BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN DUY LÂN
MỐI QUAN HỆ GIỮA KIÊM NHIỆM GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH,
SỐ LƯỢNG THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ, THÀNH
VIÊN NỮ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG TY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH- NĂM 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN DUY LÂN
MỐI QUAN HỆ GIỮA KIÊM NHIỆM GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH,
SỐ LƯỢNG THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ, THÀNH
VIÊN NỮ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG TY
Chuyên Ngành: Tài Chính-Ngân Hàng
Mã Số: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Hướng Dẫn Khoa Học:
PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực. mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn đã được chỉ rỏ nguồn gốc rỏ ràng và được phép công bố
TP. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 09 năm 2019
Người cam đoan
Nguyễn Duy Lân
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA ........................................................................................................
LỜI CAM ĐOAN .........................................................................................................
MỤC LỤC .....................................................................................................................
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................
DANH MỤC BẢNG .....................................................................................................
TÓM TẮT BÀI NGHIÊN CỨU ...................................................................................
SUMMARY OF THE RESEARCH .............................................................................
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .........................................................................................1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................1
1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu ............................................................................3
1.3 Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................4
1.3.1. Phương pháp thu thập số liệu ............................................................................4
1.3.2. Phương pháp xử lý số liệu .................................................................................4
1.4 Cấu trúc bài nghiên cứu ........................................................................................5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
.....................................................................................................................................6
2.1 Khung lý thuyết .....................................................................................................6
2.1.1 Thuyết đại diện ...................................................................................................6
2.1.2 Thuyết quản trị ...................................................................................................7
2.2 Tổng quan các nghiên cứu trước đây ....................................................................8
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..............................15
3.1 Dữ liệu .................................................................................................................15
3.2 Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................15
3.2.1 Mô tả biến ........................................................................................................15
3.2.2 Xây dựng giả thuyết .........................................................................................19
3.2.3 Phương pháp hồi quy .......................................................................................21
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................23
4.1 Thống kê mô tả....................................................................................................23
4.2 Kết quả hồi quy ...................................................................................................25
4.3 Các kiểm định liên quan ......................................................................................26
4.4 Kết quả nghiên cứu .............................................................................................29
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ........................................................................................32
5.1 Kết luận ...............................................................................................................32
5.2 Khuyến nghị bài nghiên cứu ...............................................................................33
5.3 Hạn chế của bài nghiên cứu ................................................................................34
5.4 Hướng nghiên cứu tiếp theo ................................................................................34
PHỤ LỤC ......................................................................................................................
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CEO
:
Giám đốc điều hành/ Tổng giám đốc
FEM
:
Mô hình biến động cố định
GLS
:
Phương pháp ước lượng bình phương tổng quát
HNX
:
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
HSX
:
Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh
OLS
:
Phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất
REM
:
Mô hình biến động ngẫu nhiên
ROA
:
Tỷ lệ lợi nhuận ròng trên tổng tài sản
ROE
:
Tỷ lệ lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu
TTCK
:
Thị trường chứng khoán
VNR500
:
Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Tóm tắt tên biến, kì vọng dấu và cách tính...............................................22
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến độc lập ..............................................................23
Bảng 4.2: Thống kê mô tả biến phụ thuộc ................................................................24
Bảng 4.3: Ma trận hệ số tương quan giữa ROA và các biến trong mô hình .............24
Bảng 4.4: Ma trận hệ số tương quan giữa ROE và các biến trong mô hình .............25
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy theo 3 phương pháp: OLS; FEM; REM.........................25
Bảng 4.6: Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến ................................................................26
Bảng 4.7: Kết quả F-test............................................................................................27
Bảng 4.8: Kết quả kiểm định Hausman ....................................................................27
Bảng 4.9: Kết quả kiểm định Wald ...........................................................................28
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định Wooldridge ..............................................................28
Bảng 4.11: Kết quả hồi quy theo phương pháp GLS ................................................28
TÓM TẮT BÀI NGHIÊN CỨU
Bài viết nghiên cứu tác động của cơ cấu hội đồng quản trị, sự kiêm nhiệm
giám đốc điều hành và chủ tịch hội đồng quản trị, sự đa dạng giới tính lên hiệu quả
hoạt động công ty thể hiện qua 2 chỉ số là ROA và ROE. Bài nghiên cứu sử dụng mẫu
gồm 220 công ty phi tài chính được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội giai đoạn 2009-2017.
Thông qua các phương pháp ước lượng OLS, FEM, REM, GLS và các kiểm
định liên quan đến khuyết tật của mô hình, kết quả bài nghiên cứu cho thấy sự không
đồng nhất giữa các thước đo hiệu quả hoạt động công ty. Cụ thể, sử dụng ROA làm
hiệu quả hoạt động, kết quả cho thấy thành viên hội đồng quản trị và sự kiêm nhiệm
của giám đốc điều hành có tương quan dương với hiệu quả hoạt động công ty, các yếu
tố còn lại không có ý nghĩa thống kê. Bên cạnh đó, khi sử dụng ROE làm thước đo
hiệu quả hoạt động, kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng thành viên hội đồng quản trị, tỷ
lệ thành viên không điều hành và sự kiêm nhiệm và số năm tại chức của giám đốc
điều hành có tương quan dương với hiệu quả hoạt động công ty. Sự xuất hiện của phụ
nữ trong hội đồng mang lại tương quan âm cho hiệu quả công ty. Điều đó cũng phản
ánh rằng, trong bài nghiên cứu này thước đo ROE thích hợp hơn so với ROA.
Từ khóa: hiệu quả hoạt động; hội đồng quản trị; đa dạng giới; sự kiêm nhiệm CEO;
giám đốc điều hành (CEO).
SUMMARY OF THE RESEARCH
The paper examines the impact of the board structure, the concurrent CEO and
chairman of the board, the gender diversity on the performance of the company
expressed through 2 indicators: ROA and ROE. The study uses a sample of 220 nonfinancial companies listed on the Ho Chi Minh City and Hanoi Stock Exchange in
2009-2017.
