu định nhân tố chủ quan và là nguyên tắc cơ
bản về thế giới quan - vật chất quyết định ý thức. Trong công trình này, tác giả
còn đặt vấn đề cần phải phân biệt rõ đâu là bản chất, khả năng khách quan sẵn có
trong thực tế và đâu là trách nhiệm, nỗ lực chủ quan của con người làm chuyển
biến những khả năng khách quan đó thành hiện thực. Đề cao vai trò nhân tố chủ
quan nhưng tác giả khẳng định rằng, đâ là quan điểm dựa trên cơ sở duy vật khoa
học và khác biệt hoàn toàn với chủ nghĩa chủ quan; đồng thời khẳng định rằng,
sức mạnh chủ quan chính là ở chỗ biết sử dụng sức mạnh của thế giới khách
quan.
Mác- Ăngghen- Lênin- Stalin bàn về mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan
và khách quan [30]. Đâ là tài liệu dùng cho các lớp quản lý, trình bày các quy
luật xã hội, các hoạt động của con người trong lịch sử, tính khách quan của quy
luật xã hội, vai trò của nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội, mối quan hệ

giữa điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Vai
trò của Đảng, Nhà nước chuyên chính vô sản, và của quần chúng trong việc phát
huy nhân tố chủ quan. Công trình chưa đề cập và phân tích cấu trúc của NTCQ
mà chủ yếu đi vào trình bày nội dung vai trò của quy luật khách quan.
Trong bài viết “Nhân tố chủ quan trong cơ chế vận dụng và trong hoạt
động của các quy luật xã hội” [48], tác giả Lương Việt Hải đã đề cập tới những
quan niệm khác nhau về vấn đề phép biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ

7


quan trong cơ chế tác động và trong sự vận dụng các quy luật xã hội, từ đó chỉ ra
những quan niệm chưa hợp lý về vai trò nhân tố chủ quan. Ví dụ như khi coi
nhân tố chủ quan chỉ là hoạt động tự giác của chủ thể hoặc nhân tố chủ quan là
lao động sống…Từ đó, tác giả đưa ra cách hiểu khác về nhân tố chủ quan để trên
cơ sở đó vận dụng, xác định vai trò của nó trong sự hoạt động động của các quy
luật xã hội. Nhân tố chủ quan, theo tác giả, là loại hoạt động mang tính tích cực,
năng động và sáng tạo của chủ thể phù hợp với yêu cầu, điều kiện, nội dung, bản
chất của các quy luật, bao gồm hai dạng hoạt động: Dạng thứ nhất là hoạt động
phù hợp với yêu cầu, quy luật khách quan do chủ thể chủ động thực hiện nên đã
nhận thức được nội dung, bản chất của sự vật- đó chính là hoạt động tri giác.
Dạng thứ hai chính là hoạt động của chủ thể phù hợp với yêu cầu quy luật khách
quan nhưng chủ thể chưa nhận thức được tính tất yếu, nội dung của quy luật
chưa nhận thức được bản chất của sự vật. Ở dạng hoạt động này, chủ thể chưa
thấ rõ được tiến trình phát triển của sự vật, chưa chủ động điều khiển hành động
của mình và tiến trình phát triển của sự vật cho phù hợp với quy luật song chủ
thể có thể dần dần điều chỉnh hoạt động của mình để phù hợp với tiến trình phát
triển của sự vật. Dạng hoạt động này được tác giả đánh giá là hoạt động mang
tính chất khám phá rõ nét và dựa trên cơ sở chưa có đầ đủ sự nhận thức đúng đắn
về sự vật.

