Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về công bằng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 171 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----

VŨ THỊ MINH TÂM

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----

VŨ THỊ MINH TÂM

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Chuyên ngành:

Hồ Chí Minh học

Mã số:

62 31 02 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. Nguyễn Văn Huyên

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu độc lập và hoàn toàn mới
của tác giả; luận án không trùng lặp, sao chép bất kỳ công trình khoa học nào, nếu
sao chép và trùng lặp tôi xin chịu trách nhiệm trước tổ chức!
NGHIÊN CỨU SINH

Vũ Thị Minh Tâm


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án ..........................................................................5
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án ......................................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..........................................................8
5. Đóng góp mới của luận án ...................................................................................9
6. Ý nghĩa của luận án .............................................................................................9
7. Kết cấu của luận án ..............................................................................................9
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .....................................10
1.1. Các nghiên cứu lý luận chung về công bằng xã hội và cơ sở lý luận, thực tiễn
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội ........................................... 10
1.2. Các nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung công bằng xã hội ............ 19
1.3. Các nghiên cứu về giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội ............ 29

1.4. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan và những vấn đề đặt ra luận án
hướng tới giải quyết ................................................................................................... 33
1.4.1. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan .........................................33
1.4.2. Những vấn đề đặt ra luận án hướng đến giải quyết ..................................34
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................35
Chương 2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ SỰ HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG CÔNG BẰNG XÃ HỘI CỦA HỒ CHÍ MINH ..............36
2.1. Một số quan điểm về công bằng xã hội trong lịch sử tư tưởng ......................... 36
2.1.1. Quan niệm ngoài mác xít về công bằng xã hội ........................................36
2.1.2. Quan điểm mác xít về công bằng xã hội ..................................................38
2.1.3. Khái niệm và đặc trưng của công bằng xã hội .........................................39
2.2. Cơ sở hình thành và khái niệm “công bằng xã hội” trong tư tưởng Hồ Chí Minh... 43
2.2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội ....................43
2.2.2. Khái niệm “công bằng xã hội” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ...................63
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................73

1


Chương 3. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI .75
3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công bằng xã hội trong sự
nghiệp cách mạng ...................................................................................................... 75
3.1.1. Công bằng xã hội là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng .........................75
3.1.2. Công bằng xã hội là động lực của sự nghiệp cách mạng .........................80
3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung thực hiện công bằng xã hội trên một
số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội ..................................................................... 86
3.2.1. Công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế ...................................................86
3.2.2. Công bằng xã hội trên lĩnh vực chính trị ..................................................91
3.2.3. Công bằng xã hội trên lĩnh vực văn hóa, xã hội .......................................96
3.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về điều kiện thực hiện công bằng xã hội ......... 103

3.3.1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là điều kiện tiên quyết để thực hiện
công bằng xã hội...............................................................................................103
3.3.2. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở cho việc thực hiện công bằng xã hội........105
3.3.3. Nhà nước vững mạnh là điều kiện bảo đảm cho thực hiện CBXH ..............105
3.3.4. Pháp luật là điều kiện đảm bảo cho công bằng xã hội được thực hiện
nghiêm minh .....................................................................................................108
3.3.5. Dân trí là điều kiện cơ bản để thực hiện công bằng xã hội ....................112
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................114
Chương 4. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ......................................................................116
4.1. Giá trị trong xác lập vị trí, vai trò của công bằng xã hội đối với sự nghiệp
cách mạng ............................................................................................................... 116
4.1.1. Giá trị trong xác định công bằng xã hội là mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng ........................................................................................................ 116
4.1.2. Giá trị trong xác định công bằng xã hội là động lực của sự nghiệp cách
mạng ........................................................................................................ 120
4.2. Giá trị trong xác định nội dung thực hiện công bằng xã hội trên một số lĩnh vực
cơ bản của đời sống xã hội ...................................................................................... 123
4.2.1. Giá trị trong xác định nội dung thực hiện công bằng xã hội trên lĩnh vực
kinh tế ...............................................................................................................123
4.2.2. Giá trị trong xác định nội dung thực hiện công bằng xã hội trên lĩnh vực
chính trị .............................................................................................................130
2


4.2.3. Giá trị trong xác định nội dung thực hiện công bằng xã hội trên lĩnh vực
văn hóa - xã hội ................................................................................................135
4.3 Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tạo lập các điều kiện thực hiện công
bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay ...................................................................... 140
4.3.1. Công bằng xã hội phải trở thành mục tiêu nhất quán của Đảng, Nhà nước ....140

4.3.2. Gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội .......................142
4.3.3. Công bằng xã hội phải được thể chế hóa thành luật pháp ......................145
4.3.4. Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh .............142
4.3.5. Nâng cao nhận thức của Nhân dân về dân chủ và công bằng xã hội ...........146
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................150
KẾT LUẬN ............................................................................................................152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐỂN
LUẬN ÁN ...............................................................................................................155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................156