Through the methods of estimating OLS, FEM, REM, GLS and tests related to the
model's defects, the results of the research show the heterogeneity between company
performance measures. Specifically, using ROA as a performance, the results show
that the members of the board of directors and the CEO's duality are positively
correlated with the performance of the company, the remaining factors are not
available. statistical significance. In addition, when using ROE as a measure of
performance, the empirical results show that board members, the percentage of nonexecutive members and the part-time and number of years in office of a director. The
firm's performance is positively correlated with company performance. The presence
of women on the council brings a negative correlation to firm efficiency. It also
reflects that, in this paper, ROE is more appropriate than ROA.
Keywords: Operational efficiency; Administrative Council; Gender diversity; CEO
duality; CEO.
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
TTCK đã cho thấy vai trò ngày càng quan trọng trong việc thu hút dòng vốn.
Cùng với dòng vốn ngân hàng, TTCK đã tạo ra kênh dẫn vốn ngắn hạn và dài hạn
cho sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực như đã nêu
trên, TTCK Việt Nam vẫn còn những hạn chế, cần phải nhìn nhận để tiếp tục khắc
phục, từ đó phát triển TTCK theo hướng bền vững. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt
Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới, việc cấp thiết hiện
nay cải thiện môi trường kinh doanh, các giải pháp hỗ trợ tích cực cho thị trường
chứng khoán, minh bạch thông tin, phát triển doanh nghiệp bền vững, nâng cao hiệu
quả quản trị công ty nhằm bảo vệ nhà đầu tư và nhằm thu hút vốn tối đa từ các nhà
đầu tư trên thị trường vốn. Tuy vậy thực tế cho thấy dù đã có những bước tiến dài,
song quản trị công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán của Việt Nam vẫn còn
có những hạn chế so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Thực tế này
đòi hỏi, cần tiếp tục cải thiện chất lượng quản trị công ty nhằm mang lại giá trị bền
vững cho doanh nghiệp.
Quản trị công ty được xem là khuôn khổ của luật chơi thị trường dành cho
công ty đại chúng niêm yết. Quản trị công ty đảm bảo quyền lợi cho các bên liên
quan tham gia vào doanh nghiệp để đảm bảo doanh nghiệp phát triển bền vững. Để
thị trường có thể phát huy cơ chế tự điều tiết giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện và
phát triển bền vững, chính doanh nghiệp phải thừa nhận những nguyên tắc và giá trị
của thị trường. Hiệu quả hoạt động của công ty không những phụ thuộc vào tác
động vĩ mô của nền kinh tế mà còn phụ thuộc vào sự kiểm soát, sự điều hành của
ban hội đồng quản trị. Có thể nói, đây là một bộ phận có quyền lực cao nhất và
không thể thiếu trong bất kỳ một công ty cổ phần nào. Chính vì vậy, hội đồng quản
trị đã phát triển thành một trong những chủ đề “nóng” của giới học thuật trong
những năm vừa qua. Trong đó, không thể không nói đến sự kiêm nhiệm của giám
đốc điều hành, sự hiện diện của thành viên hội đồng quản trị không điều hành, sự đa
2
dạng giới tính trong hội đồng quản trị cũng góp phần cấu thành nên một hội đồng
quản trị. Kể từ khi bình đẳng giới trở thành vấn đề được quan tâm nhiều trong xã
hội thì giới học thuật cũng càng quan tâm đến vấn đề này hơn. Đây cũng chính là
động lực khiến họ thực hiện những bài nghiên cứu để phân tích sự tác động của yếu
tố này. Campbell & Minguez Vera (2010) cho rằng đa dạng giới góp phần hoàn
thiện hơn về khía cạnh ra quyết định của hội đồng quản trị. Mặt khác, sự hiện diện
của phụ nữ có tác động tiêu cực nếu họ được bổ nhiệm vào hội đồng dưới những áp
lực của xã hội đối với sự bình đẳng giữa hai giới. Shehata (2013) đã tìm ra bằng
chứng cho thấy hiệu quả hoạt động của công ty được cải thiện theo hướng tích cực
khi có sự tham gia của người phụ nữ trong hội đồng quản trị. Đồng thời, tác giả cho
rằng phụ nữ sẽ cung cấp thông tin một cách chi tiết về các cơ hội đầu tư phát triển
của công ty và hiểu rõ mong muốn của khách hàng. Vì vậy mà họ nắm bắt được tâm
lý và hành vi của khách hàng.
Nielsen & Huse (2010) đã tìm ra được một khía cạnh khác, tác giả lập luận
rằng sự hiện diện của người phụ nữ góp phần làm giảm xung đột lợi ích giữa các
thành viên và đảm bảo hội đồng quản trị hoạt động một cách tốt nhất. Adams &
Ferreira (2009) cũng ủng hộ quan điểm cho rằng việc tăng tỷ lệ phụ nữ trong hội
đồng quản trị sẽ giúp cải thiện đáng kể vào thành công của công ty vì họ sẽ đưa ra
những chiến lược, những ý tưởng hay, mới lạ mà trong các cuộc họp thông thường
không có. Dựa trên lý thuyết người đại diện, Francoeur & cộng sự (2008) đã tìm
thấy mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ phụ nữ là quản lý cấp cao và lợi nhuận công ty
nhưng không tìm thấy mối quan hệ đáng kể nào liên quan đến phụ nữ trong ban hội
đồng. Đồng thời, khi xem xét tác động tổng thể của đa dạng giới đối với các vai trò
khác nhau mà hội đồng quản trị đảm nhận, tác giả cho rằng việc thúc đẩy sự tham
gia của phụ nữ sẽ không làm tăng cường hay yếu đi khả năng quản trị doanh nghiệp
và hiệu quả tài chính của công ty.
