Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.68 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH TÙNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
TỘI CƯỚP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH HẢI DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH TÙNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
TỘI CƯỚP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH HẢI DƯƠNG

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI, 2019




MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ....................................................... 6
1.1. Lý luận về thực hành quyền công tố của viện kiểm sát trong vụ án hình
sự................................................................................................................ 6
1.2. Thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản.............................. 13
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI
VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN Ở TỈNH HẢI DƯƠNG.................................. 26
2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế xã hội và tình hình tội phạm cướp tài
sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương ............................................................... 26
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố với tội cướp tài sản ở tỉnh Hải
Hương ...................................................................................................... 32
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ................. 45
3.1. Sửa đổi một số quy định pháp luật về thực hành quyền công tố ......... 45
3.2. Các giải pháp khác nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
với tội cướp tài sản ................................................................................... 49
KẾT LUẬN ................................................................................................. 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 63


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS
BLTTHS
CQĐT

ĐTV
HĐXX
KSV
TAND
TP
VKS

Bộ luật Hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Cơ quan điều tra
Điều tra viên
Hội đồng xét xử
Kiểm sát viên
Tòa án nhân dân
Thẩm phán
Viện kiểm sát

THQCT

Thực hành quyền công tố

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân
n


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê xử lý tin báo, khởi tố vụ án và xét xử tội phạm Cướp tài sản
trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ 2014 đến 2018.......................................................29

Bảng 2.2: Thống kê xử lý tin báo, khởi tố và xét xử các vụ án cướp tài sản ..........33
trên địa bàn thành phố Hải Dương từ 2014 -2018 [31] ...........................................33


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013 và Điều 3 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thì VKSND thực hiện chức năng nhiệm vụ
của mình bằng công tác thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong đó có hoạt động THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết cac vụ án hình sự nhằm góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, từ đó xây dựng
và gìn giữ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy rằng, vai trò của
VKSND là rất quan trọng, được ví như một “đối trọng” trong lĩnh vực tư pháp
với các cơ quan nắm quyền tư pháp như Tòa án nhân dân, Công an, nhằm loại
trừ nguy cơ áp dụng pháp luật sai sót hoặc thậm chí lợi dụng quyền hạn, chức
vụ để thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
Tỉnh Hải Dương nằm trong vùng Đồng bằng sông Hồng, thuộc khu vực
trọng điểm kinh tế của Bắc bộ, là nơi kết nối giữa ba trung tâm kinh tế hàng
đầu của cả nước (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh). Với vị trí thuận lợi như
vậy, tỉnh Hải Dương đang trên đà phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hóa xã
hội. Nhưng đi kèm với sự phát triển kinh tế, tình hình tội phạm trên địa bàn
tỉnh Hải Dương có diễn biến phức tạp, nhiều vụ án xảy ra có tính chất, mức
độ nghiêm trọng, gây hoang mang cho quần chung nhân dân (trong giai đoạn
từ 2014 đến 2018 chỉ trong vòng 05 năm đã diễn ra tới 118 vụ án Cướp tài
sản). Với đặc điểm là nơi kết nối các vùng kinh tế, mật độ dân cư đông đúc,
có nhiều tuyến đường huyết mạch, tình hình tội phạm Cướp tài sản có xu
hướng gia tăng và trở nên ngày càng phổ biến. Trong quá trình đấu tranh
phòng chống loại tội phạm này, cùng với các cơ quan có thẩm quyền,
VKSND các cấp của tỉnh Hải Dương đã tích cực, chủ động trong việc thực