3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BĐXH

: Bình đẳng xã hội

CBXH

: Công bằng xã hội

CNCS

: Chủ nghĩa cộng sản

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản


CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CSCN

: Cộng sản chủ nghĩa

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

TLSX

: Tư liệu sản xuất

TTKT

: Tăng trưởng kinh tế

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
CBXH là ước mơ, lý tưởng, khát vọng chính đáng và cao đẹp của mỗi con

người. Xã hội càng phát triển, nhận thức của con người càng sâu rộng thì những vấn
đề về công bằng, bình đẳng đặt ra cũng ngày càng đa dạng, phức tạp hơn. Ở các
mức độ khác nhau, các quốc gia đều phải quan tâm tới việc thực hiện CBXH, vì đó
chính là một trong những động lực mạnh mẽ nhất của sự TTKT; đồng thời, là một
yếu tố quan trọng quyết định tới sự phát triển ổn định, bền vững của xã hội. Đối với
Việt Nam, CBXH chính là một trong những giá trị quí báu, trở thành mục tiêu phấn
đấu, thành khát vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc.
Bằng chính sự trải nghiệm của bản thân về những áp bức bất công khi phải sống
trong chế độ thuộc địa nửa phong kiến, những bài học lý luận và thực tiễn đúc kết từ
quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm phải xây
dựng một xã hội công bằng, mọi người được sống trong ấm no, tự do, hạnh phúc.
CBXH là tư tưởng hết sức quan trọng, xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh. Người coi CBXH là mục tiêu và động lực to lớn của cách mạng Việt Nam. Hồ
Chí Minh đề cập tới CBXH một cách khá toàn diện. Nó không bị đóng khung trong
việc xem xét quá trình cống hiến và hưởng thụ kết quả hoạt động trong lĩnh vực kinh
tế, mà còn thể hiện trên các bình diện chính trị, văn hóa, xã hội. Hơn nữa, Người còn
chỉ ra những điều kiện để đảm bảo thực hiện tốt CBXH. Đấu tranh để xây dựng một xã
hội công bằng là một trong những nội dung quan trọng, là vấn đề cốt lõi chi phối mọi
tư duy và hành động của Hồ Chí Minh từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi về
cõi vĩnh hằng, nó chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc, bền vững. Với tư cách là
hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện và độc đáo về những nội dung cơ bản của
CBXH; từ thực tiễn lịch sử dân tộc và thực tiễn thực hiện CBXH trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH có giá trị to lớn về mặt lý
luận, là sự phát triển, bổ sung, làm sâu sắc, phong phú tư tưởng về CBXH của lịch sử
tư tưởng nhân loại nói chung, quan điểm mác xít về CBXH nói riêng.
5


Vận dụng trung thành và sáng tạo tư tưởng HCM về CBXH, Đảng và Nhà
nước Việt nam luôn coi CBXH là một đặc trưng quan trọng, mục tiêu tổng quát của

CNXH, thể hiện rõ nét tính ưu việt của chế độ. Các chủ trương, chính sách thể hiện
rõ sự quan tâm hàng đầu tới việc bảo đảm thực hiện CBXH vì mục tiêu phát triển
con người. Sau hơn ba mươi năm đổi mới, việc thực hiện CBXH đã đạt được những
thành tựu to lớn: nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng ổn định, các thành phần kinh tế
song song tồn tại và có đóng góp hiệu quả vào sự phát triển kinh tế của đất nước,
chế độ tiền lương có sự cải cách cho phù hợp với đóng góp của người lao động, các
cơ hội được mở rộng cho đông đảo Nhân dân, phân hóa giàu nghèo có gia tăng
nhưng vẫn trong giới hạn không cản trở sự phát triển; công tác chăm sóc sức khỏe,
giáo dục, đào tạo, an sinh xã hội đạt được những kết quả đáng khích lệ v.v..
Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới đất nước, nhất là bối cảnh phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề CBXH nổi lên và đang đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc như: tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm còn khá cao; khoảng
cách chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng theo từng năm; việc hưởng thụ
các dịch vụ y tế, giáo dục còn có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn,
miền xuôi và miền núi… Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, nhưng cơ bản nhất là do thiếu sự thống nhất trước hết là trong nhận thức
về CBXH nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH nói riêng. Mặt khác, quá
trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH trong thực tiễn có những nơi,
những thời điểm mang tính tự phát, thiếu sự đồng bộ trong các giải pháp.
Do đó, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc, hệ thống hoá tư tưởng Hồ Chí
Minh về CBXH để hiểu thấu đáo, đầy đủ, sâu sắc, thống nhất về nhận thức, trên cơ
sở đó đề xuất nguyên tắc cơ bản vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện
CBXH là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Là người đang trực tiếp làm công tác giảng dạy và nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh, tôi mong muốn có những đóng góp nhất định để góp phần làm sáng tỏ
thêm những nội dung và giá trị tư tưởng của di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là
tư tưởng của Người về CBXH.
6



Từ những lý do nêu trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về công bằng xã hội” để viết luận án tiến sĩ Chính trị học, chuyên ngành
Hồ Chí Minh học
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
* Mục đích
Nghiên cứu, làm rõ cơ sở hình thành, nội dung chủ yếu và chỉ ra giá trị lý
luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về CBXH.
- Phân tích, luận giải và khái quát một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về CBXH.
- Đánh giá và rút ra giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH trong thực
hiện CBXH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH và giá trị của tư tưởng đó trong giai đoạn
hiện nay ở Việt Nam.
* Phạm vi
- Về nội dung:
+ Luận án tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về CBXH được thể hiện trong các tác phẩm của Người (chủ yếu là các tác
phẩm viết từ năm 1945) trong thực tiễn quá trình Người lãnh đạo đất nước; các
quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề CBXH.
+ Luận án khái quát một số thành tựu và những vấn đề đặt ra trong thực hiện
CBXH ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong những năm đổi mới (tập trung từ
Đại hội VII đến nay), trên cơ sở đó chỉ ra giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về
CBXH đối với việc thực hiện vấn đề này ở Việt Nam hiện nay.
7