Trong các bài nghiên cứu về tác động của sự kiêm nhiệm giám đốc điều hành
và chủ tịch hội đồng quản trị lên hiệu quả hoạt động công ty đã cho thấy những kết
3
quả gây tranh cãi từ hai trường phái trái ngược đại diện cho hai quan điểm khác
nhau. Trường phái ủng hộ lý thuyết đại diện (Agency Theory) nhấn mạnh rằng khi
một CEO kiêm nhiệm cả hai vị trí sẽ cho phép CEO hành động không vì lợi ích của
tập thể mà chỉ vì lợi ích của cá nhân, Jensen & Meckling (1976). Ngược lại, trường
phải ủng hộ lý thuyết quản trị ( Stewardship Theory ) lại cho rằng sự kiêm nhiệm
này giúp cho CEO nắm giữ quyền lực cao nhất và đưa ra quyết định một cách dễ
dàng mà không cần thông qua bất cứ một cá nhân nào vì họ là người hiểu rõ nhất về
công ty, từ đó tối đa hóa lợi ích cổ đông và giá trị công ty, Stoeberl & Sherony
(1985).
Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế của các quốc gia nói chung và Việt Nam
nói riêng, đây là giai đoạn tốt nhất để các công ty thu hút được nguồn đầu tư nước
ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường làm việc, từng bước đưa
Việt Nam đến gần hơn với thế giới. Để làm được điều đó, sự cố gắng phải được thể
hiện trong nội bộ công ty. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về tác động của thành phần
hội đồng quản trị, đa dạng giới và sự kiêm nhiệm của CEO lên hiệu quả hoạt động
công ty là rất cần thiết. Mặc dù ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về chủ đề này
nhưng kết quả lại chưa đồng nhất. Đây chính là động lực để tác giả thực hiện bài
nghiên cứu, với mong muốn góp một phần nhỏ vào tiến trình nghiên cứu của giới
học thuật Việt Nam.
1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Kiểm tra tác động của cơ cấu hội đồng quản trị, sự kiêm nhiệm của CEO và
sự đa dạng giới tính lên hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên sàn chứng
khoán HOSE và HNX giai đoạn 2009 đến 2017. Để giải quyết được những vấn đề
trên, bài nghiên cứu đưa ra một số câu hỏi như sau:
(1) Số lượng thành viên hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động công ty có mối
tương quan như thế nào?
(2) Sự kiêm nhiệm cả hai vị trí tổng giám đốc và chủ tịch hội đồng quản trị có mối
quan hệ như thế nào với hiệu quả hoạt động của công ty?
4
(3) Thành viên nữ tham gia vào hội đồng quản trị có góp phần làm tăng hiệu suất
hoạt động công ty hay không?
(4) Số năm tại chức của CEO có tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động công
ty?
(5) Thành viên không điều hành có góp phần làm tăng lên hay giảm đi hiệu quả hoạt
động của công ty hay không?
1.3 Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
Nghiên cứu tiến hành thu thập các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến thị
trường chứng khoán, thành viên hội đồng quản trị, ban giám đốc, hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp, giá trị doanh nghiệp, lý thuyết về sở hữu quản trị doanh
nghiệp. Tổng hợp các công trình nghiên cứu thực nghiệm có liên quan trên các tạp
chí chuyên ngành có uy tín nhằm xây dựng mô hình ứng dụng đánh giá tác động
của giá trị cổ đông kiểm soát đến giá trị dài hạn và hiệu quả ngắn hạn của các doanh
nghiệp niêm yết. Dữ liệu của các doanh nghiệp tài chính và phi tài chính được trích
xuất từ báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, báo cáo quản trị đã được kiểm toán,
công bố trên sở giao dịch chứng khoán của các doanh nghiệp giai đoạn 2009-2017,
các chỉ tiêu tài chính cũng được trích xuất từ cổng thông tin điện tử tài chính
Vietstock.vn.
1.3.2. Phương pháp xử lý số liệu
Nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu và xử lý làm sạch số liệu bằng phần
mềm Excel. Sau đó nhập liệu vào phần mềm STATA để thực hiện các kiểm định
mô hình hồi quy dữ liệu bảng Panels Data với các hiệu ứng ngẫu nhiên (RE), hiệu
ứng cố định (FE) nhằm đánh giá tác động của cơ cấu hội đồng quản trị, thành viên
hội đồng quản trị là nữ, sự kiêm nhiệm của chủ tịch hội đồng quản trị và CEO,
thành viên độc lập trong hội đồng quản trị đến hiệu quả hoạt động (ROA và ROE)
của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán.
5
Cụ thể, sử dụng mẫu là 220 công ty phi tài chính được niêm yết trên sàn
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội giai đoạn 2009-2017. Tác giả sử
dụng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS), mô hình biến động
ngẫu nhiên (REM), mô hình biến động cố định (FEM). Sau đó, dùng kiểm định Ftest và Hausman test để lựa chọn ra mô hình phù hợp nhất. Cuối cùng, sử dụng
phương pháp GLS để khắc phục những vi phạm của mô hình như phương sai thay
đổi và tự tương quan nhằm đưa ra kết quả tốt nhất cho bài nghiên cứu.
1.4 Cấu trúc bài nghiên cứu
Chương 1: Giới thiệu: Ở chương này, tác giả trình bày lý do nghiên cứu, mục tiêu
và câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và cấu trúc của đề tài.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết: Chương này tác giả trình bày cơ sở lý thuyết và tổng
quan các nghiên cứu trước đây về tác động của cơ cấu hội đồng quản trị, sự kiêm
nhiệm CEO, đa dạng giới tính lên hiệu quả hoạt động công ty.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu: Trong chương này, tác giả xây
dựng mô hình và các giả thuyết, đồng thời trình bày các bước thực hiện mô hình.
Chương 4: Nội dung và Kết quả nghiên cứu: Chương này tác giả trình bày kết quả
nghiên cứu và phân tích số liệu có được từ mô hình.
Chương 5: Kết luận: Ở chương này, tác giả tóm gọn kết quả chính của bài nghiên
cứu đồng thời đưa ra những khuyến nghị cho các công ty Việt Nam.
