Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vận dụng lý thuyết Hút - Đẩy của Everett S.Lee định về di cư lao động ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.68 KB, 7 trang )

Số 26 (51) - Tháng 03/2017

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Vận dụng lý thuyết Hút - Đẩy của Everett S.Lee
định về di cư lao động ở Việt Nam hiện nay
“Push – Pull” theory of Everett S.Lee understandings about labor migration present
in Vietnam
ThS. Nguyễn Thị Tuyến
Trường Đại học Cơng nghiệp Hà Nội
Nguyen Thi Tuyen, M.A.
Hanoi University of Industry
Tóm tắt
Bài báo trình bày nghiên cứu vận dụng lý thuyết hút đẩy của Everett S.Lee về di cư lao động ở Việt
Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy về yếu tố hút gồm các đơ thị lớn, các vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội thuận lợi cho tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập, tiếp cận giáo dục, dịch vụ y tế, vui
chơi giải trí. Về yếu tố đẩy gồm các khu vực có thu nhập thấp, thiếu việc làm, thiếu đất canh tác, điều
kiện tự nhiên khơng thuận lợi cho sinh sống và phát triển sản xuất. Từ thực trạng trên, thơng qua
phương pháp nghiên cứu lý thuyết, bài báo trình bày nghiên cứu phân tích và đưa ra minh chứng về q
trình di cư lao động ở Việt Nam hiện nay nhằm giúp các nhà quản lý có các biện pháp phù hợp để quản
lý và kiểm sốt dòng di cư lao động hiện nay một cách hiệu quả.
Từ khóa: di cư lao động, lý thuyết Hút - Đẩy, lí thuyết di cư.
Abtract
The paper presents a study applying Push Pull theory of Everett S.Lee on labor migration present in
Vietnam. The study results showed that the Pull Factors including large urban areas with economic
conditions - enabling social search for jobs, raise incomes, access to education, health care, funny
entertainment. The Push Factors including low income regional, lack of employment, lack of arable
land, the natural conditions are not conducive to live and grow production. From this situation, through
theoretical research methods, the paper presents the analysis and provide proof of the labor migration
process in Vietnam today to help managers take measures accordingly to manage and control the flow
of current labor migration effectively.


Keywords: labor migration, “push – pull” theory, migration theory.

q trình đổi mới kinh tế đã thu được
những thành tựu cơ bản, to lớn. Đất nước
ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài
và tạo tiền đề đẩy nhanh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa cũng như từng bước hội nhập

1. Giới thiệu
Trong bối cảnh ngày nay, tồn cầu hóa
nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ
là cơ hội và thách thức với tất cả các nước
đang phát triển. Ở nước ta thời gian qua,
146


NGUYỄN THỊ TUYẾN

sâu rộng vào hệ thống kinh tế quốc dân.
Điều đó đã khẳng định đường lối, chính
sách và những giải pháp đúng đắn, sáng tạo
của Đảng và Nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Từ sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước đã biến các thành phố lớn thành
những thị trường lao động hấp dẫn. Nhiều
trung tâm buôn bán, thương mại, dịch vụ
và các khu công nghiệp mới ra đời thu hút
hàng chục, hàng nghìn người tới làm việc
và sinh sống. Ở khu vực nông thôn, áp lực

của sự gia tăng dân số thêm vào đó là sự áp
dụng những thành tựu khoa học kinh tế
mới trong sản xuất nông nghiệp đã tạo ra
một nguồn lực lao động dư thừa tới các
thành phố. Mặt khác sự di cư lao động nó
còn bị ảnh hưởng bởi các cá nhân và gia
đình của họ trong việc theo đuổi khát vọng
và sinh kế của cuộc sống, các chính sách
của Nhà nước. Sự gia tăng của dòng người
di cư từ nông thôn ra thành thị, tác động
của di cư tới vấn đề kinh tế xã hội ở cả nơi
đi và nơi đến là một vấn đề lớn đang đặt ra.
Vì vậy việc nghiên cứu lý thuyết di cư của
Everett S.Lee có ý nghĩa quan trọng trong
việc tìm hiểu nguyên nhân di cư, từ đó,
giúp tác giả đề xuất một số biện pháp phù
hợp để quản lý và kiểm soát dòng di cư,
góp phần duy trì trật tự và ổn định xã hội.
2. Cơ sở lý luận của lý thuyết di cư
lao động của Everett S.Lee
Everett S.Lee là một nhà xã hội học
người Mỹ, chuyên nghiên cứu về di cư lao
động. Ông là người đã lý thuyết hóa mối
quan hệ giữa di cư và kinh tế, đồng thời mô
hình hóa các nhân tố thúc đẩy di cư và thu
hút di cư. Các nghiên cứu của ông có vai
trò quan trọng đối với các nghiên cứu về di
cư lao động trên thế giới, đặc biệt có ý
nghĩa to lớn đối với việc phân tích các
nguyên nhân di cư và tác động của quá