- Về không gian: thực hiện nghiên cứu các vấn đề trên lãnh thổ Việt Nam.
- Về thời gian: khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện CBXH ở Việt Nam chủ
yếu từ năm 2001 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của việc thực hiện luận án là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
CNXH, về nội dung và con đường xây dựng xã hội XHCN văn minh, tiến bộ.
Luận án cũng dựa trên cơ sở lý luận của các lý thuyết về công bằng, bình đẳng,
tự do, dân chủ khoa học, tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Những thành tựu
nghiên cứu về công bằng đã được công bố cũng được luận án khai thác, sử dụng.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Luận án được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử và lôgic, ngoài ra
còn kết hợp với các phương pháp khác như: phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tài liệu. Cụ thể:
+ Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic được sử dụng nhằm làm rõ
việc thực hiện CBXH mà Hồ Chí Minh đã chỉ đạo trong quá trình trực tiếp lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Mặt khác, thông qua nghiên cứu những thành tựu và
hạn chế trong thực hiện CBXH trong hơn 30 năm đổi mới để xác định những yêu
cầu đặt ra, các giá trị nhằm thực hiện tốt hơn CBXH trong giai đoạn hiện nay.
+ Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp được sử dụng nhằm phân
tích quan điểm của Hồ Chí Minh về CBXH. Đồng thời, đánh giá quá trình thực hiện
CBXH trong hơn 30 năm đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Phương pháp so sánh, được sử dụng nhằm làm rõ sự kế thừa và phát triển của
Hồ Chí Minh về CBXH từ văn hóa truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và

chủ nghĩa Mác - Lênin, làm rõ được quá trình thực hiện CBXH trong các giai đoạn cách
mạng giải phóng dân tộc và trong hơn 30 năm tiến hành đổi mới của đất nước.
8


+ Phương pháp phân tích tài liệu, góp phần vào việc nghiên cứu, đánh giá các
quan điểm của Hồ Chí Minh, các công trình khoa học, quan điểm của Đảng, Nhà nước
và các chuyên gia về CBXH.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án làm rõ khái niệm CBXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Luận án làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH, gồm có:
cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh.
- Luận án làm rõ những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH. Bao
gồm: vị trí, vai trò của CBXH; nội dung thực hiện CBXH trên một số lĩnh vực chủ
yếu của đời sống xã hội; điều kiện thực hiện CBXH. Từ đó, rút ra giá trị tư tưởng
Hồ Chí Minh về CBXH trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
* Ý nghĩa lý luận
- Với những đóng góp khoa học mới về CBXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh
nêu trên luận án đã góp phần làm phong phú và sâu thêm những quan điểm, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Luận án góp phần hệ thống hóa và luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về
CBXH.
- Trên cơ sở những nội dung cơ bản của tư tưởng của Hồ Chí Minh về
CBXH, góp phần cung cấp luận cứ, định hướng lý luận cho việc thực hiện CBXH ở
Việt Nam hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để phục vụ công tác
nghiên cứu và giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường Đại học
và Cao đẳng; phục vụ công tác tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư

tưởng Hồ Chí Minh về CBXH.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố
liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 04 chương, 12 tiết.
9


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các nghiên cứu lý luận chung về công bằng xã hội và cơ sở lý luận,
thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội
Lý luận chung về công bằng xã hội
Từ rất sớm trong lịch sử, CBXH là gì và thực hiện CBXH như thế nào đã là
câu hỏi lớn mà các nhà tư tưởng cố gắng đi tìm câu trả lời bằng nhiều cách khác
nhau. Lịch sử tư tưởng nhân loại ghi nhận những đóng góp quan trọng của các nhà
triết học cổ đại như: Platon, Aristoteles khi đã tiếp cận CBXH từ lát cắt chính trị, là
tiêu chuẩn để phân biệt các nhà nước, luận giải cơ sở xã hội của CBXH. Theo C.
Mác, chính Aristoteles là người đầu tiên phát hiện thấy cơ sở của sự CBXH là sự
công bằng trong trao đổi vật phẩm dựa trên một thước đo bình đẳng và do đó, thước
đo của sự công bằng nằm chính trong cơ sở kinh tế. Tuy nhiên, cho đến tận trước
thế kỉ XVIII, trong triết học và chính trị học phương Tây, sự thừa nhận bất bình
đẳng tự nhiên của con người vẫn là tư tưởng nổi bật. Trên cơ sở đó, những đặc
quyền về đẳng cấp, giai cấp được xem như là công bằng và được bảo vệ. Từ giữa
thế kỷ XVIII đã xuất hiện tư tưởng về bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong
mức sống như là nội dung bản chất của CBXH với các đóng góp quan trong của
Hobbs, Locke, Saint Simon, Fourier, Owen và đặc biệt là đóng góp của nhà lý luận
pháp quyền J.J Rousseau.
Một trong những tác phẩm có tính nền tảng về vấn đề CBXH trong lịch sử
triết học của J.J Rousseau là Bàn về khế ước xã hội [127]. Trong tác phẩm này, tự
do, bình đẳng và sự cảm thông sâu sắc với thân phận con người là tư tưởng chủ đạo.

Theo J.J Rousseau, nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng trong xã hội là do chế
độ tư hữu và những lầm lạc của con người. Ông phê phán mạnh mẽ những người cam
chịu, không dám đấu tranh, từ bỏ tự do của mình, bởi “Từ bỏ tự do của mình là từ bỏ
phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người” [127, tr.59].
J.J Rousseau đưa ra biện pháp để thiết lập tự do, bình đẳng giữa người với người đó
10