6
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN
NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1 Khung lý thuyết
Một công ty hoạt động hiệu quả hay không phụ thuộc vào sự nỗ lực của từng
cá nhân trong công ty. Trong đó, giám đốc điều hành công ty chính là mấu chốt
giúp cho công ty phát triển thịnh vượng, nhưng cũng có thể làm nó trở nên kiệt quệ
và phá sản. Tuy nhiên, nếu tổng giám đốc có những quyết định sai lầm gây tổn hại
và thất thoát cho công ty vì họ đang đặt lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích tập thể
thì công ty có phát triển bền vững được hay không? Để kiểm soát được hành vi của
giám đốc điều hành, hội đồng quản trị phải tốn rất nhiều công sức và tiền bạc.
Những chi phí này được gọi là chi phí đại diện. Nhưng nếu tổng giám đốc cũng
đồng thời là chủ tịch hội đồng quản trị thì ai sẽ là người kiểm soát, và ai sẽ đảm bảo
cá nhân này có đặt lợi ích của tập thể lên hàng đầu? Sự kiêm nhiệm này đã gây ra
một số tranh cãi của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Vì thế, tồn tại những quan
điểm khác nhau về vai trò của hội đồng quản trị và sự kiêm nhiệm của giám đốc
điều hành thông qua hai lý thuyết: Thuyết đại diện (Agency Theory) và Thuyết
quản trị (Stewardship Theory).
2.1.1 Thuyết đại diện
Thuyết đại diện ra đời vào những năm 1970, trong bối cảnh nền kinh tế thế
giới đang từng bước phát triển mạnh mẽ, sự ra đời của nhiều loại hình công ty đòi
hỏi phải có những lý thuyết nền tảng để nghiên cứu và phân tích mối quan hệ giữa
người chủ - là cổ đông, và người đại diện – giám đốc điều hành. Jensen & Meckling
(1976) cho rằng, mối quan hệ giữa người chủ và người đại diện thực chất được xem
như một bản hợp đồng. Tại đó người chủ cho phép người đại diện thay mặt mình để
thực hiện những nghĩa vụ quản lý, điều hành, cũng như ra quyết định cho công ty.
Nếu cả hai cùng muốn tối đa hóa lợi ích thì không có lý do gì đảm bảo người đại
diện sẽ luôn luôn hành động vì lợi ích của người chủ. Để phòng ngừa trước những
7
tình huống xấu, cổ đông phải bỏ ra nhiều chi phí giám sát để hạn chế những hành
động gây tổn hại của giám đốc điều hành. Vấn đề đại diện phát sinh khi (1) mục tiêu
của cổ đông và giám đốc không giống nhau, (2) bất cân xứng thông tin khiến cổ
đông gặp khó khăn trong việc điều tra, xác minh những hành động của giám đốc
điều hành có vì mục tiêu chung hay không, Eisenhardt (1989). Fama & Jensen
(1983) cho rằng nên tách biệt quyền kiểm soát và quyền quản lý công ty. Điều này
sẽ làm hạn chế quyền lực của người ra quyết định, khiến họ không thể làm tổn hại
đến lợi ích của các cổ đông khác. Jensen & Meckling (1976) đưa ra giải pháp để
hạn chế vấn đề đại diện, đó là cổ đông phải thiết lập một điều khoản để đảm bảo
giám đốc điều hành sẽ bồi thường nếu có những hành động gây bất lợi cho lợi ích
chung của các cổ đông. Đồng thời hợp đồng còn có những điều khoản khen thưởng,
đãi ngộ lương bổng khi giám đốc điều hành làm tốt công việc của mình. Để hạn chế
được vấn đề đại diện, hội đồng quản trị phải thể hiện rõ vai trò của mình trong công
ty.
Fama & Jensen (1983) nói rằng hội đồng quản trị là một hệ thống thông tin
mà các cổ đông sử dụng như một công cụ để theo dõi các hành vi trục lợi của giám
đốc điều hành. Johnson (1996) nêu lên 3 vai trò của hội đồng quản trị: (1) kiểm soát
hoạt động của ban điều hành, (2) Tham gia đóng góp ý kiến, xây dựng chiến lược
kinh doanh với giám đốc điều hành, (3) Lựa chọn một nguồn nhân lực tốt để nâng
cao giá trị công ty. Johnny Jermias (2008) cho rằng, mục đích lập ra hội đồng quản
trị là để kiểm tra, giám sát và quản lý những quyết định của giám đốc điều hành
nhằm bảo vệ lợi ích của các cổ đông. Do đó, việc giám sát quản lý chặt chẽ sẽ giúp
hội đồng giảm được chi phí đại diện, từ đó góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động
của công ty.