trình di cư. Cho đến nay, lý thuyết về di cư
của ông vẫn là một trong những lý thuyết
có tầm ảnh hưởng to lớn và mạnh mẽ nhất
trong các nghiên cứu kinh tế học và đặc
biệt là trong xã hội học về di cư lao động.
Năm 1966 Everett S.Lee đã trình bày
trong công trình nghiên cứu “Lý thuyết về
di cư” xuất bản tại Mỹ [1]. Tác phẩm này
là nền tảng cho các nghiên cứu xã hội học
về di cư lao động. Nó chứa đựng những
kiến giải sâu sắc về tình hình di cư thực tế
tại Mỹ và một số quốc gia trên Thế giới.
Everett S.Lee cho rằng di cư được dựa
trên 4 nhóm nhân tố:
(i). Các nhân tố gắn bó với nơi ở gốc.
(ii). Các yếu tố gắn với nơi sẽ đến.
(iii). Các trở ngại khi di cư.
(iv). Các nhân tố thuộc về người di cư.
Quyết định di cư là quá trình lựa chọn
của các cá nhân, việc đưa ra quyết định đó
lại phụ thuộc vào tuổi tác, giới tính, tầng
lớp xã hội, trình độ học vấn, quan hệ gia
đình…. Tuy nhiên, tất cả người di cư đều
có cùng một mục đích là tìm kiếm cơ hội
mới và gạt bỏ rủi ro ở nơi đang sống, thông
thường người di cư sẽ lựa chọn giữa lực
hút và lực đẩy, cuối cùng họ thường chọn
lực hút bởi con người luôn mong muốn
những điều tốt đẹp đến với họ, từ đó thôi

thúc họ quyết định di cư.
- Các lực hút tại nơi đến: Đất đai màu
mỡ, tài nguyên phong phú, khí hậu ôn hòa,
môi trường sống thuận lợi hơn; cơ hội sống
thuận tiện, dễ kiếm việc làm, có điều kiện
để tăng thu nhập và có triển vọng cải thiện
đời sống sinh hoạt ổn định hơn, môi trường
văn hóa xã hội tốt hơn nơi cũ.
- Các lực đẩy tại nơi ở gốc: Điều kiện
sống quá khó khăn, thu nhập thấp, khó có
cơ hội tìm kiếm việc làm có thể do thiên
tai, hạn hán, dịch bệnh… Đất đai canh tác
ít, bạc màu, không có vốn và kỹ thuật để
147


VẬN DỤNG LÝ THUYẾT HÚT - ĐẨY CỦA EVERETT S.LEE ĐỊNH VỀ DI CƯ LAO Đ NG Ở VI T NAM HI N NAY

trình di cư giữa nơi gốc và nơi đến của
người dân. Trong số những trở ngại này là
khoảng cách, chi phí di chuyển, việc mất đi
nguồn thu nhập ở nơi gốc, vấn đề nhà ở,
các quy định của pháp luật về xuất nhập
cư…
Như vậy, có thể xem nguyên nhân di
chuyển: Nơi đi và nơi đến, cả nơi đi và nơi
đến đều có lực hút và đẩy (vĩ mô), các yếu
tố can thiệp (vi mô) vào các yếu tố cá nhân
(trung mô). Các yếu tố tiêu cực tác động
như là lực đẩy, còn các yếu tố tích cực là