Để đưa ra quan niệm này, theo tác giả, hoạt động con người do ý thức điều
khiển nhưng có loại hoạt động được điều khiển bởi ý thức phản ánh đúng, phù
hợp điều kiện khách quan, thể hiện tính tích cực, năng động, sáng tạo của chủ thể
(nhân tố chủ quan); có loại hoạt động điều khiển bởi ý thức phản ánh sai, không
phù hợp với quy luật khách quan. Khi ý thức phản ánh không phù hợp với hiện
thực khách quan thì chủ thể không thể nhận thức được quy luật khách quan,
không thấ được bản chất của sự vật. Hoạt động này của chủ thể chính là hoạt
động tự phát và không thuộc về nhân tố chủ quan.
Xem xét vấn đề nhân tố chủ quan, phát huy vai trò nhân tố chủ quan, tác
giả cũng lưu ý phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể. Khi những điều kiện
khách quan đã chín muồi thì nhân tố chủ quan có điều kiện để phát huy sức

8


mạnh tối đa của mình. Có thể thấy rằng, những quan điểm nghiên cứu trên của
tác giả là nguồn tài liệu rất quý cho chúng tôi học tập, nghiên cứu và vận dụng
trong nghiên cứu của mình.
Tác giả Phạm Văn Đức, trong bài viết “Vị trí và vai trò của nhân tố chủ
quan trong cơ chế hoạt động của quy luật xã hội” [44] đã cho rằng, trước hết phải
hiểu đúng khái niệm nhân tố để đưa ra êu cầu phải hiểu nhân tố chủ quan là
những ngu ên nhân và điều kiện xuyên suốt, là một trong những cái quyết định
cơ bản và bền vững của quá trình lịch sử.
Chỉ ra những thiếu sót trong các quan niệm khác nhau về nhân tố chủ
quan, tác giả khẳng định, nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan là những mặt
đối lập, tác động lẫn nhau trong bất kì hoạt động nào (hoạt động sản xuất vật
chất, hoạt động chính trị tư tưởng, hoạt động tự giác, hoạt động tự phát). Nhân tố
khách quan là toàn bộ những yếu tố tự nhiên và xã hội có quan hệ với chủ thể
nhất định; là những yếu tố không phụ thuộc vào ý thức của chủ thể và quyết định
ý thức hoạt động của chủ thể. Nhân tố chủ quan của quá trình lịch sử là cái đối

lập với nhân tố khách quan, là cái duy trì hoặc biến đổi nhân tố đó, là cái được
đối tượng hóa trong những nhân tố khách quan của hoạt động tiếp theo. Từ phân
tích trên, tác giả đưa ra quan niệm về nội dung của nhân tố chủ quan gồm hai
thành phần cơ bản là hoạt động sống trực tiếp và ý thức định hướng hoạt động
đó, cũng như những chất lượng xác định của chủ thể hành động (như tính qu ết
đoán, tính tổ chức…). Tác giả nhấn mạnh rằng, nhân tố chủ quan là một bộ phận
không thể thiếu trong cơ chế hoạt động của quản lý xã hội. Nó vừa là phương
tiện điều chỉnh, vừa là nguyên nhân hoạt động và một trong những đặc điểm
quan trọng của nhân tố chủ quan là sự tác động của chúng gắn liền với sự thúc
đẩy. Từ đó, tác giả kết luận, nhân tố khách quan ảnh hưởng hết sức to lớn, giữ
vai trò quyết định những đặc điểm của cơ chế hoạt động của quản lý xã hội. Tuy
nhiên, nhân tố chủ quan đóng vai trò không nhỏ, nhân tố khách quan chỉ có thể
thể hiện vai trò quyết định của mình khi chúng tìm thấy sự khúc xạ của mình
trong lĩnh vực chủ quan. Đặc biệt, khi đã được hình thành, nhân tố chủ quan

9


đóng vai trò trong quyết định đối với sự tồn tại và biến đổi các nhân tố khách
quan ở giai đoạn sau. Những nghiên cứu của tác giả giúp chúng tôi nắm rõ cơ
chế hoạt động của các quy luật xã hội và thấy nó không chỉ phụ thuộc vào nhân
tố khách quan, mà phụ thuộc cả những yếu tố của nhân tố chủ quan, để từ đó có
cơ sở lý giải vị trí, vai trò của nhân tố chủ quan.
Tác giả Phạm Văn Nhuận, trong bài “Một cách tiếp cận về cặp phạm trù
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan” [85], có cách nhìn nhận khác về vấn
đề điều kiện khách quan, điều kiện chủ quan. Tác giả xem điều kiện khách quan
là tổng thể các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ tồn tại ở bên ngoài chủ thể, độc
lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, thường xu ên tác động, quy
định hoạt động của chủ thể trong mỗi hoạt động xác định. Từ quan niệm này, tác
giả xem phạm trù điều kiện khách quan luôn gắn liền với một quá trình, một hoạt