2.1.2 Thuyết quản trị
Được ra đời vào cuối thế kỷ 20 bởi Lex Donaldson & James H. Davis, thuyết
quản trị là nền tảng vững chắc cho những nhà nghiên cứu ủng hộ sự kiêm nhiệm của
giám đốc điều hành và chủ tịch hội đồng quản trị. Khác với thuyết đại diện, thuyết
8
quản trị cho rằng nhà quản lý – giám đốc điều hành được thúc đẩy để hành động vì
lợi ích chung của các cổ đông. Thuyết quản trị đề cập rằng quyết định của người
quản lý không những phụ thuộc vào các yếu tố tài chính mà còn bị ảnh hưởng bởi
các động cơ phi tài chính. Chẳng hạn như một số nhà quản lý thích đạt được những
thành tích vẻ vang, sự công nhận của đồng nghiệp và sự hài lòng của bản thân trên
đỉnh vinh quang. Bên cạnh đó, thuyết quản trị còn đưa ra quan điểm cho rằng hiệu
suất làm việc của nhà quản lý bị ảnh hưởng bởi việc hội đồng quản trị có ủng hộ và
tạo điều kiện cho họ làm việc hiệu quả hay không. Donaldson & Davis (1991) lập
luận rằng, quyết định của CEO được tạo điều kiện một cách tốt nhất nếu quyền lực
của CEO là cao nhất. Tình huống này sẽ dễ dàng hơn nếu CEO cũng đồng thời là
chủ tịch hội đồng quản trị. Đồng thời, tác giả cho rằng CEO sẽ dễ dàng tối đa hóa
lợi ích của mình khi CEO tối đa hóa lợi ích của các cổ đông trước. Bên cạnh đó,
một CEO đồng thời là chủ tịch hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm về số phận
của công ty, có quyền xây dựng chiến lược kinh doanh và ra quyết định mà không
sợ phản đối bởi bất kỳ thành viên nào của hội đồng quản trị. Do đó, các nhà nghiên
cứu lấy thuyết quản trị làm nền tảng tập trung vào các khả năng tạo điều kiện và
trao quyền hơn là khả năng theo dõi và kiểm soát của hội đồng quản trị. Đồng quan
điểm, Argyris (1964) cho rằng sự kiểm soát sẽ có khả năng phản tác dụng, bởi vì nó
làm suy yếu hành vi ủng hộ cổ đông của CEO, không tạo động lực tốt nhất để CEO
làm tròn bổn phận của mình. Vì thế, thuyết quản trị đề xuất người quản lý nên được
trao quyền lực cao nhất để đưa ra quyết định tốt nhất dựa trên sự tin tưởng và ủng
hộ của các cổ đông. Từ đó, góp phần làm giảm chi phí giám sát và nâng cao hiệu
quả hoạt động của công ty.
2.2 Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Mối quan hệ giữa thành viên hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động công ty
có liên quan chặt chẽ đến việc ra quyết định nhóm trong lĩnh vực kinh tế và tâm lý –
xã hội, Cheng (2008). Về khía cạnh kinh tế, Sah & Stiglitz (1991) cho rằng quyết
định nhóm tạo ra nhiều ý kiến đa dạng, vì ý kiến chủ quan cá nhân có thể dẫn đến
sai sót. Chính vì vậy, quyết định cuối cùng của nhóm chính là một sự thỏa hiệp
9
phản ánh các ý kiến khác nhau. Do đó, các nhóm lớn hơn có khả năng từ chối các
dự án rủi ro cao hơn vì một dự án phải được coi là tốt nếu đa số thành viên trong
nhóm chấp nhận dự án đó. Sử dụng mẫu là 71 công ty niêm yết ở New Zealand,
thông qua phương pháp hồi quy 2 giai đoạn, Reddy & cộng sự (2008) tìm ra bằng
chứng cho thấy quy mô hội đồng quản trị có tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt
động công ty. Quy mô hội đồng trung bình của các công ty niêm yết New Zealand
là 6 thành viên. Ít hơn so với số lượng mà Jensen & Meckling (1976) khuyến nghị
cho các công ty niêm yết ở Mỹ. Theo nghiên cứu thực nghiệm của Coles & cộng sự
(2008), với mẫu gồm 8165 quan sát của các công ty Execucomp giai đoạn 1992 đến
2001, nhóm tác giả lập luận rằng công ty nào có xu hướng hội đồng quản trị càng
lớn thì càng có khả năng cải thiện mức độ hiệu quả tài chính. Tác giả cho rằng việc
tăng số lượng thành viên tạo thành một nhóm chuyên môn đa dạng và do đó một hội
đồng lớn tập hợp nhiều kiến thức và kỹ năng hơn một hội đồng nhỏ. Hơn thế nữa,
hội đồng lớn hơn có thể làm giảm sự thống trị của CEO, Forbes & Milliken (1999).
Trong một nghiên cứu gần đây, Ahmadi & cộng sự (2018) đã đưa ra bằng chứng
cho thấy tương quan tích cực giữa hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động công ty
với mẫu là các công ty Pháp được niêm yết trên CAC40 từ năm 2011 đến 2013.
Bên cạnh đó, Goshi & cộng sự (2002) cho rằng một hội đồng quản trị tốt nên
bao gồm cả thành viên điều hành và thành viên không điều hành. Ertimura & cộng
sự (2010) cũng đồng ý quan điểm trên, các công ty có thành viên không điều hành
sẽ hoạt động hiệu quả hơn là các công ty không có thành viên không điều hành.
Bằng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất trong phân tích hồi quy, với
mẫu là 273 công ty được niêm yết sàn chứng khoán Hong Kong năm 2002. Khi
nghiên cứu về hiệu quả hoạt động và sự độc lập của hội đồng quản trị, Chau & Gray
(2010) đã kết luận rằng hiệu quả hoạt động công ty niêm yết Hong Kong có thành
viên không điều hành tốt hơn so với các công ty không có thành viên không điều
hành. Đồng quan điểm, Ahmadi & cộng sự (2018) khi nghiên cứu về các công ty
niêm yết của Pháp trên CAC40 giai đoạn 2011-2013, nhóm tác giả tìm thấy mối
quan hệ tích cực giữa 2 yếu tố này, dựa trên lập luận thành viên không điều hành là
10
một cá nhân độc lập, kiểm soát tốt hơn và không cho phép bất kỳ một lợi ích cá
nhân nào được thực hiện. Sử dụng mẫu gồm 6931 quan sát từ năm 1990 đến 2004
của các công ty niêm yết ở Mỹ, Linck & cộng sự (2006) đưa ra một quan điểm trái
ngược. Nhóm tác giả tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa hiệu quả hoạt động và sự
hiện diện của các thành viên không điều hành trong hội đồng quản trị. Tác giả lập
luận rằng thành viên không điều hành không đủ năng lực để kiểm soát hiệu quả các
nhà quản lý.