lực hút.
Đây là lý thuyết vĩ mô cho cái nhìn
tổng quát về các nguyên nhân của di cư đến
các trung tâm thương mại, công nghiệp, tạo
tiền đề cho các nghiên cứu khác.
Bên cạnh lý thuyết về di cư lao động
của Everett S.Lee, các học giả ở các ngành
khác nhau đã có xu hướng quan tâm đến
các khía cạnh khác nhau của di cư.
Các nhà địa lý và nhân khẩu học thường
nhìn di cư lao động theo chiều không gian
và thời gian của hiện tượng di cư nghĩa là sự
thay đổi tạm thời nơi cư trú và khoảng cách
địa giới hành chính hoặc trong một quốc gia
hay giữa các quốc gia. [8].
Còn các nhà kinh tế và xã hội học
thường tập trung vào các lĩnh vực kinh tế,
xã hội của di cư. Họ có xu hướng nhấn
mạnh khía cạnh cung và cầu trên thị trường
lao động thông qua chuyển lao động và các
chính sách có liên quan, các lực đẩy, lực
kéo tại nơi đến và nơi đi. [8].
3. Kết quả
3.1. Thực trạng về di cư lao động tại
Việt Nam hiện nay
Thực tế quá trình di cư ở Việt Nam đã
diễn ra từ rất lâu. Trong những thập kỉ
trước, số lượng người di cư lớn nhất là
trong những đợt di cư có tổ chức của Nhà
nước đi làm “kinh tế mới”. Trong thời gian


chuyển đổi ngành nghề, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cải thiện đời sống hay do nơi ở
cũ bị giải tỏa, di dời. Các chính sách, các
chương trình điều chuyển lao động và dân
cư với sự hỗ trợ, chỉ đạo của Nhà nước
như: Chương trình kinh tế mới, định canh,
định cư…
- Các trở ngại khi di cư: Yếu tố địa lý,
ngôn ngữ, phải từ bỏ cộng động quen, hòa
nhập với cuộc sống ở nơi ở mới…
- Các nhân tố thuộc về người di cư: Bị
mặc cảm, định kiến xã hội nên không
muốn ở lại cộng đồng nơi cư trú. Nhu cầu
rời khỏi nơi cũ để thoát khỏi những kỷ
niệm cũ và những sự kiện nặng nề về tâm
lý đã xảy ra trong cuộc đời. Mong muốn
đến một nơi mới nhằm thay đổi môi trường
xã hội và xây dựng các mối quan hệ xã hội
tốt đẹp hơn.

Hình 1. Mô hình về di cư lao động của
Everett S.Lee
Trong đó
+: Là yếu tố thuận lợi đối với sự di cư.
- : Là những yếu tố bất lợi đối với sự
di cư.
Thông thường, điều kiện kinh tế khó
khăn ở nơi gốc (origin) là nhân tố “đẩy”
chủ yếu của việc xuất cư, trong khi cải

thiện điều kiện kinh tế của nơi đến
(destination) là nhân tố “hút” quan trọng
nhất của việc nhập cư. Ông tiếp tục nhấn
mạnh rằng có những trở ngại và hạn chế
(intervening obstacles) can thiệp đến quá
148


NGUYỄN THỊ TUYẾN

Từ năm 1996 trở lại đây, vấn đề di cư
lao động có xu hướng gia tăng với số lượng
và tỷ lệ cao. Cụ thể: vào năm 1999 cả nước
chỉ có 4,5 triệu người di cư, thì cho tới giai
đoạn 2004 – 2009, con số này đã lên 6,6
triệu người, cũng cần nói thêm là các số
liệu thống kê của hai cuộc tổng điều tra dân
số 1999 và 2009 chưa thống kê được đầy
đủ số người di cư mùa vụ, những người
tạm trú [3].
Điều tra dân số năm 2009 cho thấy:
các dòng di cư chủ yếu hướng tới các khu
vực thành thị và các khu công nghiệp nơi
có nhiều cơ hội việc làm, chẳng hạn như
thành phố Hà Nội với tỷ suất di cư thuần
túy là 50%, TP. Hồ Chí Minh là 116%, Đà
Nẵng là 77,9%, Đồng Nai là 64,4%…
Chính điều này dẫn tới sự tăng dân số ở
khu vực thành thị với tỷ lệ tăng dân số
hàng năm lên tới 3,4% so với mức tăng

dân số ở khu vực nông thôn là 0,4% [3].
Tổng điều tra dân số Việt Nam năm
1999 kết luận: di cư tới các khu vực đô thị
chiếm hơn một nửa tổng số di cư trong nước
của Việt Nam với 53%, trong đó 27% di cư
từ các khu vực nông thôn ra thành thị và 26%
di cư giữa các khu vực thành thị [3].
Với đặc điểm dân số nước ta được
phân bố trên sáu vùng kinh tế - xã hội của
đất nước như Đồng bằng sông Hồng là
19.577.944 người, Bắc Trung Bộ và duyên
hải miền Trung là 18.835.485 người, Đồng
bằng sông Cửu Long là 17.178.871 người,
vùng có dân số ít nhất là Tây Nguyên gồm
5 tỉnh với dân số là 5.107.437 người [2].
Trong tổng dân số, dân số thành thị có
khoảng 25,4 triệu người chiếm 29,6% tổng
dân số (năm 1999 là 23,5%), dân số nông
thôn chiếm 70,4%. Đông Nam Bộ là vùng
có mức độ đô thị hóa cao nhất và tốc độ đô
thị hóa khá nhanh, dân số thành thị chiếm
57,1% (năm 1999 là 55,1%). Đồng bằng