1


hiện chức năng THQCT với các tội phạm nói chung và tội phạm cướp tài sản
nói riêng.
Tuy nhiên, qua thực tiễn, công tác THQCT vẫn bộc lộ nhiều hạn chế.
Trong nhiều vụ việc, vì nhiều lý do (chủ yếu liên quan đến năng lực của kiểm
sát viên), mà công tác THQCT còn tồn tại nhiều sai phạm, như bỏ lọt tội
phạm hoặc không phát hiện và can thiệp kịp thời với các hành vi vi phạm
pháp luật tố tụng hình sự của nhiều vụ án. Những sai phạm này được phát
hiện trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ án cướp
tài sản nói riêng.
Tội cướp tài sản được đánh giá là loại tội phạm nguy hiểm cho xã hội,
xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người dân – là một quyền hiến
định. Ngoài ra, loại tội phạm này còn có tác động xấu đến tâm lý người dân,
gây hoang mang, bức xúc bởi đặc điểm luôn sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực. Nếu công tác phòng chống loại tội phạm này không hiệu quả rất dễ mất
niềm tin của quần chúng nhân dân vào ngành tư pháp và việc đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật.
Từ những phân tích trên, tác giải quyết định chọn đề tài “Thực hành
quyền công tố đối với tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương “ làm
đề tài luận văn cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành quyền công tố là một trong những chức năng cơ bản của
VKSND. Hoạt động nghiên cứu về lý luận và thực tiễn có liên quan đến công
tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND đã có nhiều công
trình tập trung nghiên cứu như: “Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong
công tác kiểm sát hình sự” - đề tài nghiên cứu cấp bộ, do Ngô Văn Đọn làm


2


chủ biên, năm 2004; “Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, của
Lê Hữu Thể (chủ biên), Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường, năm 2008; Luận
văn thạc sĩ “Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Nam Định” của tác giải Phạm Văn Chủng năm 2012; Luận văn thạc sĩ “Các
chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra đối với các vụ
án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương” của tác giả Chu Minh Long năm
2012…
Mặc dù có nhiều công trình khoa học nghiên cứu hoặc tài liệu giảng
dạy ở những góc độ, phạm vi khác nhau về THQCT và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật ở các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự trong đó có
nghiên cứu về THQCT với một số loại tội phạm. Nhưng chưa có công trình
nào nghiên cứu, khảo sát về THQCT đối với tội phạm cướp tài sản trong tình
hình mới, mang tính cập nhật trong bối cảnh loại tội phạm này diễn biến phức
tạp và có phạm vi nghiên cứu trên địa bàn cụ thể là tỉnh Hải Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu pháp luật
về THQCT nói chung và thực tiễn áp dụng đối với tội cướp tài sản trên địa
bàn tỉnh Hải Dương nói riêng. Chỉ rõ những thành tựu và những điểm hạn chế
còn tồn tại, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động THQCT đối với các vụ án cướp tài sản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND trong hoạt động THQCT, đi sâu vào hoạt động THQCT với
tội cướp tài sản.


3


- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động THQCT với tội cướp tài sản
trên địa bàn tỉnh Hải Dương và , đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn
chế. và nguyên nhân.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong hoạt động THQCT và đặc biệt là trong
việc THQCT với tội cướp tài sản.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT với các vụ án
cướp tài sản.
Đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là hoạt động THQCT các vụ án
cướp tài sản trong thời gian từ năm 20145 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Hải
Dương.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – xít, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
chính sách hình sự, về xây dựng Nhà nước pháp quyền, …
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả
luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương
pháp quy nạp, phương pháp thống kê…
5. Những điểm mới đóng góp của luận văn
- Luận văn tiến hành khảo cứu chuyên sâu một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về hoạt động THQCT các vụ án cướp tài sản.
- Luận văn đánh giá, phân tích những hạn chế trong hoạt động của
VKSND khi THQCT các vụ án cướp tài sản, qua đó đề xuất các giải pháp góp
4



phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND trong hoạt động THQCT với
các vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương, là nguồn ý kiến tham
khảo nhằm nâng cao hoạt động của VKSND nói chung.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động của
VKSND khi THQCT trong các vụ án cướp tài sản, góp phần xây dựng, hoàn
thiện các tri thức khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và khoa học
Điều tra hình sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang
bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS, Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố đối với tội
cướp tài sản.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố với tội cướp tài sản ở
tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
với tội cướp tài sản ở tỉnh Hải Dương.