Cơ cấu hội đồng quản trị đa dạng không chỉ nhờ thành viên không điều hành
mà còn có thêm sự hiện diện của phụ nữ trong hội đồng. Các nghiên cứu về sự đa
dạng giới tính đã gây nhiều sự chú ý trong giới học thuật những năm vừa qua. Hầu
hết, các nghiên cứu này bắt đầu từ một thực tế rằng số lượng phụ nữ xuất hiện trong
ban quản lý, ban giám đốc ngày càng nhiều. Farell Hersch (2005) thậm chí cho rằng
sự gia tăng số lượng phụ nữ trong ban quản trị là một động thái đặc biệt quan trọng
để cải thiện hình ảnh của công ty đồng thời thu hút các nhà đầu tư mới. Tuy nhiên,
cho đến nay, không có sự đồng thuận từ bất kỳ tài liệu nào về sự hiện diện của
người phụ nữ và hiệu quả hoạt động công ty. Một số nghiên cứu cho rằng sự đa
dạng giới dẫn đến hiệu quả hoạt động tăng trong khi những nghiên cứu khác lại
không cho rằng có tồn tại mối quan hệ này. Khi nghiên cứu về sự ảnh hưởng của
phụ nữ trong hội đồng quản trị đến hiệu quả hoạt động và hiệu quả tài chính vững
chắc của công ty, Erhardt & cộng sự (2003) chọn mẫu gồm 127 công ty lớn của Mỹ
từ 1993 đến 1998. Kết quả thực nghiệm cho thấy thành viên nữ tham gia tích cực
hơn trong các cuộc họp hội đồng, điều này thúc đẩy sự kiểm soát, quản lý của hội
đồng quản trị. Do đó, sự đa dạng giới chính là sợi dây liên kết lợi ích của nhà quản
lý với cổ đông, góp phần làm chi phí đại diện giảm. Cùng quan điểm, Julizaerma &
Sori (2012) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa sự hiện diện của phụ nữ trong hội
đồng quản trị và hiệu suất của mẫu dữ liệu gồm 280 công ty niêm yết Malaysia năm
2008-2009. Hơn thế nữa, Ahmadi & cộng sự (2018) cũng tìm thấy tương quan tích
cực giữa tỷ lệ phụ nữ trong hội đồng với hiệu quả hoạt động công ty được đo lường
bằng cả ROA và ROE với mẫu là 108 quan sát của các công ty niêm yết Pháp trên
11
CAC40 từ năm 2011 đến 2013. Bất chấp các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tác
động tích cực của phụ nữ trong hội đồng quản trị đến hiệu quả hoạt động công ty,
một số nhà nghiên cứu đã phủ định mối quan hệ giữa 2 yếu tố này. Wang & Clift
(2009) sử dụng mẫu là 500 công ty hàng đầu trên thị trường chứng khoán Úc
(AUX) đại diện cho 95% vốn hóa thị trường năm 2003, nhóm tác giả đã chỉ ra rằng
sự đa dạng giới tính trong hội đồng quản trị không cải thiện đáng kể khi hiệu quả
hoạt động tài chính được đo bằng lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) và lợi
nhuận trước thuế trên tổng tài sản (ROA). Cùng quan điểm, Adams & Ferreira
(2009) tiến hành thu thập mẫu dữ liệu bảng bất cân xứng của của 1939 công ty từ
năm 1996 đến 2003, mẫu được lấy từ Dữ liệu Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
Trách nhiệm của Nhà đầu tư (IRRC) và ExecuComp. Kết quả thực nghiệm cho thấy
mối quan hệ tiêu cực giữa đa dạng giới và hiệu quả hoạt động của công ty, nhóm tác
giả cho rằng ban quản trị có sự hiện diện của phụ nữ dễ dẫn đến tình trạng kiểm soát
quá mức đối với các công ty đã có sự quản trị chặt chẽ. Vì thế, sự cân bằng giữa khả
năng giám sát của hội đồng và khả năng quản lý của giám đốc điều hành rất cần
thiết.
Sự kiêm nhiệm của giám đốc điều hành và chủ tịch hội đồng quản trị luôn gây
ra những tranh cãi gay gắt của các nhà nghiên cứu. Fama và Jensen (1983) lập luận
rằng sự kiêm nhiệm này chính là thất bại của một hội đồng quản trị, vì hội đồng
không thể thực hiện đúng chức năng của mình bao gồm cả việc đánh giá và sa thải
CEO. Đồng thời tác giả lập luận rằng sự tập trung quyền lực ở một cá nhân làm
giảm hiệu quả của hội đồng quản trị trong việc giám sát các nhà quản lý cấp cao.
Khi nghiên cứu về cơ cấu lãnh đạo công ty, Brickley & cộng sự (1997) cho rằng sự
tách bạch hai vị trí này có thể tạo ra nhiều chi phí giám sát không đáng có cho các
cổ đông. Sử dụng mẫu gồm 2021 quan sát của các công ty niêm yết Mỹ giai đoạn
1995-2002, Faleye (2007) phát hiện ra rằng sự kiêm nhiệm của CEO tương quan
tích cực với cấu trúc tổ chức công ty, danh tiếng của CEO và mức độ sở hữu của
người quản lý. Ủng hộ quan điểm trên, Kaymak & Bektas (2008) tiến hành thu thập
mẫu dữ liệu của 27 công ty niêm yết Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2001-2004, kết quả thực
12
nghiệm chứng minh rằng sự kiêm nhiệm có tương quan tích cực với hiệu suất các
công ty ở Thổ Nhĩ Kỳ, tác giả cho rằng sự kết hợp của hai chức vụ này cho phép
một nhà lãnh đạo giỏi sẽ làm hiệu quả hoạt động công ty tăng vượt trội. Ahmadi &
cộng sự (2018) đã tìm ra bằng chứng cho thấy sự kiêm nhiệm của CEO khuếch đại
hiệu quả hoạt động của 40 công ty niêm yết Pháp trên CAC40. Tuy nhiên, Rego &
Wilson (2012) đã đưa ra một quan điểm trái ngược về mối quan hệ này, sử dụng
mẫu là 18240 quan sát thu thập từ các công ty có chỉ số S&P500 cao nhất từ 19922009, kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ tiêu cực khi một giám đốc kiêm nhiêm
chủ tịch hội đồng quản trị, tác giả lập luận rằng sự kiêm nhiệm nhiều chức vụ là tín
hiệu của một hệ thống quản trị yếu kém vì nó tạo ra sự trì trệ của các nhà lãnh đạo.