gần đây, đặc biệt là 10 năm trở lại đây, số
người di cư tự do tăng lên do tác động của
các quan hệ kinh tế hơn là theo các kế
hoạch của Nhà nước. Các vùng có tốc độ
công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh là các
vùng thu hút số lượng người nhập cư lớn,
ngoài ra cũng có một số lượng người di cư

từ các vùng nông thôn này tới các vùng
nông thôn khác, chẳng hạn người di cư từ
các tỉnh phía bắc vào Tây Nguyên…
Từ mô hình về di cư lao động của
Everett S.Lee, quy chiếu đối với vấn đề di
cư tại Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy:
- Yếu tố hút: gồm các đô thị lớn, các
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi
cho tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập,
tiếp cận giáo dục, dịch vụ y tế, vui chơi
giải trí… Các điểm đến tiêu biểu của di cư
lao động ở Việt Nam bao gồm các thành
phố loại 1 như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng và các vùng
kinh tế phát triển như Đông Nam Bộ, Đồng
bằng sông Hồng [5].
- Yếu tố đẩy: gồm các khu vực có thu
nhập thấp, thiếu việc làm, thiếu đất canh
tác, điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho
sinh sống và phát triển sản xuất [5]. Vòng
tuần hoàn của di cư diễn tiến như sau:
1. Người dân ở khu vực ngoại vi di cư
vào thành phố lớn (như trường hợp các
huyện ngoại thành Hà Nội);
2. Khu vực nông thôn ít phát triển hơn
lại di cư đến lấp đầy khu vực ngoại vi;
3. Các vùng kém phát triển khác lại
lấp đầy khu vực nông thôn.
Kể từ sau đổi mới kinh tế (từ năm 1986
- nay), nền kinh tế của Việt Nam có những

bước tiến và biến chuyển mạnh mẽ. Nếu
như vào năm 1999, tốc độ tăng trưởng kinh
tế chỉ đạt 4,9% thì tới năm 2000 tăng lên
6,79% và đạt mức tăng trưởng cao nhất vào
năm 2005 với 8,44%, 2007 là 8,5% [3].
149


VẬN DỤNG LÝ THUYẾT HÚT - ĐẨY CỦA EVERETT S.LEE ĐỊNH VỀ DI CƯ LAO Đ NG Ở VI T NAM HI N NAY

đất phục vụ các dự án, phần lớn lao động
tại khu vực nông thôn hiện nay đều rơi vào
độ tuổi đã khá cao, trên 35 tuổi. Do vậy,
chuyện học nghề để chuyển đổi trở thành
vấn đề nan giải, khó giải quyết. Vấn đề di
cư đi nơi khác để tìm kiếm một cơ hội mới
cũng là một thách thức đối với các cá nhân.
Một bài báo đăng trên báo Vietnam
News (tin tức Việt Nam) năm 2006 đăng
tải thông tin từ một cuộc hội thảo về mức
sống của lao động tại các khu công nghiệp
đã cho biết: khoảng 50% lực lượng lao
động tại các khu công nghiệp và khu chế
xuất tại miền Bắc và 65,8% lao động tại
các khu vực miền Nam đang có nhu cầu
cần nơi ở. Chỉ có 3 đến 6,5% số nhu cầu về
nơi ở đó được đáp ứng tại thời điểm bài
báo được xuất bản.
Cùng với những vướng mắc về nhà ở,
còn phải kể đến các trở ngại trong thủ tục

hành chính về đăng ký hộ khẩu thường trú,
tạm trú. Một bộ phận người di cư có hiểu
biết hạn chế về thủ tục đăng ký hộ khẩu, họ
không đáp ứng được các yêu cầu về mặt
giấy tờ và gây khó khăn, trở ngại cho chính
quyền cũng như cho chính bản thân họ
trong quá trình tiến hành đăng ký. Hơn
nữa, các thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thủ tục sang nhượng
đất… hiện nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều
khâu cần tháo dỡ. Điều này ít nhiều gây
cản trở cho quá trình nhập cư của người
dân [4].
Theo thống kê gần đây nhất (đầu năm
2014), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố,
hiện nay trên cả nước ta có khoảng 72.000
cử nhân, thạc sỹ thất nghiệp, một con số
đáng báo động điều đó cũng chứng tỏ cho
thấy sức hút của các thành phố, đô thị lớn
hấp dẫn người lao động di cư tìm kiếm cơ
hội việc làm, dẫn đến tình trạng thừa, thiếu
nhân lực tại các vùng miền [7]. Thị trường