động cụ thể. Do đó, theo tác giả, cần phải phân biệt phạm trù khách quan với
điều kiện khách quan, chủ quan với nhân tố chủ quan. Tiếp tục phân tích và chỉ
ra những thiếu sót trong các quan niệm khác nhau về điều kiện khách quan, nhân
tố chủ quan, tác giả kết luận rằng, nhân tố chủ quan là tất cả những nhân tố, đặc
trưng hợp thành phẩm chất và năng lực nhận thức, năng lực tổ chức hoạt động
thực tiễn của chủ thể, được hu động vào những hoạt động cụ thể dưới sự chi
phối, thúc đẩy của nguồn gốc - động lực nội tại, tạo nên tính năng động sáng tạo
của chủ thể nhằm cải biến điều kiện khách quan trong quá trình thực hiện mục
tiêu xác định do chủ thể đặt ra.
Trong bài “Tìm hiểu về khái niệm nhân tố chủ quan của đời sống xã hội”
[100] tác giả Nguyễn Thị Bích Thủ đặt vấn đề, để nghiên cứu, nhận thức, giải
thích và cải tạo xã hội, triết học mácxít sử dụng hệ thống phạm trù: lực lượng sản
xuất - quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội - ý
thức xã hội,… phản ánh cấu trúc của đời sống xã hội. Việc sử dụng phạm trù:
chủ thể - khách thể, chủ quan - khách quan, nhân tố chủ quan - nhân tố khách
quan là để phản ánh quá trình vận động, biến đổi, phát triển của đời sống xã hội.
Tác giả nhấn mạnh rằng, tự mình chủ quan và khách quan không là nhân tố, chỉ

10


trong hoạt động (tác động giữa chủ thể và khách thể) đặt trong những điều kiện nhất
định chúng mới trở thành động lực thúc đẩy sự cải biến xã hội. Từ đó tác giả khẳng
định, nhân tố chủ quan là tổng hợp tất cả những phẩm chất khoa học, lý luận, tư
tưởng, niềm tin, ý chí quyết tâm, tính tổ chức, … của chủ thể, được bộc lộ trong
hoạt động và trở thành động lực của sự phát triển xã hội. Nó bao gồm những phẩm
chất cơ bản của chủ thể, như tri thức khoa học, lý luận, tư tưởng, mục đích, tình
cảm, niềm tin, đạo đức, ý chí quyết tâm hoạt động; kế hoạch, nội dung, phương
pháp hoạt động. Những phẩm chất nà được thể hiện trong hoạt động của chủ thể


và trở thành lực lượng vật chất có sức mạnh cải tạo hiện thực.
Với những điều đã trình bà trên, có thể thấy rằng, nhìn chung, vấn đề
NTCQ và vai trò NTCQ đã được các tác giả đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau.
Hầu hết các tác giả đều thống nhất quan điểm rằng, NTCQ bị chi phối bởi điều
kiện khách quan, do điều kiện khách quan qu đinh. Nhưng NTCQ có tính độc lập
tương đối, có thể tác động trở lại và làm biến đổi điều kiện khách quan.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về vấn đề phát huy vai trò nhân tố
chủ quan
Liên quan đến nội dung này, có thể kể đến bài viết của tác giả Sergeev Những đặc điểm của phép biện chứng giữa các điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan trong việc quản lý xã hội, xã hội chủ nghĩa trong cuốn “Quản lý xã hội
một cách khoa học” của V.G Afanasev chủ biên [117, tr.46-90]. Trong nội dung
này, tác giả đã đề cập đến mối tương quan giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan và chúng là điều kiện vô cùng quan trọng của việc quản lý xã hội một
cách khoa học. Tác giả cho rằng, nhân tố chủ quan lớn lên từ những điều kiện
lịch sử và những quan hệ xã hội nhất định, mà những điều kiện và quan hệ này
quyết định nội dung, nhịp độ và phương hướng phát triển của nó. Nhân tố chủ
quan được quyết định thực sự bằng những điều kiện khách quan nhưng nó hoàn
toàn không phải là kết quả máy móc, là sự phản ánh thụ động, vô vị những điều
kiện ấy. Trong bài viết này, tác giả còn chỉ ra những nguyên nhân của chủ nghĩa
chủ quan cũng như nhấn mạnh việc nghiên cứu mối quan hệ giữa điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan phải có quan điểm lịch sử.