Việc ra quyết định của CEO có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát
triển của công ty. Nếu một CEO ra quyết định quá non nớt và khờ dại thì sẽ gây ra
những hậu quả nghiêm trọng. Vì thế mà CEO phải là người có nhiều kinh nghiệm
và kiến thức chuyên môn để củng cố vị thế của mình. Câu hỏi đặt ra là, số năm tại
chức có giúp các CEO ra quyết định một cách đúng đắn nhất không? Trả lời cho
câu hỏi này, Katz (1982) cho rằng thâm niên CEO càng cao càng cứng nhắc hơn
trong cách tiếp cận các chính sách kinh doanh mới. Đồng thời, họ còn có thể hạn
chế việc thu thập và xử lý thông tin bằng cách thiết lập các cấu trúc tổ chức không
linh hoạt, Miller & Friensen (1984). Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của hội đồng
quản trị lên việc ra quyết định mang tính chiến lược của công ty, Golden & Zajac
(2001) cho rằng nhiệm kỳ kéo dài của các thành viên hội đồng quản trị có liên quan
đến những quyết định bảo thủ và có thể dẫn đến tình trạng phớt lờ những ý tưởng
kinh doanh mới của công ty. Ủng hộ quan điểm trên với mẫu là 40 công ty Pháp
niêm yết trên CAC40, Ahmadi & cộng sự (2018) đưa ra bằng chứng cho thấy một
CEO tại chức càng lâu, càng làm cho hiệu quả hoạt động công ty giảm.
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Hoàng Cẩm Trang & Võ Văn Nhị (2014) đã
xem xét ảnh hưởng của thành viên nữ trong hội đồng quản trị đến hiệu suất công ty
như thế nào. Sử dụng mẫu là 100 công ty niêm yết trên sàn HOSE đại diện cho
13
89.74% tổng giá trị vốn hóa thị trường Việt Nam tại cuối năm 2013. Kết quả bài
nghiên cứu cho thấy thành viên nữ có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động
công ty khi đo lường bằng giá trị thị trường (Tobin’s Q). Tuy nhiên, khi dùng chỉ số
ROA, ROE, ROCE làm đại diện cho hiệu quả hoạt động công ty, nhóm tác giả lại
không tìm thấy ý nghĩa thống kê của biến thành viên nữ này. Trong một nghiên cứu
tương tự của Hoàng Thị Phương Thảo & cộng sự về sự đa dạng giới tính, cơ cấu sở
hữu nhà nước và hiệu quả hoạt động công ty (2015). Tác giả không tìm thấy sự tác
động của sự đa dạng giới tính trong hội đồng quản trị lên hiệu quả hoạt động công
ty có sở hữu nhà nước. Lý giải cho điều này, tác giả cho rằng phụ nữ thường xuất
hiện trong các công ty gia đình, chính vì vậy mà sự hiện diện của họ chỉ mang tính
chất sở hữu hình thức và không có ảnh hưởng đến thành quả công ty.
Bên cạnh đó, Phạm Hữu Hồng Thái & Phan Thị Mỹ Kiều (2018) đã đưa ra 2
lý do khuyến khích sự kiêm nhiệm của CEO. Thứ nhất, sự kiêm nhiệm sẽ tập trung
quyền lực giúp CEO thích ứng nhanh với các biến động của thị trường. Thứ hai,
CEO đảm nhận hai vị trí khiến họ toàn tâm toàn ý bảo vệ lợi ích của các cổ đông,
thực hiện tốt công tác quản trị và nâng cao hiệu quả công ty. Củng cố cho lập luận
của mình, nhóm tác giả tiến hành thu thập mẫu của 214 công ty niêm yết trên HNX
giai đoạn 2010-2016 và sắp xếp thành một dữ liệu bảng cân đối gồm 1498 quan sát.
Nhóm tác giả đã đưa ra bằng chứng thực nghiệm ủng hộ cho quan điểm của mình,
sự kiêm nhiệm của CEO có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp.
Tuy nhiên, kết quả bài nghiên cứu còn cho thấy quy mô hội đồng quản trị có
tác động tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp được đo lường bằng Tobin’s Q. Khi
nghiên cứu về tác động của quản trị doanh nghiệp đến kết quả hoạt động của các
doanh nghiệp tư nhân lớn ở Việt Nam, Lê Quang Cảnh & cộng sự (2014) đã sử
dụng 5 yếu tố thể hiện cho khả năng quản trị doanh nghiệp của công ty: sự kiêm
nhiệm CEO; quy mô hội đồng quản trị; thành viên độc lập; quy mô ban giám đốc;
giới tính của CEO. Sau đó, tác giả tiến hành phân tích hồi quy mẫu gồm 254 doanh
nghiệp lớn theo xếp hạng của VNR500 năm 2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự
14
kiêm nhiệm CEO có tác động tích cực đến kết quả hoạt động công ty trong khi
thành viên độc lập không có ý nghĩa thống kê. Mặt khác, tác giả tìm thấy quy mô
hội đồng quản trị có tác động tiêu cực đến kết quả hoạt động công ty. Giải thích cho
kết quả nghiên cứu, tác giả cho rằng một công ty có hội đồng càng lớn sẽ tốn nhiều
thời gian để có sự đồng thuận vì sự phân tán ý tưởng sẽ đem đến tác động tiêu cực
đến quá trình ra quyết định của hội đồng. Trong một nghiên cứu tương tự, Đoàn
Ngọc Phúc & Lê Văn Thông (2014) đã xem xét tác động của quản trị doanh nghiệp
đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
Việt Nam. Với mẫu gồm 217 doanh nghiệp được niêm yết trên HOSE và HNX, tác
giả đã đưa ra kết quả thực nghiệm cho thấy quy mô hội đồng và sự kiêm nhiệm của
CEO không tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh được đo lường bằng cả
ROA và ROE. Bên cạnh đó, tác giả còn tìm thấy tác động tích cực của thành viên
độc lập đến hiệu quả hoạt động công ty, tác giả lập luận rằng hội đồng quản trị với
các thành viên độc lập từ bên ngoài góp phần tăng khả năng giám sát và có thể giảm
thiểu các vấn đề đại diện.
