Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

nghiên cứu và phát triển bển vững lễ hội đua thuyền trên sông hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.47 KB, 75 trang )

LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành được đề tài nghiên cứu này, lời đầu tiên em xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ của cô T.S Lê Thị Kim Liên là người đã luôn theo sát và tận tình hướng
dẫn cho em từ khi tiến hành lựa chọn đề tài, làm bảng hỏi và cho đến khi xử lý dữ
liệu, kết thúc nghiên cứu.
Bên cạnh đó, em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong Khoa Du Lịch Đại Học
Huế đã tận tình truyền đạt kiến thức học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá
trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu mà còn là hành trang quý
báu để chúng em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Chân thành cảm ơn những người bạn đã luôn đồng hành động viên em trong
suốt thời gian qua, em cũng muốn dành lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình em nguồn hậu
phương vững chắc và cũng là nơi nuôi nấng em nên người.
Cuối cùng , tuy đã nỗ lực hết sức, nhưng với khả năng và thời gian có hạn nên nghiên
cứu của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vậy, em rất mong nhận được sự
quan tâm, chỉ bảo, góp ý tận tình của quý thầy, cô giáo để ngày càng nâng cao và
hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
Một lần nữa em xin trân trọng cám ơn!
Huế, tháng 5 năm 2019
Sinh viên
Trần Đức Anh Kiệt


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là điều tra
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc
thực hiện chuyên đề này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đã
được chỉ rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố.

Huế, tháng 05 năm 2019
Sinh viên


Trần Đức Anh Kiệt


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên
MỤC LỤC

65
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................66

Trần Đức Anh Kiệt

3

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên
DANH MỤC BẢNG

Trần Đức Anh Kiệt

4

Lớp: K49 Kinh tế du lịch



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên
DANH MỤC SƠ ĐỒ

Trần Đức Anh Kiệt

5

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên
ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Tính cấp thiết của đề tài

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần biểu hiện những giá trị tiêu
biểu của một cộng đồng, một dân tộc. ở nước ta, lễ hội được tổ chức bao gồm nhiều
mặt của đời sống xã hội như tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, sự tích về các vị
anh hùng có công với dân với nước, các trò chơi dân gian, diễn xướng dân gian, các
nghi lễ. Hàng năm trên đất nước ta có hàng ngàn lễ hội được tổ chức với nhiều hình
thức, quy mô và mang ý nghĩa khác nhau. Lễ hội truyền thống như là một loại hình
sinh hoạt văn hoá tinh thần đặc biệt, mang tính tập thể có giá trị to lớn mang ý nghĩa cố
kết cộng dồng dân tộc, giáo dục tình cảm đạo đức con người hướng về cội nguồn, đồng
thời lễ hội có giá trị văn hoá tâm linh cân bằng đời sống tinh thần con người hướng về
cái cao cả thiêng liêng. Lễ hội còn là tấm gương phản chiếu việc bảo tồn và phát huy di
sản văn hoá dân tộc và đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, lễ hội còn

mang một giá trị kinh tế lớn. Là sản phẩm đặt biệt cho ngành du lịch…
Trong tiến trình lịch sữ của dân tộc. Do chiến tranh khốc liệt qua các giai đoạn
kinh tế nhà nước kém phát triển suy thoái kinh tế, nên các lễ hội truyền thống không
được chú ý và chưa phát huy được giá trị to lớn của nó. Vì vậy, nhiều giá trị văn hóa bị
mai một mất dần theo thời gian. Và trong giai đoạn này du lịch ít được đầu tư phát
triển, việc nghiên cứu và phục dựng các lễ hội truyền thống gắn với du lịch chưa được
quan tâm đúng mức, chưa gắn kết du lịch và lễ hội.
Bước vào thời kì đổi mới. Với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xu thế
toàn cầu hóa, Đảng ta đã xác định phải gắn kết đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế với
phát triển văn hóa. Trong Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định rằng:
“Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng kháng
chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc. Các giá trị văn hoá nghệ
thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy
văn hoá văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hoá
với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch”
Trần Đức Anh Kiệt