5


Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

1.1. Lý luận về thực hành quyền công tố của viện kiểm sát trong vụ án
hình sự
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự
Trước khi đi vào phân tích khái niệm thực hành quyền công tố, việc tìm
hiểu nguồn gốc của cụm từ “công tố” và cụm từ “kiểm sát” là hữu ích để hình
dung và từ đó hiểu bản chất của các khái niệm trên dưới góc nhìn pháp lý. Có
thể thấy, bản thân “công tố” là một từ Hán – Việt. Theo phần dịch nghĩa tại
một số từ điển Hán – Việt [12, Tr.132 ], từ “công” (公 ) mang ý nghĩa “thuộc
về nhà nước”; và từ “tố” ( 诉 ) mang ý nghĩa “ vạch tội” và “buộc tội trước tòa
án”; từ khái niệm đó, cơ quan nhà nước được ghi nhận phổ biến trong lịch sử thế
giới (tại một số nước như Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc) thực hiện vai trò công tố
(nguyên nghĩa Hán – Việt) được gọi là “công tố viện” (公訴院) [23].
Với cách tìm hiểu tương tự như trên, từ “kiểm” ( 检) mang ý nghĩa “tra
xét” hay “xem xét việc làm đúng hay sai”; từ “sát” (察) mang ý nghĩa “xem
xét kỹ lưỡng”, từ này thường được sử dụng phổ biến trong các văn bản đề cập
đến các cơ quan nhà nước; trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, tồn tại một
cơ quan nhà nước với chức năng giám sát hoạt động của quan lại và các cơ
quan nhà nước khác với tên gọi là “sát viện” (察院) [12, Tr.923]. Trong tiếng
Việt, cụm từ “công tố” cũng được nhắc đến và giải thích với ý nghĩa là “điều
tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước tòa án” [14]. Ý nghĩa này hoàn
toàn phù hợp với ý nghĩa nguyên gốc của các cụm từ Hán Việt vừa được đề
cập mà không có sự thay đổi.
6


Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, việc sử dụng cụm từ “công tố” và
“kiểm sát” được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật nói chung và pháp
luật về tư pháp nói riêng. Trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1980, có quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm
sát như sau: “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật ..., thực hành quyền công tố,
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [15].
Bằng quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, Hiến pháp 1992 (được sửa đổi năm 2001) và Hiến
pháp 2013 khẳng định chức năng chính của Viện kiểm sát là thực hành quyền
công tố và thu hẹp phạm vi kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm
sát: “ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp”[16]. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự khác cụ thể hoá chức năng,
nhiệm vụ của Viện kiểm sát[8].
Như vậy, có thể thấy rằng, khái niệm công tố theo ý nghĩa pháp lý
không được quy định, giải thích cụ thể mà chỉ được đề cập đến (được công
nhận) trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Thông qua ý
nghĩa “vạch tội” hay “buộc tội”, có thể thấy khái niệm công tố gắn bó trực
tiếp với lĩnh vực tư pháp hình sự. Tuy nhiên, việc pháp luật Việt Nam quy
định chức năng và nhiệm vụ của Viện Kiểm sát bao gồm cả lĩnh vực kiểm sát
hoạt động tư pháp (nói chung), đã mở rộng phạm vi chức năng nhiệm vụ này
sang các lĩnh vực khác như dân sự, kinh tế. Dưới góc độ tư duy lập pháp, có
thể thấy cơ quan soạn thảo áp dụng sự phân định rạch ròi quyền công tố và
hoạt động kiểm sát tư pháp. Cụ thể là “quyền công tố” gắn với việc điều chỉnh
các quan hệ pháp luật hình sự (cụ thể là việc giải quyết các vụ án hình sự) và
“kiểm sát tư pháp” gắn với những quan hệ pháp luật khác. Trong khuôn khổ
7


luận văn, tác giả chỉ đề cập và đưa ra khái niệm về quyền công tố gắn với lĩnh
vực pháp luật hình sự.
Qua những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về quyền công tố
trong vụ án hình sự như sau: Quyền công tố trong vụ án hình sự là một quyền
của nhà nước, được giao cho (Viện Kiểm sát) thực hiện, nhằm truy cứu trách