11


Trong bài viết Nhân tố chủ quan và các điều kiện khách quan trong quản lý
xã hội chủ nghĩa [58], tác giả Vũ Hu đã đặt vấn đề sự tác động qua lại giữa các hệ
thống quản lý và các hệ thống bị quản lý trong xã hội có liên quan mật thiết đến vấn
đề chủ thể - khách thể, nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan, trên cơ sở đó, tác
giả đưa ra quan điểm về điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan gắn liền với sự

phát triển xã hội. Theo tác giả, những điều kiện khách quan không phụ thuộc vào ý
chí của các tập đoàn, đảng phái, giai cấp. Đó là tiêu chuẩn làm cho phạm trù “điều
kiện khách quan” khác với phạm trù “nhân tố chủ quan”. Nhân tố chủ quan của sự
phát triển xã hội là hoạt động có ý thức, có tổ chức của mọi người nhằm giải quyết
những nhiệm vụ lịch sử nhất định và đạt tới những mục tiêu nhất định. Do đó, nhân
tố chủ quan của quản lý có một cơ cấu tổ chức phức tạp gồm các chính đảng, Nhà
nước và hệ thống cơ quan chu ên ngành của Nhà nước, các tổ chức xã hội, những
người hoạt động trong tổ chức chính trị, Nhà nước, xã hội để đề xuất và thông qua
cùng tổ chức thi hành các nghị quyết quản lý. Hạt nhân của nhân tố nà là Đảng.
Đảng chịu trách nhiệm cơ bản trong việc lãnh đạo toàn bộ hệ thống xã hội cũng như
từng khâu của hệ thống này.
Trong bài viết Vai trò của nhân tố chủ quan trong sự thống nhất ba lợi ích
[79], tác giả Nguyễn Chí Mỳ đã chứng minh rằng, loài người bao giờ cũng hoạt
động theo những lợi ích nhất định. Trong quá trình hoạt động đó, con người tạo ra
hàng chuỗi những sự kiện tất yếu khách quan làm tha đổi tồn tại xã hội. Chính vì
vậy, họ tạo ra những điều kiện thuận lợi, cơ sở để xây dựng thành công CNXH. Qua
đó, tác giả đưa ra êu cầu phải có sự thống nhất ba lợi ích (Cá nhân - Tập thể

- Xã hội) và để thực hiện được điều đó phải phát huy vai trò nhân tố chủ quan
trong việc thống nhất ba lợi ích thành động lực mạnh mẽ để phát triển XHCN.
Tác giả Trần Bảo trong bài viết Về những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; những yếu tố cơ bản làm tăng
cường chất lượng của nhân tố chủ quan trong xây dựng CNXH [18] đã đưa ra
những nghiên cứu về phương pháp và tiêu chuẩn để phân biệt những điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan trong đời sống xã hội, phân cấp độ, trình độ