6

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

Thừa Thiên Huế là vùng đất cố đô giàu truyền thống lịch sự văn hóa. Là trung
tâm quốc gia là kinh đô cuối cùng kết thúc thời đại phong kiến. Hiện nay trên tỉnh
Thừa Thiên Huế còn đậm đặc các di tích lịch sữ của các đời vua triều đại nhà Nguyễn
với 64 lễ hội truyền thống và các kho tàng văn hóa dân gian phong phú. Tuy nhiên do

nhiều biến cố trong lịch sữ nhiều lễ hội truyền thống trên đât Huế bị mai một. Nhiều lễ
hội bị thất truyền, việc nghiên cứu phục đựng để phục vụ du lịch còn hạn chế, chưa
phát huy được thế mạnh và giá trị của lễ hội đối với phát triển du lịch. Nhiều lễ hội do
tính bắt buộc nên không tiếp đón du khách du lịch, như tế đàn Nam giao … Còn nhiều
lễ hội được tổ chức thường xuyên nhưng chưa thu hút được du khách. Ngoài những vẽ
đẹp về kiến trúc văn hóa lễ hội phong cảnh ở đây còn nỗi tiếng với con sông Hương
thơ mộng với hai Cồn Dã Viên và Cồn Hến. Đây còn được xem là Thanh Long và Bạch
Hổ trấn giữ kinh thanh huế với lợi thế đó việc phát triển du lịch và lễ hội trên sông cần
được đẩy mạnh và phát huy.
Vì vậy cần có những đề tài nguyên cứu khoa học cho việc nghiên cứu và phát
triển lễ hội bền vững trên sông Hương. Do đó tôi chọn đề tài Nghiên cứu và phát triển
bền vững lễ hội đua thuyền trên sông Hương làm đề tài nghiên cứu. Với mong muốn
đóng góp nhỏ về phương diện lý luận và thực tiễn cho sự phát triển du lịch gắn với lễ
hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi được coi là thành phố Festival.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Huế là nơi có lịch sữ văn văn hóa lâu đời. Những giá trị đó đã lắng động lại và
hình thành nên một di sản văn hóa phí vật thể hết sức quý giá. Trong những năm vừa
qua nhận thức được tầm quan trọng của lễ hội trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân
tộc đồng thời khai thác giá trị của lễ hội để phát triển du lịch. Có rất nhiều công trình
nghiên cứu đi sâu về nghiên cứu lễ hội tại huế như “ tục thờ thần ở huế” của tác giả
Huỳnh Đình Kết các bài báo các tham luận đằng trên nhiều tạp chí. Nhằm nâng cao
hiệu quả cho việc tổ chức lễ hội cũng như định hướng cho sự kết nối giữa lễ hội và du
lịch, tôi đã xác định đi sâu vào nghiên cứu và phát triển bền vững lễ hội đua thuyền
trên sông Hương.
Trần Đức Anh Kiệt

7

Lớp: K49 Kinh tế du lịch



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

3. Mục đích nghiên cứu

Tôi mong muốn qua đề tài “ nghiên cứu và phát triển bển vững lễ hội đua thuyền
trên sông Hương” sẽ làm rỏ các vấn đề sau:
-

Mối quan hệ giữa lễ hội với hoạt động du lịch góp phần khai thác lễ hội đua

-

thuyền tạo nên sản phẩm độc đáo của địa phương
Giới thiệu các yếu tố tạo nên nét đặc trưng văn hóa riêng của lễ hội đua thuyền

-

trên sông Hương tại Huế thông qua kháo sát lễ hội đua thuyền tại Huế
Góp phần bảo tồn và phát triển lễ hội khai thác giá trị lễ hội để phát triển du lịch
Kết hợp được giữa lễ hội và du lịch sẽ tạo dược thế mạnh cho du lịch văn hóa tại


-

Huế phát triển cụ thể là phát triển du lịch lễ hội tại Huế
Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu sự hấp dẫn của giá trị văn hóa trong lễ hội đua thuyền trên sông

-

Hương tại Huế
Tìm hiểu về hình thức tổ chức, nội dung hoạt động ý nghĩa của lễ hội đua
thuyền trên sông Hương, thực trạng, các điều kiện để phát triển du lịch lễ hội tại

-

Huế, qua đó phát huy giá trị của lễ hội phục vụ cho hoạt động du lịch
Đưa ra các giải pháp, đề xuất để lễ hội đua thuyền trên sông Hương trở thành
sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách góp phần làm phong phú thêm sản phẩm du