nhiệm hình sự đưa chủ thể phạm tội ra xét xử trước tòa án và bảo vệ sự buộc
tội đó tại phiên tòa.
Trước khi Viện Kiểm sát ra đời, tại Việt Nam đã tồn tại Viện Công tố
như một sự áp đặt mô hình tổ chức của Cộng hòa Pháp lên nước ta trong thời
kỳ Pháp thuộc (1884-1945). Về mặt tổ chức, Viện Công tố Pháp là một chế
định được đặt trong hệ thống Toà án, nhưng không lệ thuộc vào Toà án
(những quy định về Viện công tố nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật
về Tổ chức tòa án). Hệ thống cơ quan Công tố Pháp gồm có: Viện công tố
nằm trong các Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng; Viện Công tố tại Toà phúc
thẩm; Viện công tố bên cạnh Toà án phá án. Về mặt nhân sự và quản lý hành
chính Viện công tố trực thuộc Bộ tư pháp và Viện công tố không phải là mối
quan hệ chỉ đạo trực tiếp mà là thông qua giám sát hoạt động của Viện công
tố. Các công tố viên là viên chức nhà nước nhưng không phụ thuộc vào cơ
quan hành pháp[7].
Để ban hành văn bản pháp luật cho lĩnh vực tư pháp tại Việt Nam thời
thuộc pháp, ngày 17 tháng 6 năm 1889, Tổng thống Pháp ký ban hành Sắc
lệnh cải tổ tổ chức tư pháp tại Nam Kỳ. Sắc lệnh gồm 8 phần, 146 điều, trong
đó có quy định về chế định Viện Công tố như sau: “Chức năng của Viện
Công tố do biện lý và thẩm phán thay biện lý đảm nhiệm trước Toà án Sài
Gòn và do biện lý đảm nhiệm trước các toà án nằm trong khu vực Nam
Kỳ”[24].

8


Về mặt lý luận, quyền công tố trong vụ án hình sự được định nghĩa là
một quyền cụ thể của nhà nước, thì về mặt thực tiễn, việc thực hành quyền
công tố được cụ thể hóa thành chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của các cơ
quan tố tụng hình sự theo quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Xuất phát từ khái niệm quyền công tố trong vụ án hình sự, tác giả luận văn

đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự như sau: “Thực
hành quyền công tố trong vụ án hình sự là việc Viện Kiểm sát sử dụng các quyền
năng pháp lý do pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình
sự chủ thể tội phạm và đưa chủ thể tội phạm ra xét xử trước tòa án”.
1.1.2. Đối tượng của việc thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự.
Luật hình sự là một hệ thống các quy phạm pháp luật xác định những
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là các tội phạm và hình phạt áp dụng cho
người (cá nhân) hoặc tổ chức (pháp nhân) phạm tội. Luật hình sự duy trì trật
tự xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của cơ quan, tổ chức, của
công dân và của con người. Khi một vụ án hình sự xảy ra, tức là đã có hành vi
khách quan xâm phạm vào các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức hoặc của Nhà nước.
Để thực thi pháp luật hình sự, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra tội
phạm khi phát hiện dấu hiệu tội phạm. Một khi tội phạm đã được cấu thành
theo quy định của Bộ luật hình sự, Viện kiểm sát sẽ thực hành quyền công tố
của mình nhằm xác định một cách chính xác khung hình phạt, mức hình phạt
cho người có hành vi phạm tội để tiến hành xét xử tại Tòa án.
Như vậy, đối tượng của việc thực hành quyền công tố trong vụ án hình
sự là hành vi phạm tội và chủ thể phạm tội.
* Việc thực hành quyền công tố đối với hành vi phạm tội