12


khác nhau của điều kiện khách quan đến hoạt động của chủ thể để từ đó chủ thể

chủ động tiến hành hoạt động đạt kết quả để tránh những sai lầm và trên cơ sở đó
phát hu cao độ nhất sức mạnh của nhân tố chủ quan. Trong công trình này, tác
giả cũng chỉ ra nhân tố chủ quan và xây dựng chủ nghĩa xã hội là toàn bộ hoạt
động của chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội
là Đảng Cộng sản, nhà nước và quần chúng nhân dân lao động. Vì vậy, nhân tố
chủ quan ở đâ là toàn bộ hoạt động của Đảng Cộng sản, nhà nước và quần chúng
nhân dân lao động. Toàn bộ những hoạt động nà đều nhằm thực hiện một mục
đích thống nhất là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Theo tác giả, những
hoạt động này có những chức năng và tính chất khác nhau tương ứng với mỗi bộ
phận cụ thể của chủ thể. Để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của nhân tố
chủ quan trong xây dụng chủ nghĩa xã hội, tác giả chỉ ra những vấn đề phức tạp
cần tập trung giải quyết, đó là, thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
việc nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan để phát
huy tích cực sáng tạo của nhân tố chủ quan; thứ hai, lợi ích vật chất bộ phận
quan trọng nhất trong cơ chế tác động của các quy luật khách quan, yếu tố cơ
bản kích thích hoạt động sáng tạo của nhân tố chủ quan.
Tác giả Trần Thành trong bài viết Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc
định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay [96] đã
đề cập tới vấn đề phải tiếp tục phát huy vai trò nhân tố chủ quan, trước hết là vai
trò lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước để tạo ra sự đồng thuận xã
hội và có những căn cứ, việc làm, bước đi cụ thể nhằm xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Và để làm đúng điều đó, tác giả chỉ ra rằng, cần phải có niềm tin
vững chắc trên tinh thần thật sự khoa học về mô hình kinh tế nà ; nâng cao năng
lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức Đảng; tiếp tục đổi mới, nâng cao vai trò và
hiện thực quản lý kinh tế của Nhà nước, bảo đảm thúc đẩy nền kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

13



Ngoài các công trình trên, đã có một số luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề
nhân tố chủ quan nói chung.
Tác giả Lê Hữu Xanh, trong Luận án tiến sĩ Nâng cao vai trò nhân tố chủ
quan trong việc xây dụng đội ngũ cán bộ Đảng viên ở nông thôn nước ta hiện nay
[113], đã khẳng định, vấn đề vai trò nhân tố chủ quan liên quan trực tiếp đến yếu tố
con người. Trong công trình này, tác giả đi sâu vào phân tích và đưa ra những
nguyên tắc và giải pháp phát huy vai trò NTCQ trong xây dựng đội ngũ cán bộ
Đảng viên ở nông thôn [113, Tr. 57- 132]. Trong đó, tác giả tập trung vào các giải
pháp, như: (a) làm sáng tỏ quan điểm lý luận về đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội
nông thôn theo định hướng XHCN; trên cơ sở đó, tác giả cho rằng, cần quán triệt
trong đội ngũ cán bộ đảng viên các quan điểm, chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước về đổi mới kinh tế nông thôn. (b) Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng của các tổ chức Đảng cơ sở nông thôn.
(c) Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và nâng cao
trình độ dân trí chung của nông dân. (d) Tạo điều kiện khai thác và phát huy mặt
tích cực trong các quan hệ xã hội nông thôn [113, Tr. 93-152].

Luận án Tiến sĩ Tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở
Việt Nam của tác giả Dương Thị Liễu [64] đã đưa ra định nghĩa về nhân tố chủ
quan: “Nhân tố chủ quan là toàn bộ hoạt động của chủ thể (hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn) nhằm thực hiện mục đích của mình và những thuộc tính,
phẩm chất, trạng thái của chủ thể được biểu hiện (định hướng) trong hoạt động
đó” [68, tr. 20]. Tuy nhiên, khi phân tích nội dung phát huy vai trò NTCQ trong
quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, tác giả lại chưa làm rõ
khái niệm phát huy vai trò NTCQ trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường là như thế nào [68, tr. 75-100].
Trong Luận án tiến sĩ Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan trong phát triển lý tưởng XHCN ở thanh niên quân đội Nhân dân Việt
Nam hiện nay [102] tác giả Nguyễn Đức Tiến cho rằng, NTCQ là trình độ về