sông Hồng có mức đô thị hóa tương đối
cao với 29,2% dân số thành thị (năm 1999
là 21,1%) [2].
3.2. Vận dụng lý thuyết hút đẩy của
Everett S.Lee về di cư lao động ở
Việt Nam hiện nay
(i). Các yếu tố tạo thành lực hút

người di cư: bao gồm sự thuận lợi về tự
nhiên, cơ hội việc làm, được cung cấp các
dịch vụ tốt hơn như giáo dục, chăm sóc sức
khỏe, các điều kiện tốt hơn trong ăn, mặc,
ở, đi lại… ở nơi đến (vùng nhập cư).
Sự khác biệt về điều kiện sống giữa
khu vực đô thị và nông thôn là một trong
những nguyên nhân thu hút người nhập cư.
Biểu hiện rõ nhất về điều kiện sống so sánh
giữa đô thị và nông thôn là ở khả năng tiếp
cận các cơ sở hạ tầng. Tỷ lệ các gia đình
không có điện ở các khu vực đô thị thấp
hơn rõ rệt so với vùng nông thôn, với các
đô thị từ loại 3 đến loại đặc biệt chỉ còn 0,2
- 0,4% số hộ không có điện, trong khi đó tỷ
lệ hộ không có điện ở vùng nông thôn là
4,3%. Mức độ sử dụng nước ăn uống hợp
vệ sinh ở khu vực đô thị cao hơn rõ rệt so
với vùng nông thôn, đô thị là 96,8% so với
nông thôn là 86,6%[4].
Trong các đánh giá của mình về di cư,
E.S. Lee luôn nhấn mạnh đến các yếu tố
can thiệp, gây cản trở cho quá trình di cư
giữa nơi gốc (xuất cư) và nơi đến. Một vài
trở ngại có thể chỉ ra như: khoảng cách địa
lý quá xa, phương tiện di chuyển giữa nơi
gốc và nơi đến, việc mất nguồn thu nhập
tại nơi gốc, các trở ngại khác như: thủ tục
hành chính về nhập cư, các trở ngại cá
nhân… Bên cạnh đó, tuổi tác, trình độ học

vấn, việc mất việc làm cũ… tại nơi ở gốc
cũng là một trở ngại trong quyết định của
người di cư.
Qua báo cáo của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn (2008), sau khi bị lấy
150


NGUYỄN THỊ TUYẾN

lao động được dự báo đang thắt chặt lại do
tăng trưởng về cầu đã vượt xa nguồn cung,
chỉ có 1/3 tổng những người lao động mới
tham gia thị trường lao động sẽ đến từ các
trung tâm tăng trưởng công nghiệp.
(ii). Các yếu tố cơ bản được coi là
nguyên nhân thúc đẩy di cư lao động ở
Việt Nam
Thực trạng phân bố dân cư không đều
giữa các vùng là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến sự phân bố lao động không đồng đều ở
nước ta. Cơ hội tìm việc làm tại nơi ở mới là
lý do chính khiến người lao động di cư.
Nhiều người đã đạt được mục tiêu này và
tìm được một công việc được trả lương
xứng đáng trong môi trường làm việc an
toàn. Người di cư đa số là những nhóm
người lao động tích cực vì họ tìm được công
việc nhanh chóng ngay sau khi đến nơi ở
mới và họ có được vị thế cao hơn người

không di cư trong thang bậc nghề nghiệp.
Tình trạng thiếu đất lao động, thiếu
việc làm, mức sống và thu nhập thấp so với
các nơi khác, điều kiện tự nhiên không
thuận lợi…
Theo thống kê hàng năm của Việt
Nam từ năm 2002 - 2007, ước tính diện
tích đất nông nghiệp thu hồi trên toàn quốc
lên tới hơn 154.000 ha, điều này đồng
nghĩa với việc diện tích đất trồng lúa giảm
7,6%. Cũng theo khảo sát của Viện Nghiên
cứu định cư (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn) cho thấy, hằng năm diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi cho phát triển
công nghiệp khoảng trên 70.000 ha, cho
phát triển đô thị khoảng 10.000 ha. Trong
quy hoạch từ nay đến năm 2020, tại một số
tỉnh, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi
có thể tăng gấp đôi. Việc thu hồi đất nông
nghiệp phục vụ cho các mục đích khác
nhau đã làm ảnh hưởng đến khoảng
950,000 lao động, và vào năm 2010, tình