9


Nội dung thực hành quyền công tố đối với hành vi phạm tội của Viện
Kiểm sát được tiến hành trên cơ sở các quy định của Điều 16 Luật Tổ chức
Viện Kiểm sát nhân dân 2014. Về mặt tổng quát, việc thực hành quyền công
tố đối với hành vi phạm tội nhằm các mục đích xác định một hành vi có cấu
thành tội phạm hay không dựa trên hồ sơ vụ án và kết luận điều tra của Cơ
quan điều tra và hoạt động tự chứng minh của mình để không làm oan người

vô tội đồng thời không bỏ lọt tội phạm. Cơ sở pháp lý để Viện Kiểm sát thực
hành quyền công tố đối với hành vi phạm tội được quy định tại các Khoản 2;
Khoản 3; Khoản 4; Khoản 9 của Điều 16 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân
dân 2014, bao gồm:
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ
án trong trường hợp cần thiết.
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung
tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra
bổ sung mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra.
- Quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can trong trường hợp phát hiện vụ án còn có hành vi phạm tội, người
phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra và trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra
để điều tra bổ sung.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết định việc truy tố theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
* Việc thực hành quyền công tố đối với chủ thể phạm tội
Ngày 01/01/2018, Bộ luật hình sự (BLHS) số 100/2015/QH13 được
sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (sau đây gọi là Bộ
luật hình sự 2015) đã chính thức có hiệu lực thi hành. Đây là lần đầu tiên chế
định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được quy định trong luật

10


hình sự Việt Nam, tạo ra một trong những thay đổi quan trọng nhất của BLHS
2015, do đó, cần thiết phải thay đổi khái niệm người phạm tội trở thành chủ
thể phạm tội. Về mặt tổng quát, việc thực hành quyền công tố đối với chủ thể
phạm tội nhằm mục đích: Ngăn chặn sự đối phó của chủ thể phạm tội với các
hoạt động điều tra, truy tố (thông qua các biện pháp ngăn chặn); Truy tố chủ
thể phạm tội về tội danh và đề xuất khung hình phạt đúng quy định của Bộ

luật Hình sự. Cơ sở pháp lý để Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố đối
với chủ thể phạm tội được quy định tại các Khoản 1; Khoản 5; Khoản 6;
Khoản 7 và Khoản 8 của Điều 16 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân
2014, bao gồm :
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy
định của luật; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
- Quyết định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo thẩm
quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
- Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng
các biện pháp ngăn chặn.
- Quyết định truy tố, không truy tố bị can.
- Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can; quyết định phục hồi
vụ án, bị can.
1.1.3. Phạm vi của việc thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự.
Xét về phạm vi thực hành quyền công tố, khi Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014 chưa có hiệu lực, tồn tại quan điểm cho rằng phạm vi
thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự chỉ bắt đầu từ giai đoạn điều tra
(từ khi tiếp nhận tin báo về tội phạm) cho đến khi ra quyết định khởi tố hoặc
quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Cơ sở của quan điểm này xuất phát

11

Formatted: Font: Italic


bản chất của khái niệm “công tố” đó là buộc tội. Việc thực hành công tố do đó
chỉ bó hẹp trong phạm vi từ khi Cơ quan điều tra có kết luận điều tra và Viện
kiểm sát quyết định việc truy tố bị can (thể hiện quan điểm buộc tội trong bản
cáo trạng).

Theo đó, tại Quy chế Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra vụ
án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày
02/1/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (gọi tắt là quy chế
THQCT & KSĐT), phạm vi của việc thực hành quyền công tố trong vụ án
hình sự có phạm vi bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến
khi kết thúc việc điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ
án theo quy định của pháp luật [27].
Tuy nhiên, sau khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có
hiệu lực thi hành, phạm vi thực hành quyền công tố đã được mở rộng, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự [17].
Theo đó, việc thực hành quyền công tố được tiến hành theo hai giai đoạn
được điều chỉnh bởi hai văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Thứ nhất, khi có tin báo về tội phạm, việc thực hiện quyền công tố của
Viện kiểm sát được tiến hành căn cứ vào quy định tại Quy chế tạm thời công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố [28].
Thứ hai, sau khi kết thúc giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm,
kiến nghị khởi tố, căn cứ vào Quy chế công tác Thực hành quyền công tố,
kiểm sát xét xử vụ án hình sự, ban hành kem theo Quyết định 505/QĐVKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, phạm vi
thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự bắt đầu từ khi Viện kiểm sát
chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng hồ sơ
12


vụ án đến Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc không bị yêu cầu,
kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
1.2. Thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản

1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm pháp lý của tội cướp tài sản
1.2.1.1. Khái niệm pháp lý của tội cướp tài sản
Trong luật hình sự Việt Nam, tội cướp tài sản là một trong các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt được quy định và xét xử theo luật hình sự.
Tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015. Trước đó
hành vi cướp tài sản được quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999.
Trên cơ sở Điều 133 BLHS và các quy định khác trong BLHS thì Theo quy

Formatted: Font: Italic

định của điều luật thìội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ

Formatted: Font: Italic

lực ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm

Formatted: Font: Italic

vào tình trạng không thể tự vệ được, do người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng
lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện nhằm chiếm đoạt tài sản của người
khác dùng thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công không thể chống trả
được nhằm chiếm đoạt tài sản. So với các quy định cũ đã có nhiều sửa đổi bổ
sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, quy định cụ
thể hơn, dễ áp dụng hơn và đã bỏ hình phạt tử hình đối với tội danh này.
1.2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản
Dấu hiệu thuộc khách thể của tội cướp tài sản; đối tượng của tội phạm
Về khách thể mà tội phạm hướng tới, khách thể của tội phạm bao gồm
cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân. Một người phạm tội cướp tài sản
đã trực tiếp xâm hại quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ,
và thông qua các hành vi phạm tội (hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực


13

Formatted: Font: Italic


ngay tức khắc; thủ đoạn khác làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể
chống cự được) người phạm tội cũng xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của
nạn nhân. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản, nếu chỉ xâm
phạm đến một trong hai quan hệ xã hội thì chưa phản ảnh đầy đủ bản chất của
tội cướp tài sản, đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội cướp tài sản với các tội
khác xâm phạm sở hữu và các tội mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng không nhằm chiếm đoạt tài
sản.
Do tội cướp tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể, nên
trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có
nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị
hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị
hại bị xâm phạm đến cả tài sản, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự.
Dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội cướp tài sản
Thứ nhất, mặt khách quan của tội cướp tài sản thể hiện qua hành vi
dùng vũ lực để phạm tội. Đây là điểm đặc trưng trong cấu thành tội danh
Cướp tài sản, dù căn cứ theo quy định tại BLHS năm 1999 hay BLHS hiện
hành. Theo đó, người phạm tội dùng vũ lực tác động vào nạn nhân như: Đấm,
đá, bóp cổ, bắn, đâm, chém… nhằm chiếm đoạt tài sản. Hậu quả của hành vi
sử dụng vũ lực lên cơ thể nạn nhân (gây thương tích hay không gây thương
tích) không thay đổi tội danh của người phạm tội. Do đó, tội danh Cướp tài
sản là loại tội phạm có cấu thành hình thức.
Thứ hai, mặt khách quan của tội cướp tài sản thể hiện qua hành vi đe
doạ dùng vũ lực ngay tức khắc. Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc

được hiểu theo nghĩa: mặc dù chưa sử dụng vũ lực, nhưng người phạm tội
dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe doạ người bị hại nếu không đưa tài sản
thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay. Ví dụ: dí dao vào cổ, dí súng vào bụng yêu
14