14


mọi mặt của thanh niên quân đội, tác giả nhận định sự phát triển lý tưởng XHCN
là kết quả của tác động biện chứng giữa điều kiện khách quan (môi trường sống
và hoạt động của thanh niên quân đội) và NTCQ [102, tr.12-72]. Trên cơ sở làm
rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan trong phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở thanh niên quân
đội Nhân dân Việt Nam, tác giả đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển lý
tưởng XHCN ở thanh niên quân đội: (1) Xây dựng môi trường lành mạnh, ngăn
chặn các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến thanh niên quân đội. (2) Nâng cao
chất lượng giáo dục và tự giáo dục chính trị, tư tưởng. (3) Kết hợp chặt chẽ giữa
xây dựng hệ thống giá trị với giáo dục định hướng giá trị cho thanh niên quân
đội [102, tr.119-157].
Tác giả Phạm Ngọc Minh trong công trình Về nhân tố chủ quan và nhân tố
khách quan, một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay [83] đã tập trung
nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan
trong thời kỳ cả nước tiến lên CNXH [83, tr. 43-76] và đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan ở nước ta như nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, vai trò của nhân dân [83, tr. 76-88]. Cũng
ở nghiên cứu này, khi trình bày kết luận về mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện
khách quan và NTCQ, tác giả đã đưa ra sơ đồ thể hiện mối quan hệ này trong khuôn
khổ hoạt động của con người. Sơ đồ đó giúp chúng ta thấy mối quan hệ phụ thuộc
qua lại lẫn nhau giữa chủ thể - khách thể, cái chủ quan – cái khách quan, nhân tố
chủ quan – nhân tố khách quan, cũng như tác động giữa tất cả các yếu tố này trong
vòng tuần hoàn hoạt động của con người [83, tr. 42].

Tác giả Nguyễn Tiến Thủ trong Luận án tiến sĩ Biện chứng giữa chủ thể
và Khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học

tập của sinh viên Việt Nam hiện nay [98]. Cho rằng, giải quyết mối quan hệ giữa
chủ thể và khách thể thực chất là giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của
triết học; là để trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không? [98, tr.11- 54]. Trên cơ sở lý luận của triết học Mác-Lênin về mối

15


quan hệ chủ thể, khách thể, luận án bàn về vai trò, vị trí chủ thể của sinh viên
trong học tập, nghiên cứu khoa học [98, tr. 69- 149]. Tuy luận án không đề cập
trực tiếp đến NTCQ và vai trò NTCQ, nhưng những nghiên cứu của tác giả là
nguồn tài liệu quý báu để chúng tôi tham khảo trong nghiên cứu quan điểm triết
học Mác-Lênin về lý luận nhận thức và vận dụng nó trong nghiên cứu của mình.
Tác giả Phạm Văn Nhuận trong Luận án tiến sĩ Mối quan hệ giữa điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong phát triển bản chất giai cấp công
nhân của quân đội nhân dân Việt Nam [85] đã có những nghiên cứu khái quát
cặp phạm trù ĐKKQ và NTCQ, trên cơ sở đó, theo tác giả, thì mới có cơ sở để
nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa ĐKKQ và NTCQ trong phát triển bản chất
giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân việt Nam.
Trong Luận án tiến sĩ Phát huy nhân tố con người đội ngũ cán bộ bộ đội biên
phòng trong bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia hiện nay [56]. Tác giả
Nguyễn Đình Hùng cho rằng, nhân tố con người là tổng hòa các đặc trưng về phẩm
chất, năng lực của con người được hình thành và phát triển gắn liền với hoạt động của
con người. Nhân tố con người đội ngũ cán bộ bộ đội biên phòng là tổng hòa các đặc
trưng về phẩm chất, năng lực của họ, gắn liền với hoạt đông tích cực, sáng tạo trong
việc bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia [56, tr.14-74]. Trong công trình này,
tác giả đưa ra những định hướng và giải pháp cơ bản phát huy nhân tố con người trong
bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, như: Nâng cao chất lượng công tác cán
bộ, chất lượng công tác giáo dục, đào tạo, hoàn thiện chính sách xã hội, hậu phương
quân đội, đẩy mạnh xây dựng môi trường lành mạnh trong đơn vị và nơi đóng quân và

cuối cùng là tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy các cấp.
Những biện pháp này của tác giả là nguồn tài liệu giúp chúng tôi trong việc định hướng
nghiên cứu về những giải pháp trong nghiên cứu của mình.