-

lịch địa phương
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận của văn hóa, du lịch, lễ hội
Giới thiệu về lễ hội đua thuyền, thông kê khảo sát tại lễ hội
Nghiên cứu ý nghĩa, các giá trị văn hóa trong lễ hội, các yếu tố tạo nên nét đặc
trưng văn hóa riêng của lễ hội đua thuyền thông qua các nhân tố làm cho lễ hội

-

hấp dẫn thu hút khách du lịch
Tìm hiểu điều kiện phát triển du lịch lễ hội đua thuyền tại Huế thông qua xem
xét thực trạng, đánh giá khả năng khai thác phục vụ du lịch của lễ hội đua


thuyền đễ đưa vào phục vụ và phát triển du lịch
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Lễ hội đua thuyền trên sông Hương
Khách du lịch, cư dân địa phương, các đơn vị kinh doanh lữ hành các cơ quan quản lý
về du lich
Trần Đức Anh Kiệt

8

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

4.2 Phạm vi nghiên cứu.
• Về nội dung
- Mối quan hệ giữa lễ hội với hoạt động du lịch góp phần khai thác lễ hội đua
-

thuyền tạo nên sản phẩm độc đáo của địa phương
Giới thiệu các yếu tố tạo nên nét đặc trưng văn hóa riêng của lễ hội đua thuyền

-

trên sông Hương tại Huế thông qua khác sát lễ hội đua thuyền tại Huế
Tìm hiểu thực trạng, đánh giá khả năng khai thác phục vụ du lịch của lễ hội đua
thuyền tại huế, để đưa vào phục vụ du lịch góp phần làm phong phú tạo nên sự


đa dạng sản phẩm du lịch tại Huế
- Đề xuất giải pháp cho phát triển bền vững lễ hội đua thuyền trên sông Hương
• Về không gian thời gian
Chuyên đề đi sâu tìm hiểu về lễ hội đua thuyền trên sông Hương góp phần làm
phong phú da dạng về lễ hội đua thuyền
Thông tin thu thập phục vụ cho việc viết đề tài trên cơ sở dữ liệu thu thập được cho
đến năm 2019
5. Phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp

Phương pháp xác định mẫu
− Xác định quy mô mẫu:

Quy mô mẫu của nghiên cứu được xác định theo công thức của Linus Yamane:
n=
Trong đó :
n: Quy mô mẫu
N: Kích thước của tổng thể.
e = 0.1: sai số cho phép giữa tỷ lệ mẫu và tổng thể
Ta có: n= 99,97
Phương pháp phân tích tài liệu: thu thập thông tin, nghiên cứu tổng quan lý luận,
tài liệu thông qua việc tìm hiểu sách báo, giáo trình bài giảng, các tạp chí du lịch, truy
cập thông tin điện tử của tổng cục du lịch, các trang thông tin điện tữ có giá trị khoa
học để sưu tập các tài liệu liên quan đến đề tài và các đề tài nghiên cứu có liên quan.

Trần Đức Anh Kiệt

9


Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

Phương pháp phân tích tổng hợp: để xứ lý thông tin sưu tập, thông kê nhận định
về lễ hội đua thuyền.
Phương pháp so sánh: Lễ hội đua thuyền trong tổng thể các yếu tố làm nên sản
phẩm du lịch và hoạt động của lễ hội. Tìm hiểu nhu cầu, khả năng thu hút khách của lễ
hội đua thuyền. Giá trị văn hóa lễ hội đua thuyền thể hiện qua hình thức, nội dung lễ
hội.
Phương pháp chuyên gia: thu thập ý kiến, tài liệu qua sự cung cấp của các nhà
nghiên cứu. Thực hiện điều tra xã hội qua bảng hỏi
Phương pháp khảo sát thực địa: Quan sát trong quá trình thực tế diễn ra lễ hội, để
thấy rỏ thực trạng khai thác và phát triển du lịch lễ hội.
Phương pháp liên ngành: sữ dụng các kiến thức của các ngành khác như văn hóa
học, du lịch học, triết học…
Phương pháp quan sát: Tìm hiểu số lượng khả năng thu hút khách. Giá trị văn hóa
lễ hội, ý nghĩa của lễ hội, không gian tổ chức, các đối tượng liên quan đến lễ hội như
các công trình kiến trúc, hoạt động của cư dân dịa phương, thái độ của khách du lịch.
Phương pháp giải mã văn hóa: Các yếu tố văn hóa trong lễ hội đua thuyền thu hút
du khách.
Phương pháp phỏng vấn( hỏi trực tiếp): Tiếp cận lễ hội đua thuyền, trao đổi ghi
nhận ý kiến trực tiếp của cư dân khi tham gia vào lễ hội đua thuyền các cơ quan chính
quyền các hang lữ hành, khách du lịch… Biết đến mong muốn của du khách, vai trò,
tác dụng của buổi lễ đến hoạt động du lịch.
Ngoài ra còn sữ dụng các tư liệu và phương pháp phân tích hình ảnh, tổng kết
thực tiễn…