là Nhà nước phải được tổ chức cai trị bằng một khế ước xã hội, trong đó, mọi thành
viên kết hợp với nhau thành một lực lượng chung, được điều khiển bằng một động cơ
chung, một ý chí chung. Quan niệm tiến bộ của J.J Rousseau là một làn gió mới, thức
tỉnh tinh thần đấu tranh vì tự do, bình đẳng của con người ở phương Tây nửa cuối thế
kỷ XVIII, mà trực tiếp nhất là cách mạng tư sản Pháp 1789.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, những biến đổi mạnh mẽ của đời sống xã
hội, đặc biệt là trước những thách thức có tính chất toàn cầu trực tiếp tác động đến
việc thực hiện CBXH như chiến tranh, đói nghèo, dịch bệnh v.v.. vấn đề CBXH và
thực hiện CBXH lại càng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu cả phương Tây
và phương Đông. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ngoài nước về CBXH và
thực hiện CBXH được các tác giả nghiên cứu và luận giải chủ yếu dưới góc độ kinh
tế, chính trị, liên quan đến nhiều vấn đề: tự do, bình đẳng, dân chủ v.v.. Về cơ bản,
các nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải cơ sở xã hội, cơ sở nhận thức của con
người về CBXH; những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện CBXH trong thời
đại ngày nay. Đồng thời, cũng tùy thuộc vào bối cảnh xã hội của mỗi quốc gia mà
các nghiên cứu này gợi ý những phương án thực thi CBXH cụ thể. Mặc dù, xuất
phát từ những quan điểm, lập trường triết học khác nhau, song về cơ bản đều thừa
nhận công bằng là một trong những giá trị của con người và thực hiện CBXH là một
trong những cái đích mà nhân loại phải phấn đấu vươn tới bên cạnh những cái đích
khác như tự do, dân chủ.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của J.J Rousseau, J.Rawls - nhà triết học Mỹ
trong tác phẩm A theory of Justice [166] đã gần như đồng nhất công lý và công

bằng. Theo ông, công bằng chỉ có được khi con người tự nguyện cùng tham dự vào
liên kết xã hội để làm sao cho mỗi cá nhân giành được lợi ích nhiều hơn so với khi
họ sống đơn lẻ. Do đó, một thể chế xã hội là công bằng nếu thể chế ấy là căn cứ để
xác định nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ phù hợp với lợi ích của mỗi cá
nhân. J.Rawls cho rằng, công bằng hay bất công trong một thể chế xã hội không căn
cứ vào sự khác nhau về xuất phát điểm của mỗi cá nhân. Điều thực sự tạo ra sự
công bằng ở chỗ, mỗi cá nhân, cho dù có sự bất bình đẳng do những khác biệt bẩm
11


sinh và địa vị xã hội nhưng khi tham gia vào liên kết xã hội, họ tự nguyện chấp
nhận cơ chế hoạt động liên kết thì đó là công bằng.
Ở Việt Nam, trong sự biến đổi nhanh chóng, toàn diện của đời sống xã hội,
trước những hiện tượng bất công xã hội như: khoảng cách phân hóa giàu nghèo
trong xã hội ngày càng gia tăng; các nhóm xã hội yếu thế, người lao động ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa ít có cơ hội tiếp cận một cách tốt nhất các điều kiện giáo
dục, chăm sóc sức khỏe và các cơ hội xã hội khác v.v.., vấn đề CBXH và thực hiện
CBXH được quan tâm nghiên cứu cả về cơ sở lý thuyết cũng như thực tiễn, với
nhiều đóng góp quan trọng. Hiện nay, các nghiên cứu trong nước có nhiều cách tiếp
cận khác nhau và do đó quan niệm về CBXH còn chưa thống nhất.
Từ tiếp cận bản chất của CBXH, tác giả Nguyễn Tấn Hùng trong bài viết:
Công bằng xã hội: Mâu thuẫn và phương pháp giải quyết cho rằng, bản chất của
CBXH là sự tương xứng (sự phù hợp), sự tương tác về lợi ích giữa các cá nhân,
nhóm xã hội, được biểu hiện và thực hiện thông qua giải quyết các mâu thuẫn cơ
bản như: mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, mâu thuẫn giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội của Nhà nước; mâu thuẫn giữa lợi ích nhà đầu tư và lợi ích người
lao động; mâu thuẫn trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo [37, tr.352-360].
Phân tích sâu hơn về quan hệ giữa CBXH và BĐXH, tác giả Lê Hữu Tầng
trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công
bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học số 1/2008 cho rằng: nếu BĐXH

là sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương diện xã hội nào đấy,
chẳng hạn như về kinh tế, chính trị, văn hóa thì CBXH chỉ là một dạng của BĐXH,
đó là sự bình đẳng trong phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ theo
nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Trong khái niệm
CBXH, cống hiến và hưởng thụ phải được hiểu theo nghĩa rộng: chúng không chỉ
bao gồm những khía cạnh tích cực như chúng ta vẫn quen dùng, mà cả khía cạnh
tiêu cực nữa như công, tội, thưởng, phạt [138, tr.39].
Nhấn mạnh quan điểm này, các tác giả cuốn Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu
công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay [43] cho rằng sự khác nhau về cơ hội và điều
12


kiện xã hội cũng góp phần tạo nên sự khác biệt về thu nhập được tích tụ dần dần,
dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Không thể nói rằng trong nền kinh tế
thị trường, phân hóa giàu nghèo là biểu hiện của sự bất công, nó chỉ bất công khi sự
giàu có được tiến hành bằng những thủ đoạn bất hợp pháp như tham nhũng, buôn
lậu, làm hàng giả, đặc quyền, đặc lợi v.v.., nghĩa là sự giàu có đạt được bằng những
thủ đoạn và phương thức bất chính. Phân hóa giàu nghèo cũng sẽ là bất công khi do
cơ chế quản lý xã hội có nhiều bất cập để những lợi thế nghề nghiệp, tình trạng độc
quyền, sự can thiệp của các cơ quan Nhà nước v.v.. tạo cơ hội cho một bộ phận nào
đó có thu nhập cao hơn tỷ lệ đóng góp của họ, còn những bộ phận khác không có
lợi thế đó lại hưởng thụ thu nhập với tỷ lệ thấp hơn. Do đó, muốn thực hiện CBXH
phải khắc phục tình trạng bất công phi lý, phi pháp, khuyến khích tạo điều kiện cho
mọi người được làm ăn, phát triển kinh tế, làm giàu hợp pháp, đây là điều kiện để
thực hiện mục tiêu “kép” là phát triển kinh tế và CBXH.
Từ phương diện công bằng trong phân phối, trong khi đa số các nghiên cứu
đều khái quát CBXH là sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội
không phải về mọi phương diện mà chủ yếu về phương diện phân phối sản phẩm xã
hội theo nguyên tắc: cống hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau thì
tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm cho rằng: CBXH là một khái niệm khoa học có tính