1.2. Những công trình nghiên cứu lý luận cơ bản về an ninh quốc gia
và nhân tố chủ quan của lực lƣợng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia
Liên quan đến vấn đề này, có thể kể đến một số công trình sau:
Công trình Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới một số vấn đề lý luận và
thực tiễn [110]: Các tác giả đã nêu quan điểm tư du mới về bảo vệ Tổ quốc,

16


thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng quân đội nhân dân
vững mạnh về chính trị. Theo đó, trong công trình này, các tác giả khẳng định, tư
duy mới nhiệm vụ quốc phòng ngày nay không chỉ nhằm chống chiến tranh xâm
lược, bảo vệ chủ quyền quốc gia, mà còn gắn chặt với yêu cầu bảo vệ an ninh
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, khoa học, công nghệ, văn hóa, xã
hội. Ở đâ , các tác giả chủ yếu đặt ra yêu cầu xây dựng quân đội vững mạnh trên
cơ sở xây dựng bản lĩnh chính trị, chú trọng công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức
cho cán bộ, chiến sĩ.
Giáo trình Những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia (Học viện An
ninh nhân dân, Hà Nội, 2004): Đâ là cuốn sách giáo khoa sử dụng trong nội bộ;
bao gồm những vấn đề cơ bản về ANQG, bảo vệ ANQG và những quan điểm tư
tưởng chỉ đạo đảm bảo ANQG.
Xây dựng lực lượng CAND trong tình hình mới (Viện Chiến lược và Khoa
học Công an, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 2006): Đâ là cuốn sách lưu hành
nội bộ, trình bày những vấn đề về xây dựng lực lượng, những yếu tố tác động
đến công tác xây dựng lực lượng cũng như những giải pháp cơ bản nhằm xây
dựng lực lượng trong tình hình mới.

Bảo vệ ANQG, an ninh kinh tế và các quyền con người bằng pháp luật hình
sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền [26]: các tác giả nghiên cứu
những vấn đề chung về ANQG, an ninh quốc tế và các quyền con người dưới góc độ
luật hình sự [26, Tr. 19- 46], từ đó rút ra đặc điểm bảo vệ ANQG bằng pháp luật
hình sự [26, Tr.77- Tr.91]. Mặc dù nghiên cứu vấn đề NQG dưới góc độ pháp luật
hình sự, nhưng những nghiên cứu của tác giả cũng giúp chúng tôi có thêm những
cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này trong nghiên cứu của mình.

Hội nhập kinh tế quốc tế những vấn đề đặt ra đối với công tác công an
[55]: Thông qua 4 chu ên đề, bằng những câu hỏi và trả lời, cuốn sách đã cho
người đọc thấy bức tranh tổng thể nhưng rất cụ thể, dễ nắm bắt về hội nhập kinh
tế quốc tế, những vấn đề đặt ra với công tác đảm bảo ANQG, công tác gìn giữ
trật tự ATXH, công tác xây dựng lực lượng và công tác hậu cần - kỹ thuật trong

17


C ND. Đâ thực sự là nguồn tài liệu phong phú giúp chúng tôi trong quá trình
nghiên cứu vấn đề đảm bảo ANQG trong thời đại toàn cầu hóa mà chúng tôi
quan tâm.
Nghệ thuật bảo vệ ANQG: lý luận và thực tiễn [107]: Từ những lý giải thế
nào là ANQG, lịch sử hình thành và phát triển nghệ thuật bảo vệ ANQG, tác giả
đã nghiên cứu nghệ thuật bảo vệ ANQG trong thực tiễn đấu tranh bảo vệ ANQG
[107, Tr.9-200]. Theo tác giả, nghệ thuật bảo vệ ANQG là sự kết tinh mưu trí,
sáng tạo trong đấu tranh với các thế lực thù địch của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy,
cán bộ, chiến sĩ công an [107, Tr.20]. Cách tiếp cận vấn đề này của tác giả có
điểm tương đồng với cách tiếp cận của chúng tôi khi nghiên cứu về NTCQ và
phát hu vai trò NTCQ trong đảm bảo ANQG; vì vậy, chuyên khảo này là nguồn
tài liệu quý báu cho chúng tôi tham khảo.
Công trình Công an nhân dân Việt Nam với tác phẩm Tư cách người công