trạng thiếu việc làm ở nông thôn là 5,47%,
theo tính toán, trung bình mỗi hécta đất bị
thu hồi sẽ khiến 14 nông dân mất việc làm.
Bên cạnh việc mất đất canh tác và
thiếu việc làm, các yếu tố khác như mức
sống và điều kiện sống tại nơi ở gốc thấp,
thời tiết khắc nghiệt, đất xấu không thuận

lợi cho phát triển nông nghiệp, thiên tai
rình rập... cũng góp phần quan trọng thúc
đẩy người dân di cư.
Cùng với các yếu tố đẩy ở trên thì yếu
tố thu nhập (kinh tế) là yếu tố quan trọng
hơn cả. Kinh tế được coi là nguyên nhân
quan trọng thúc đẩy người dân di cư. Theo
Tổng cục thống kê Việt Nam (2010),
khoảng cách chênh lệch giữa thu nhập
giữa nhóm người giàu và nghèo ở Việt
Nam là 9,2 lần, chênh lệch giữa thu nhập
dân cư đô thị luôn gấp 2 lần so với nông
thôn. Tỷ lệ người nghèo của nông thôn
cao hơn rất nhiều so với thành thị, ở nông
thôn là 18% trong khi đó thành thị chỉ có
6%. Tỷ lệ người di cư có mức sống khá
giả là 67%, trong khi đó tỷ lệ hộ không di
cư là 52%. [3].
4. Kết luận
Có thể nói rằng, di cư vừa là động lực
thúc đẩy lại vừa là kết quả của sự phát triển
kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Tác động
tích cực hay tiêu cực của di cư lao động ở
nước ta sẽ phụ thuộc vào môi trường chính
trị, xã hội và kinh tế, cũng như thái độ và
nguồn lực của người di cư và gia đình họ.
Trong quá trình di cư, luôn xuất hiện
các yếu tố gây trở ngại như yếu tố về hành
chính, cá nhân (quan hệ gia đình, tuổi
tác…), các yếu tố khác như thuê nhà, thích

nghi với điều kiện nơi ở mới, chi trả các
dịch vụ đắt đỏ hơn so với nơi gốc.
Các nhà hoạch định chính sách ở Việt
Nam đang phải đối mặt với vô số những
thách thức trong việc đối phó với quá trình
151


VẬN DỤNG LÝ THUYẾT HÚT - ĐẨY CỦA EVERETT S.LEE ĐỊNH VỀ DI CƯ LAO Đ NG Ở VI T NAM HI N NAY
thức với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam, Nhóm điều phối Chương trình về chính
sách kinh tế và xã hội, Liên hiệp quốc tại Việt
Nam, 2010.

đô thị hóa nhanh chóng và xóa đói giảm
nghèo. Cần hội nhập sâu hơn quá trình di
cư vào các chương trình phát triển nói
chung như đầu tư tập trung hơn, trợ cấp xã
hội tốt hơn và các dự án bảo vệ môi trường
trong cộng đồng.

5. GSO, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (2005),
Điều tra Di cư năm 2004; Các kết quả chủ yếu,
Nhà xuất bản Thống kê, Tổng cục Thống kê.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

6. Điều tra di cư Việt Nam 2004: Chuyên đề Chất
lượng cuộc sống của người di cư Việt Nam.


1. Douglas S.Massey, Global Migration theory,
The population council, U.S, 2001.

7. Http://www.gso.gov.vn: website của Tổng
cục Thống kê.

2. Nguyễn Văn Thường, TS. Trần Khánh Hưng,
Giáo trình Kinh tế Việt Nam, 2010, Nxb Đại
học Kinh tế quốc dân.

8. Heather Xiaoquan Zhang, P. Mick Kelly,
Catherine Locke, Alexandra Winkels, W. Neil
Adger; Migration in a transitional economy:
Beyond the planned and spontaneous
dichotomy in Vietnam, Geoforum 37 (2006).

3. Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam 2004 và 2009, Hà Nội.
4. UNDP, Di cư trong nước: cơ hội và thách

Ngày nhận bài: 19/02/2017

Biên tập xong: 15/3/2017

152

Duyệt đăng: 20/3/2017




×