chất tổng hòa các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa v.v.. dùng để chỉ sự ngang bằng giữa người và người theo nguyên tắc phân
phối lợi ích phù hợp giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi, thưởng và
phạt v.v.. đồng thời còn thông qua phúc lợi xã hội và an sinh xã hội (cả về vật chất
và tinh thần), CBXH “vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính đạo lý, phản ánh bản
sắc văn hóa của một dân tộc; là động lực của sự tiến bộ xã hội [151, tr.349]. Trong
quan niệm này, không chỉ bổ sung thêm nội dung phân phối thông qua phúc lợi xã
hội, an sinh xã hội, tác giả còn chỉ ra một khía cạnh khác trong tiêu chí CBXH, đó
là giá trị xã hội.
Nhìn chung, có thể thấy phần lớn các nghiên cứu ở trong và ngoài nước hiện
nay cho rằng CBXH là một phạm trù lịch sử, phản ánh mối quan hệ giữa người với
13


người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó bảo đảm sự tương xứng
giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển, giữa nghĩa vụ và
quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, phù hợp với khả năng hiện thực của xã hội.
CBXH có nội dung phong phú, tuy nhiên có thể khái quát ở hai nội dung chính, đó
là công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển và công bằng trong phân phối.
Các nghiên cứu về cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng
xã hội
Cho đến nay, cả trong và ngoài nước, các nghiên cứu về cơ sở lý luận, thực
tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung có khá nhiều. Về cơ bản, các nghiên
cứu ở trong và ngoài nước hiện nay về cơ sở lý luận, thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung đều thống nhất ở các điểm chính: Về lý luận, tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo tư tưởng truyền thống của dân tộc, tinh hoa
văn hóa nhân loại mà cốt lõi là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Về thực tiễn, tư
tưởng Hồ Chí Minh là kết quả khái quát về lý luận đối với thực tiễn đấu tranh giành
độc lập trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc và trực tiếp là thực tiễn đấu tranh cách
mạng giành độc lập của Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, chưa có một công trình chuyên biệt nào
nghiên cứu riêng về cơ sở lý luận, thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
CBXH được công bố. Đây là một khó khăn lớn của tác giả luận án khi tiếp cận, luận
giải vấn đề này. Một số công trình đã có những khái quát bước đầu, là gợi ý quan
trọng về cơ sở lý luận, thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH.
Các tác giả Hoàng Anh, Nguyễn Duy Bắc và Phạm Văn Thủy trong công
trình Phát triển văn hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh [1]cho
rằng các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mà trước hết là chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, khoan dung, đoàn kết, tương thân tương ái
v.v.. là mạch nguồn quan trọng trong tinh thần nhân văn, cho con người, vì con
người của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là sự kế thừa
xuất sắc truyền thống nhân ái của dân tộc, của nền văn minh phương Đông và
phương Tây, những giá trị nhân văn của nhân loại mà đỉnh cao là tư tưởng nhân văn
14


cộng sản của học thuyết Mác - Lênin, là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng
nhân văn cộng sản với nội dung chủ yếu tất cả từ con người và vì con người vào
điều kiện Việt Nam, một dân tộc bị thực dân đế quốc đô hộ phải đứng lên đấu tranh
để tự giải phóng, giải phóng xã hội, nhằm giải phóng triệt để và vĩnh viễn con người
bởi chính con người lao động, đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá của
con người, của Nhân dân lao động.
Tác giả Trần Thị Thu Hoài trong công trình Chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng
Hồ Chí Minh - một xã hội cho con người, vì con người cho rằng: Truyền thống
trọng dân, thân dân, lấy dân làm gốc của dân tộc Việt Nam là một cơ sở quan trọng
của tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu xây dựng xã hội công bằng cho Nhân dân.
Các triều đại phong kiến luôn lấy ý dân, lòng dân làm gốc rễ cho sự vững bền của
xã tắc đã có sự phát triển hưng thịnh. Nếu như Trần Quốc Tuấn lấy việc khoan thư
sức dân để làm kế sâu rễ bề gốc, là thượng sách giữ nước thì Nguyễn Trãi chỉ ra:
chở thuyền lật thuyền cũng là dân. Vì vậy, lòng dân trở thành cơ sở cho mọi đường

lối của các triều đình phong kiến. Kế thừa truyền thống đó, Hồ Chí Minh tiếp tục
nhấn mạnh vai trò quan trọng của dân: “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng
lợi trên nền Nhân dân”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nếu nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Người đặt ra mục tiêu giải phóng con người một cách triệt để, coi cái đích cuối cùng
của công cuộc giải phóng là con người, phải làm sao để mang lại cuộc sống tốt đẹp
cho con người. Hồ Chí Minh vạch ra đích đến cho CNXH: “Thay đổi cả xã hội,
thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn
đói rét, mọi người đều được ấm no, hạnh phúc” [51, tr.16-18]. Qua đó có thể thấy
rằng, xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, thực hiện CBXH chính là một mục tiêu
phấn đấu của CNXH.
Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng và bình đẳng xã hội, tác
giả Nguyễn Minh Hoàn chỉ rõ: Trực tiếp chứng kiến tất cả những gì xảy ra trong đời
sống kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới mà Người từng đặt chân đến cũng
như nghiên cứu tình hình cụ thể của xã hội Việt Nam vào giai đoạn trước cách
15