cầu người bị hại giao ngay tài sản nếu không sẽ bị đâm, bị bắn ...ngay lập tức.
Trong trường hợp này, nạn nhân có thể nhận thấy tính mạng, sức khỏe của
mình bị đe dọa một cách tức thời và về mặt ý chí, người phạm tội khiến cho
nạn nhân hiểu rằng nếu không giao tài sản thì hậu quả xấu xảy ra cho mình là
tất yếu. Đây là dấu hiệu rất quan trong để phân biệt tội cướp tài sản với tội
cưỡng đoạt tài sản, nếu đe doạ dùng vũ lực nhưng không ngay tức khắc thì đó
là là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản.
Thứ ba, mặt khách quan của tội cướp tài sản thể hiện ở những hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được.
Hai dấu hiệu quan trọng nhất của hành vi này là: Hành vi có mục đích tấn
công và Tình trạng không thể chống cự được của nạn nhân. Đây là cách quy
định tổng quát và tối ưu vì trên thực tế, người phạm tội cướp tài sản có thể có
rất nhiều thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản mà không hề sử dụng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Với dạng hành vi này, người phạm tội sử
dụng các phương thức làm nạn nhân bị ngất, bị choáng váng tức thời do đó
không thể bảo vệ tài sản, ví dụ: bỏ thuốc mê vào đồ ăn, đồ uống của nạn nhân
làm nạn nhân bất tỉnh; dùng các loại công cụ chích điện làm nạn nhân tê liệt;
dùng bình xịt hơi cay để làm nạn nhân choáng váng; đặt các loại bẫy trên
đường để nạn nhân bị ngã xe rồi chiếm đoạt tài sản...
Về hậu quả và mối quan hệ nhân quả, theo khoa học pháp lý thì tội
cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức, hậu quả không phải là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành. Người phạm tội có thể đã chiếm đoạt hoặc chưa
chiếm đoạt được tài sản, nạn nhân có thể có thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
hoặc không, nhưng tội danh Cướp tài sản vẫn cấu thành. Hậu quả của tội

phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi
quyết định hình phạt.

15


Dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội cướp tài sản
Về mặt chủ quan của tội phạm, người phạm tội không chỉ cố ý thực
hiện hành vi phạm tội mà còn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới là
tội cướp tài sản. Như vậy, ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải có trước
khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ
được. Về yếu tố lỗi, người phạm tội cướp tài sản luôn luôn mang lỗi cố ý trực
tiếp, với động cơ và mục đích phạm tội là chiếm đoạt tài sản thông qua hành
vi của mình.
Dấu hiệu về chủ thể của tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự là tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và theo quy định tại Điều 12
Bộ luật hình sự, độ tuổi chịu TNHS cho tội danh này là người đủ từ 14 tuổi
trở lên và khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình.
Chế tài đối với tội phạm
Về hình phạt, phạm tội theo cấu thành cơ bản, tức là thực hiện 1 trong 3
hành vi được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội phạm thì bị phạt tù từ 03
năm đến 10 năm. Phạm tội rơi vào các trường hợp tại khoản 2 điều 168 BLHS
thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Đó là các trường hợp:
- Có tổ chức;
- Có tính chất chuyên nghiệp;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
16


- Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
- Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người
già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội theo khoản 3 điều 168 BLHS thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20
năm. Đây là các trường hợp tăng giá trị tài sản chiếm đoạt so với điểm đ
khoản 2, tăng tỉ lệ thương tích so với điểm c khoản 1 và bổ sung thêm trường
hợp lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để cướp tài sản. Phạm tội theo khoản 4 điều
168 thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Đây là các
trường hợp nặng hơn so với điểm a và điểm b khoản 3. Bổ sung thêm trường
hợp làm chết người và lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để
cướp tài sản. Như vậy so BLHS 1999 thì hình phạt cao nhất cho tội này đã
được giảm từ tử hình xuống chung thân. Đây là một sự tiến bộ trong tư duy
lập pháp nhằm hạn chế án tử hình.
1.2.2. Hoạt động thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản
1.2.2.1. Tiếp nhận, giải quyết tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Trên thực tế, những vụ án hình sự cướp tài sản thường xảy ra rất nhanh
chóng, nạn nhân có thể có thương tích hoặc không, nhưng đa phần người
phạm tội thường bỏ trốn rất nhanh khỏi hiện trường, thậm chí tội phạm chỉ
được phát hiện sau khi có người tiếp cận hiện trường (vì nạn nhân đã bị giết,
bị thương không thể lập tức trình báo). Sau khi tội phạm xảy ra, tin báo về tội
phạm thường được tiếp nhận tại cơ quan công an nơi xảy ra sự việc. Sự phối
hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn này thể hiện trong