Nhìn chung, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động công ty
nhưng chủ yếu vẫn là: hội đồng quản trị, giám đốc điều hành, sự hiện diện của
thành viên không điều hành và thành viên nữ. Ở chương này, tác giả đã trình bày
ngắn gọn kết quả của các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về tác động của
các yếu tố trên đến hiệu quả hoạt động công ty. Từ đó có cái nhìn bao quát về tổng
thể về nội bộ công ty nói riêng và toàn thể nền kinh tế nói chung. Hơn thế nữa, từ
những tác động này, các công ty có thể lựa chọn cho mình một chiến lược kinh
doanh phù hợp, xem xét lại các vấn đề còn tồn đọng trong công ty, xây dựng một cơ
cấu hợp lý nhằm tối đa hóa giá trị doanh nghiệp và lợi ích cổ đông.
15
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Dữ liệu
Dữ liệu của bài nghiên cứu được thu thập trên báo cáo tài chính và báo cáo
thường niên của 220 công ty phi tài chính được niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX) trong giai đoạn từ năm
2009 đến năm 2017. Để tìm được một mẫu thích hợp, tác giả đã lần lượt thực hiện
hai bước:
Bước một, khi thu thập dữ liệu, những quan sát thuộc công ty trong lĩnh vực:
Tài chính, Ngân hàng, Bất động sản sẽ bị loại khỏi mẫu vì những ngành này có các
yếu tố đặc trưng, không phù hợp với mục tiêu bài nghiên cứu. Việc loại bỏ này phù
hợp với quan điểm của tác giả trong bài nghiên cứu gốc.
Bước hai, thu thập dữ liệu của các công ty mà tại đó thông tin của công ty
được báo cáo liên tục trong 9 năm, từ năm 2009 – 2017. Dữ liệu bắt đầu từ năm
2009 vì năm 2008 khủng hoảng kinh tế xảy ra làm ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế
Việt Nam, số liệu trên báo cáo tài chính của công ty có nhiều biến động, điều này sẽ
khiến kết quả của bài nghiên cứu không khả quan. Mẫu dữ liệu dừng ở năm 2017 vì
cũng gần năm hiện tại, tình hình kinh tế cũng ổn định hơn.
Sau khi thực hiện các bước trên, thu được một bộ dữ liệu gồm 220 công ty phi
tài chính gồm 1980 quan sát được sắp xếp theo dữ liệu bảng cân xứng. Nguồn dữ
liệu được lấy từ những trang web khá tin cậy như: finance.vietstock.vn , cafef.vn.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Mô tả biến
Để xem xét tác động của cơ cấu hội đồng quản trị, sự kiêm nhiệm CEO, sự đa
dạng giới tính lên hiệu quả hoạt động của công ty, tác giả lần lượt sử dụng ROA it và
ROE it là thước đo của hiệu quả hoạt động công ty, đây là biến phụ thuộc của mô
hình. Đồng thời, tác giả sử dụng 4 biến độc lập là: Board Size it , Board
Independence it , CEO Tenure it , Gender Diversity it . Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng
16
1 biến giả Dualityit , 2 biến kiểm soát: Leverage Ratio it và Firm Size it . Từ đó, mô
hình chính của bài nghiên cứu được thiết lập:
PERFORM it = β 0 + β 1 Board Size it
+
β 2 Board Independence it + β 3 Dualityit +
β 4 CEO Tenure it + β 5 Gender Diversityit + β 6 Leverage Ratio it + β 7 Firm Size it + e it
Trong đó PERFORM it được tác giả thay thế lần lượt là ROA it và ROE it. Các
biến trong mô hình được tính toán như sau:
Biến phụ thuộc ROA it : Tỷ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản, là một chỉ số
cho biết hiệu quả sử dụng tài sản của công ty để sinh lời. ROA càng cao phản ánh
lượng tiền kiếm được trên cùng một lượng tài sản càng lớn. Chen (2008),
Veprauskaite & Adams (2013) tính toán tỉ số này bằng cách lấy thu nhập trước lãi
vay và thuế (EBIT) chia cho giá trị sổ sách của tổng tài sản khi sử dụng ROA làm
đại diện cho hiệu quả hoạt động công ty. Trong khi đó, đa số các nhà nghiên cứu
khác: Core (1999), Wang & Clift (2009),… và tác giả bài nghiên cứu gốc Ali
Ahmadi (2018) sử dụng cách tính:
ROA it =
Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản
Biến phụ thuộc ROE it : Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu, tỷ số này
cho biết khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường. ROE càng cao
càng chứng tỏ vốn của cổ đông được sử dụng rất hiệu quả, nghĩa là công ty đã cân
đối một cách hài hòa giữa việc vay nợ và sử dụng vốn cổ phần để khai thác lợi thế
cạnh tranh của mình trong quá trình mở rộng quy mô và huy động vốn. ROE được
chứng minh là thước đo tin cậy cho các nhà đầu tư, Johnson & Greening (1999) và
nó thích hợp sử dụng trong cả ngắn hạn và dài hạn, Brealey & Myers (2000). Nhìn
chung, ROE là thước đo cho nhà đầu tư thấy công ty có thể tạo ra bao nhiêu lợi
nhuận, sử dụng tiền đầu tư từ các cổ đông của mình như thế nào
ROE it =
Lợi nhuận ròng
Vốn chủ sở hữu