mạng, Hồ Chí Minh đưa ra kết luận khẳng định rằng, trong chế độ xã hội thực dân,
phong kiến hoàn toàn không có công bằng và BĐXH; trong xã hội đó: Nhân dân chỉ có
nghĩa vụ, như nộp sưu đóng thuế, đi lính đi phu mà không có quyền lợi. Hồ Chí Minh
đưa ra kết luận rằng, công bằng và BĐXH thực sự chỉ có được trong chế độ xã hội mới;
rằng, dưới chế độ dân chủ cộng hoà, Nhân dân có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi. Hơn
nữa, sự công bằng và bình đẳng của chế độ XHCN còn được bảo đảm bằng những cơ sở
vững chắc. Điều này thể hiện ở chỗ: "Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người
lao động v.v.. Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật
chất và văn hoá, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ" [105, tr.66].
Tác giả Nguyễn Minh Hoàn khẳng định: Tư tưởng về công bằng và BĐXH
được Hồ Chí Minh thể hiện một cách sinh động, linh hoạt trong những hoàn cảnh và
tình huống cụ thể khác nhau của quá trình xây dựng đất nước. Một điều cần lưu ý là,

khi nói đến CBXH, Hồ Chí Minh thường gắn nó với quan niệm về BĐXH, mà ở đây
chính là mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã coi
CBXH chính là sự bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Với quan niệm như vậy,
Người đòi hỏi tất cả những người lao động ngày nay đều phải nhận rõ mình là người
chủ nước nhà và đã có quyền hạn làm chủ, thì phải làm trọn nghĩa vụ của người chủ đó là cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng CNXH, nhằm mục đích không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của Nhân dân, trước hết là Nhân dân lao động.
Mặc dù chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về cơ sở lý luận, thực tiễn
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH được công bố, nhưng những nội dung
mà các tác giả đi trước đã đề cập sẽ là những gợi ý quan trọng cho tác giả luận án
tiếp cận, nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về CBXH ở chương 2.
Các nghiên cứu về khái niệm CBXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu trực tiếp, khái quát quan điểm
của Hồ Chí Minh về CBXH. Cách hiểu của Người về vấn đề này được một số công
trình đề cập tới ở một số khía cạnh theo từng góc độ tiếp cận khác nhau. Có thể kể
đến một số công trình sau:
16


Tác giả Phạm Ngọc Anh trong cuốn Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về kinh tế [3] đã khái quát quan niệm về CBXH, BĐXH, ý nghĩa của CBXH
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo các tác giả, Hồ Chí Minh không đồng nhất
CBXH với BĐXH. CBXH cũng hoàn toàn khác với cào bằng, bình quân. CBXH luôn
được xem xét tùy thuộc vào từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Những nội dung chủ yếu
trong CBXH được các tác giả rút ra như: phân phối theo lao động, cống hiến cho xã
hội; nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng
thụ thành quả xã hội mang lại; ưu tiên giải quyết cho các đối tượng chính sách xã hội;
giảm dần sự cách biệt giữa các vùng miền v.v..
Theo tác giả, Hồ Chí Minh phân định rõ ràng nhưng không tách rời giữa
phạm trù CBXH và BĐXH. Đây là những phạm trù cùng bản chất nhưng cấp độ

biểu hiện là khác nhau. Nói cách khác đây là những phạm trù thống nhất nhưng
không đồng nhất. BĐXH và CBXH đều thể hiện sự ngang bằng nhau của con người
với tư cách là thành viên của xã hội. BĐXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa
người và người với tư cách và chủ thể xã hội được thể hiện ra bằng quyền và được
bảo đảm bằng luật pháp. Còn CBXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với
người trong thực hiện quyền và thực thi pháp luật được cụ thể hóa bằng chính sách
phân phối và hưởng thụ sản phẩm xã hội. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có trong CNXH
mới thật sự có bình đẳng và CBXH.
Cũng theo tác giả, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cần phải hiểu cho đúng nguyên
tắc công bằng và khả năng thực hiện nó mà Người gọi là “công bằng hợp lý”. Bởi vì,
CBXH không phải là một khái niệm bất di bất dịch, nó mang tính tương đối và phụ
thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Hồ Chí Minh không chỉ chủ trương thực hiện CBXH đối
với những cá nhân, những con người cụ thể đã đóng góp, cống hiến xương máu cho
xã hội, một sự đóng góp lớn nhất, cao quí nhất, xã hội phải có nghĩa vụ đền đáp, mà
Người còn quan tâm tới các tập đoàn, lực lượng, giai cấp xã hội. Theo Người, các tập
đoàn, lực lượng, giai cấp xã hội cũng phải được đối xử công bằng.
Tác giả Nguyễn Minh Hoàn trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về công
bằng và bình đẳng xã hội [52] khẳng định: Tư tưởng về công bằng và BĐXH được
17


Hồ Chí Minh thể hiện một cách sinh động, linh hoạt trong những hoàn cảnh và tình
huống cụ thể khác nhau của quá trình xây dựng đất nước. Khi nói đến CBXH, Hồ
Chí Minh thường gắn nó với quan niệm về BĐXH, mà ở đây chính là mối quan hệ
giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã coi CBXH chính là sự
bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Với quan niệm như vậy, Người đòi hỏi tất cả
những người lao động ngày nay đều phải nhận rõ mình là người chủ nước nhà và đã
có quyền hạn làm chủ, thì phải làm trọn nghĩa vụ của người chủ - đó là cần kiệm
xây dựng nước nhà, xây dựng CNXH, nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của Nhân dân, trước hết là Nhân dân lao động.