17


việc khám nghiệm hiện trường vụ án. Khám nghiệm hiện trường là hoạt động
điều tra được quy định tại Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự, được tiến hành
trực tiếp tại hiện trường do Điều tra viên tiến hành, nhằm phát hiện, xem xét,
ghi nhận dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý
nghĩa đối với vụ án tại nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm.
Sau khi nhận được thông báo về vụ việc có dấu hiệu của tội phạm cướp
tài sản, cần tổ chức khám nghiệm hiện trường, lãnh đạo Viện kiểm sát bố trí,
phân công Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát khám nghiệm hiện trường. TPhần
lớn tất cả các cuộc khám nghiệm đều có Kiểm sát viên tham gia, giám sát chặt
chẽ, yêu cầu Điều tra viên khám nghiệm tỷ mỷ, đầy đủ theo quy định của
pháp luật, nhất là những vụ việc có hậu quả nghiêm trọng, hiện trường bị xáo
trộn. Thông qua hoạt động khám nghiệm hiện trường, kết quả của hoạt động
khám nghiệm hiện trường sẽ giúp Cơ quan điều tra quyết định: hiện trường có
sự kiện phạm tội xảy ra không, có dấu hiệu tội phạm không, có khởi tố vụ án
hình sự không. Việc thực hiện chức năng của KSV kiểm sát hoạt động khám
nghiệm hiện trường phải yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện ngay các biện
pháp cần thiết để bảo vệ hiện trường, không được tiết lộ các tin tức, tài liệu về
hiện trường. Thông thường lực lượng khám nghiệm gồm có: các Điều tra
viên; Kiểm sát viên; người chứng kiến; chuyên giangười có chuyên môn
(trong các vụ án cướp tài sản, sự có mặt của các chuyên gia là không phổ biến
vì đặc điểm công cụ, phương thức phạm tội của tội phạm dạng này là khá giản
đơn).
1.2.2.2. Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án
Sau khi phối hợp cùng cơ quan điều tra giải quyết tin báo, khám
nghiệm hiện trường, việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong vụ
án cướp tài sản tiếp tục được thực hiện trong giai đoạn điều tra, theo thẩm

quyền quy định tại Điều 14 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân; Điều 41
Luật Tố tụng hình sự và các quy định khác trong Quy chế công tác của Viện
18


kiểm sát nhân dân. Trong giai đoạn này, việc thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân thể hiện ở nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân ban hành các quyết định liên quan đến vụ án ở giai đoạn
khởi tố, bao gồm:
- Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố hoặc
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định
khởi tố, không khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can theo quy định của Bộ luật này;
- Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết
định khởi tố, không khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án;
quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; quyết
định nhập, tách vụ án;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; quyết định việc gia hạn kiểm
tra và xác minh nguồn tin về tội phạm, gia hạn tạm giữ, gia hạn điều tra, gia
hạn tạm giam, gia hạn truy tố;
- Quyết định khám xét, thu giữ, tạm giữ, xử lý vật chứng;
- Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định
lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định.
Yêu cầu định giá, định giá lại tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản;
- Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cấp trưởng cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, Cán bộ
điều tra;
- Phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định, lệnh của Cơ quan điều

tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

19


- Quyết định hủy bỏ các quyết định, lệnh không có căn cứ và trái pháp
luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra;
- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra; quyết định chuyển vụ án;
- Quyết định áp dụng, đình chỉ biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
- Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn hoặc hủy bỏ quyết định áp dụng
thủ tục rút gọn;
- Quyết định truy tố bị can, trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc điều tra lại;
- Yêu cầu phục hồi điều tra; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ
án, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can; quyết định hủy bỏ quyết
định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định phục hồi
điều tra vụ án, phục hồi điều tra đối với bị can, phục hồi vụ án, phục hồi vụ án
đối với bị can; [18]
1.2.2.3. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Tại giai đoạn này, các hồ sơ, tài liệu liên quan đến vụ án cướp tài sản
đã được Cơ quan điều tra thu thập và hoàn thiện. Vai trò thực hành quyền
công tố trong giai đoạn này thể hiện ở các mục tiêu sau:
- Mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời trên nguyên tắc:
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội;
- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự
và nhân phẩm một cách trái pháp luật;
- Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng
pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát

hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh;
20


×