Quan điểm nghiên cứu
Quan điểm tổng hợp: Khi thực hiện nghiên cứu đề tài này chúng tôi dựa trên quan

điểm kết hợp tất cả các yếu tố địa lí, xã hội, con người… Các yếu tố này có mối quan
hệ lẫn nhau tạo nên một thể thống nhất trong phát triển du lịch văn hóa tại Huế. Tổng

Trần Đức Anh Kiệt

10

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

hợp đặc điểm từng đối tượng, kết hợp chúng với nhau, tạo thành một thể thống nhất
trong nghiên cứu.
Quan điểm kinh tế: Quan tâm đến hiệu quả kinh tế, không chỉ đối với doanh nghiệp
mà còn đối với chính cư dân địa phương. Đặt ra mục tiêu làm thế nào để thu lại
được hiệu quả cao nhất cho chính doanh nghiệp cũng như lợi ích cho cộng đồng cư
dân.
Quan điểm phát triển du lịch bền vững, phát triển du lịch cộng đồng: Khai thác cần
chú trọng đến vấn đề bảo vệ và trùng tu, giữ gìn môi trường để đảm bảo phát triển du
lịch bền vững. Phát triển du lịch phải bảo đảm sự cân đối giữa các mục tiêu kinh tế, xã
hội và môi trường. Đảm bảo có sự tham gia của tất cả 4 thành phần: Các nhà quản
lý du lịch và khu bảo tồn tương lai; cộng đồng dân cư địa phương; các nhà kinh doanh

du lịch và khách du lịch.

Trần Đức Anh Kiệt

11

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

Quy trình nghiên cứu


Xác định vấn đề nghiên cứu Điều tra sơ bộ

Thiết kế nghiên cứu

Xử lý số liệu

Thu thập dữ liệu Thiết kế bảng hỏi sơ bộĐiểu tra thử 30 bảng hỏi

Tiến hành điểu tra chínhChỉnh
thức sửa và tính cỡ mẫu
Mã hóa, nhập và làm sạch dữ liệu
Điều tra chính thức


Phân tích dữ liệu

Kết quả nghiên cứu

Báo cáo nghiên cứu

6. Đóng góp mới của đề tài

Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi xác định đóng góp mới của luận văn đó là làm nổi
bật được các giá trị văn hóa của lễ hội đua thuyền trên sông Hương. Làm sáng tỏ khái
niệm, sản phẩm gọi là du lịch lễ hội. Đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động du lịch lễ
hội hiện nay để đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch lễ hội tại Huế. Chúng
tôi cũng làm rõ đặc điểm nổi bật của các lễ hội tại thành phố Huế, tiến hành thống kê
các lễ hội tại thành phố Huế được diễn ra theo từng tháng trong năm để thuận lợi cho
việc tổ chức loại hình du lịch lễ hội.
Trần Đức Anh Kiệt

12

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

7. Cấu trúc nội dung báo cáo
Phần I: Đặt vấn đề
Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu
Chương 1: Tổng quan cơ sở lý luận thực tiễn về phát triển bền vững du lịch lễ hội

Chương 2: Thực trạng về vấn đề sự phát triển du lịch lễ hội đua thuyền trên sông
Hương
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển bền vững du lịch lễ hội đua
thuyền trên sông Hương
Phần III: Kết luận và kiến nghị.

Trần Đức Anh Kiệt

13

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên
CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀ VỮNG DU LỊCH LỄ HỘI
1.1.