Cũng theo tác giả, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, bình đẳng trước hết là
bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi; đồng thời, việc thực hiện sự bình đẳng giữa
người với người trong mối quan hệ giữa thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi
ấy lại chính là thực hiện CBXH. Việc thực hiện một chế độ phân phối công bằng,
theo quan niệm của Hồ Chí Minh, chính là thực hiện nguyên tắc phân phối trong đó
phần hưởng thụ ngang bằng với mức độ đóng góp, cống hiến của từng cá nhân, chứ
hoàn toàn không phải là sự ngang bằng về hưởng thụ giữa các cá nhân mà không tính
đến sự cống hiến của từng người. Đây là nguyên tắc phân phối công bằng và phù hợp
với điều kiện nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, đặc biệt là khi đất nước vừa
thoát khỏi chế độ thực dân, phong kiến và còn gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế.
Tác giả Trần Văn Phòng, Lê Thị Hạnh trong bài Thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh [123] cho rằng: Hồ Chí Minh có nhiều cách
diễn đạt khác nhau về đặc trưng bản chất của CNXH, trong đó có một cách diễn đạt:
“CNXH là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm
thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ
chăm nom” [103, tr.404]. Đây cũng chính là quan niệm về công bằng trong CNXH
của Hồ Chí Minh. Quan niệm của Hồ Chí Minh về công bằng trong CNXH là khoa
học và hợp lý, nhân văn, đó là: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm
thì không được hưởng. Quan niệm này hoàn toàn khoa học, đúng đắn, phù hợp thực
tế, bởi lẽ, bản chất của công bằng là cống hiến và hưởng thụ phải ngang nhau.
18


Nhưng, công bằng trong CNXH, theo Hồ Chí Minh còn là hợp lý, nhân văn:
những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ, chăm nom. Cách
tiếp cận này cũng hoàn toàn khoa học, đúng đắn, phù hợp truyền thống văn hóa
dân tộc và nhân văn, bởi lẽ, bản chất của CNXH là vì con người, chăm lo cho
con người, nhất là những người già yếu, tàn tật, không may mắn trong xã hội.
CNXH là xã hội nhân văn, nhân đạo, không bỏ rơi con người nói chung. Do vậy,
những người già yếu, tàn tật, không may mắn trong xã hội được Nhà nước đặc

biệt quan tâm giúp đỡ, chăm nom. Nói khác đi, chỉ có CNXH mới đem lại công
bằng và BĐXH cho tất cả mọi người theo tinh thần nhân văn; Nhân dân lao động
mới thực sự được hưởng quyền “bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”, những
người già yếu, tàn tật hoặc không may mắn sẽ được Nhà nước giúp đỡ. Rõ ràng,
quan niệm này của Hồ Chí Minh đã phản ánh đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa
Mác - Lênin về CBXH - nguyên tắc phân phối theo lao động, theo cống hiến
trong CNXH, đồng thời thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Hồ Chí Minh,
biểu đạt những giá trị tương đồng của CNXH với truyền thống văn hóa quý báu
của dân tộc ta - yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Điều này được Hồ Chí Minh coi
là một đặc trưng bản chất của CNXH Việt Nam.
1.2. Các nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung công bằng xã hội
Các nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công bằng xã hội
Các nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH qua các sách, bài viết có
tính chất đặt vấn đề và gợi ý nhiều hơn là xác định và hệ thống những luận điểm của
Người thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh. Có thể kể đến một loạt các công trình
như: Phạm Xuân Nam, Triết lý về mối quan hệ giữa cái kinh tế và cái xã hội trong
phát triển [109]; Phạm Ngọc Anh, Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và
thực tiễn [2]; Lê Sỹ Thắng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và chính
sách xã hội [142]; Nguyễn Đình Hòa, Hồ Chí Minh với vấn đề dân sinh [56]; Trần
Văn Bính, Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa [7] v.v.. Qua các
nghiên cứu, có thể thấy, di sản lý luận mà Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và Nhân
19


dân Việt Nam, những nội dung về CBXH và thực hiện CBXH mặc dù không có
dung lượng lớn nhưng ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh, CBXH được hiểu khá toàn diện và sâu sắc, trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội với tư duy biện chứng độc đáo.
Về vai trò của của CBXH, các nhà nghiên cứu Việt Nam cơ bản thống nhất ở

nhận định: trong tư tưởng Hồ Chí Minh, CBXH có vị trí, vai trò và ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển của con người và xã hội. CBXH không chỉ là mục tiêu
của CNXH mà còn là một động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước phát
triển, là một yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng CNXH, nhất là trong điều
kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Lựa chọn con đường đi lên CNXH, Hồ
Chí Minh sớm vạch ra bản chất nhân văn, ưu việt của chế độ này. Đặc biệt, tính ưu
việt của CNXH thể hiện rõ nét nhất ở mục tiêu hướng tới xây dựng một xã hội công
bằng, bình đẳng, xóa bỏ áp bức bất công, mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mọi
gia đình và toàn xã hội. Trong mọi hoàn cảnh, Hồ Chí Minh luôn nhất quán coi
CBXH là mục tiêu, đồng thời, là động lực của quá trình xây dựng CNXH. Thực
hiện CBXH tạo động lực to lớn thúc đẩy mọi người tích cực lao động để tạo nên sự
giàu có của bản thân họ và toàn xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng
xã hội mới tốt đẹp - XHCN, trong đó mọi người được tự do, có điều kiện phát triển
khả năng của mình; có điều kiện cống hiến và được hưởng thành quả tương xứng
với sự cống hiến đó.
Tác giả Phùng Thanh Thủy trong bài viết Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
công bằng xã hội vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [145] khẳng
định: Theo Hồ Chí Minh, CBXH là một mục tiêu xây dựng chế độ XHCN, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân, làm cho người nghèo thì đủ ăn,
người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm. Để đảm bảo CBXH đòi hỏi
tất cả những người lao động ngày nay đều phải nhận mình là người làm chủ nước
nhà và đã có quyền hạn làm chủ thì phải làm trọn nghĩa vụ của người chủ đó là cần
kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng CNXH. Theo Hồ Chí Minh, CBXH còn có ý
nghĩa là động lực để thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Thực hiện CBXH sẽ kích
20