an cách mệnh của Hồ Chí Minh [62]: khẳng định tác phẩm Tư cách người công
an cách mệnh luôn song hành cùng với quá trình xây dựng và trưởng thành của
lực lượng công an nhân dân [62, Tr. 11- 95]; lực lượng công an nhân dân phải
học tập, thực hiện tư cách người công an cách mệnh [62, Tr. 143- 188]. Những
nghiên cứu này của tác giả giúp chúng tôi có căn cứ, cơ sở khi đặt ra yêu cầu
nâng cao vai trò NTCQ của lực lượng công an trong đảm bảo ANQG, đặc biệt
nhân tố ý thức, tình cảm và ý chí.
Một số vấn đề an ninh phi truyền thống ở khu vực biên giới Việt Trung
(Nguyễn Thị Phương Hoa, Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam, Viện nghiên cứu
Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2018): Từ những nghiên cứu về khái
niệm an ninh phi truyền thống, các vấn đề an ninh phi truyền thống chủ yếu hiện
nay [52, Tr. 15- 40], tác giả đi sâu nghiên cứu một số vấn đề thuộc an ninh phi
truyền thống qua khu vực biên giới Việt Trung, phân tích ngu ên nhân, đặc điểm
và đánh giá hiệu quả của cơ chế hợp tác giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc
[52, tr. 157- 171].

18


Ngoài các công trình trên, có thể kể đến Luận án tiến sĩ của Phạm Thái Bình
Đấu tranh giai cấp với nhiệm vụ bảo vệ ANQG trong công cuộc đổi mới hiện nay ở
Việt Nam [17]. Qua nghiên cứu, tác giả rút ra kết luận: Thực chất của cuộc đấu tranh
giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta là chống xu
hướng tự phát TBCN, chống các thế lực bảo thủ, lạc hậu, phản động trong và ngoài
nước: bảo vệ ANQG là một nội dung quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp [17,
tr.12-60]. Từ những kết luận cơ bản đó, tác giả tiếp tục nghiên cứu nội dung của
cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ và đưa ra giải pháp nhằm thực hiện
hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ ANQG [17, tr. 61- 174]. Tuy nhiên, ở đâ , tác giả không
đi sâu nghiên cứu chủ thể của cuộc đấu tranh giai cấp.


1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp phát huy vai trò nhân
tố chủ quan của lực lƣợng công an trong đảm bảo an ninh quốc gia
Liên quan đến nội dung này, có thể kể đến công trình Nâng cao năng lực
lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong lực lượng công an nhân dân – Kỷ yếu hội thảo
cấp Bộ [12]: Các bài đăng trong kỷ yếu hội thảo nà đề cập đến tất cả các mặt của
NTCQ của lực lượng công an, như năng lực, ý thức, phẩm chất chính trị, bản
lĩnh, ý chí, đạo đức, tác phong cũng như năng lực hoạt động của cán bộ chiến sĩ,
đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo chỉ huy. Các nghiên cứu cũng đề cập đến biện pháp
phát huy vai trò NTCQ của đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy trong công an, như: Đổi
mới, nâng cao chất lượng cán bộ, nâng cao bản lĩnh chính trị, nâng cao hiệu quả
công tác, luân chuyển cán bộ để nâng cao năng lực, giáo dục lịch sử truyền
thống, đổi mới chính sách đào tạo… [12, tr.1-265]. Những kinh nghiệm trong
nâng cao năng lực lãnh đạo chỉ huy ở các Vụ, Cục, công an địa phương cũng
được nêu ở đâ [12, tr. 270- 76]. Cuốn Kỷ yếu này là nguồn tài liệu thực tế cực kỳ
phong phú mà chúng tôi có thể kế thừa khi nghiên cứu vấn đề này.
Xây dựng đội ngũ trí thức công an nhân dân trong tình hình mới [16]:
Cuốn sách trình bày một cách hệ thống, toàn diện những vấn đề lý luận và thực
tiến về đội ngũ trí thức CAND [16, tr. 9- 428], công tác đào tạo và xây dựng đội
ngũ trí thức CAND [16, tr. 431-440]. Mặc dù cuốn sách nghiên cứu

19


×