thích người lao động phát huy mọi khả năng, sức lực của mình trong xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ, văn mình - một xã hội mà ở đó khi mọi người phát huy hết
khả năng của mình sẽ được đáp ứng nhu cầu “ai cần dùng gì có nấy”.

Thống nhất với nhận định trên, tác giả Trần Thị Thu Hoài trong bài viết Chủ
nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh - một xã hội cho con người, vì con người [51]
cho rằng: mục đích của CNXH theo quan điểm của Hồ Chí Minh là không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của Nhân dân, trong đó, đời sống tinh thần
ở mức độ cao là sự công bằng, bình đẳng, cao hơn nữa thước đo giá trị đời sống tinh
thần là trạng thái dân chủ của xã hội đó. Ngoài ra, tác giả cũng phân tích động lực của
CNXH theo quan điểm Hồ Chí Minh, nhấn mạnh tới động lực con người và muốn phát
huy động lực đó phải tạo ra môi trường công bằng, bình đẳng.
Nhấn mạnh vai trò của CBXH, tác giả Nguyễn Minh Hoàn trong bài viết Tư
tưởng Hồ Chí Minh về công bằng và bình đẳng xã hội [52] chỉ rõ: trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh, CBXH không chỉ biểu hiện như là mục tiêu của CNXH, mà còn là
một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một biện pháp căn
bản để hiện thực hoá những giá trị, lý tưởng cao cả của CNXH. Luận giải về vấn đề
này, tác giả chỉ ra rằng trong điều kiện hiện nay, khi chúng ta đang chuyển sang thực
hiện nền kinh tế thị trường, một số nhà nghiên cứu lại đưa ra ý kiến cho rằng, CBXH
chỉ có thể thực hiện được khi đã có sự phát triển của kinh tế, hoặc khẳng định rằng, khi
chưa có nền kinh tế phát triển mà thực hiện CBXH thì có thể dẫn đến chủ nghĩa bình
quân cào bằng. Theo tác giả, vấn đề không hẳn là như vậy. Một nước nghèo, có nền
kinh tế kém phát triển không đồng nghĩa với việc không thể thực hiện CBXH. Đối với
Hồ Chí Minh, việc thực hiện CBXH là một yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng
CNXH, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế còn đang phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn, nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội. Theo quan điểm của Người,
ngay cả khi không thiếu vật tư, hàng hoá nhưng lại phân phối không đúng, thì vẫn có
thể gây ra những căng thẳng không cần thiết. Bởi vậy, phương châm chỉ đạo của Hồ
Chí Minh trong công tác lưu thông phân phối là: không sợ thiếu, chỉ sợ không công
bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên.
21


Có thể thấy, những luận giải của tác giả về vai trò của CBXH trong tư tưởng

Hồ Chí Minh rất rõ ràng, xác đáng. Theo đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài ý
nghĩa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng CNXH, công bằng và BĐXH còn mang ý
nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Việc thực hiện công bằng và
BĐXH kích thích mọi người, theo khả năng, sức lực của mình, cùng tham gia xây
dựng một cuộc sống mới, từng bước vươn tới xã hội cộng sản - một xã hội trong đó
“Mọi người làm hết tài năng; ai cần dùng gì có nấy”.
Các nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội trên một số
lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội
Các nhà nghiên cứu Việt Nam cơ bản thống nhất ở nhận định: tư tưởng về
CBXH được Hồ Chí Minh thể hiện một cách sinh động, linh hoạt trong những
hoàn cảnh và tình huống cụ thể khác nhau của quá trình xây dựng đất nước, được
bàn đến khá toàn diện trên một số lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị, văn hóa của
đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế, nhấn mạnh quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hiện
CBXH thông qua phân phối, trong nhiều công trình nghiên cứu, bài báo khoa học,
các tác giả đều khẳng định luận điểm của Hồ Chí Minh: CBXH phải được thực hiện
dựa trên nguyên tắc phân phối làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm
thì không được hưởng. Tuy nhiên, đó không phải là sự cào bằng. Hồ Chí Minh đã
chỉ ra rằng, thực hiện CBXH với nguyên tắc ngang bằng giữa cống hiến và hưởng
thụ trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, đặc biệt trong hoàn cảnh của nước nhà còn
nhiều khó khăn về kinh tế, cũng không có nghĩa là có thể làm cho đời sống của
Nhân dân có ngay được sự no đủ.
Đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và thực hiện CBXH
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả Nguyễn Minh Hoàn trong bài viết Tư tưởng Hồ
Chí Minh về công bằng và bình đẳng xã hội [52] khẳng định: Hồ Chí Minh đã chỉ ra
rằng, thực hiện CBXH với nguyên tắc ngang bằng giữa cống hiến và hưởng thụ trong
thời kỳ quá độ đi lên CNXH, đặc biệt trong hoàn cảnh của nước nhà còn nhiều khó
khăn về kinh tế, cũng không có nghĩa là có thể làm cho đời sống của Nhân dân có ngay
22



×