Lễ hội là gì
- Khái niệm chung về lễ hội
Lễ hội: “Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng và phong

phú, là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc,
hoặc là một dịp để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại, ngưỡng mộ tổ
tiên, ôn lại truyền thồng, hoặc là giải quyết những nỗi lo âu, những khao khát, ước mơ
mà cuộc sống hiện tại chưa giải quyết được” [29 trang 67] “Lễ hội là sinh hoạt văn hóa,
tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của cộng đồng” Lễ hội là nhu cầu sinh hoạt văn hóa

cộng đồng, đồng thời là sự kiện có thể thu hút đông đảo khách du lịch. Khi bàn về khái
niệm, mối tương quan giữa lễ hội và sự kiện, các chuyên gia có cho rằng “Lễ hội là
thuật ngữ dùng để chỉ một loại hình sinh hoạt văn hóa phổ biến, có thể tổng hợp nhiều
loại hình văn hóa khác nhau (văn học nghệ thuật, tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập
quán...) qua hình thức sân khấu hóa hoặc cảnh diễn hóa... tại một địa điểm, một không
gian thời gian nhất định bằng những nghi thức, nghi vật, nghi trượng. Lễ hội sản sinh
từ nhu cầu tất yếu của lịch sử. Lễ hội không đặt nặng vấn đề kinh tế trong khi du lịch
thì ngược lại.
Lễ hội truyền thống: GS.TS. Nguyễn Duy Qúy có định nghĩa về lễ hội truyền
thống như sau “Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa tổng hợp bao gồm các 18
mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng và đời
thường. Đó còn là một sinh hoạt có qui mô lớn về tầm vóc và có sức cuốn hút một số
lượng lớn những hiện tượng của đời sống xã hội...”
Lễ hội truyền thống bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu nội tại của con người,
hướng tới một đối tượng cụ thể để suy tôn và được chú trọng về không gian lễ hội.
Bản sắc văn hóa Việt Nam mang đậm chất văn hóa làng. Lễ hội truyền thống là
điển hình của sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống.

Trần Đức Anh Kiệt

14

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

Bản chất và nội dung của “lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng.

Dù bất cứ nơi đâu vào bất cứ thời gian nào, lễ hội cũng do chính nhân dân tiến hành.
Không bao giờ lễ hội chỉ thuộc về một nhóm người nào đó trong xã hội”
Lễ hội truyền thống xưa nhấn mạnh phần lễ. Lễ hội truyền thống nay nhấn mạnh phần
hội.
Lễ hội hiện đại: Do nhu cầu của cuộc sống và sự phát triển văn hóa xã hội. Các địa
phương tổ chức các lễ hội hướng đến sự kiện cụ thể. Trong sinh hoạt lễ hội có sự tham
gia của các sinh hoạt văn hóa bên ngoài du nhập vào, trong lễ hội phần “hội” được chú
trọng, nội dung đan xen giữa truyền thống và hiện đại. Đây cũng là hoạt động có tính
tương tác cao giữa địa phương và khách du lịch, là yếu tố thúc đẩy hoạt động “du lịch
lễ hội” phát triển
Lễ hội du lịch: Đây là một loại “lễ hội hiện đại (lễ hội mới) do ngành du lịch chủ
động phối hợp với các ngành xã hội khác nhau đứng ra tổ chức, nhằm tạo ra sản phẩm
hoặc tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch” Huế từng tổ chức “lễ hội bếp Việt”, “lễ
hội làng nghề truyền thống”, “lễ hội áo dài”, đặc biệt “lễ hội Festival” định kỳ 2 năm tổ
chức một lần.
-

Đặc điểm lễ hội

Tổ chức định kỳ hoặc một thời điểm duy nhất, có tính lặp lại thường xuyên. Mang
đậm tính chất lễ hội nông nghiệp nhưng không phải nông nghiệp thuần túy.
Chịu ảnh hưởng của văn hóa, lịch pháp Trung Hoa nhưng đã có những chuyển dịch
thay đổi về thời gian và nội dung, hình thức thể hiện.
-

Phân loại lễ hội
Lễ hội là một bộ phận của nền văn hóa dân gian được sáng tạo và bảo tồn, lưu

truyền lâu đời trong lòng xã hội từ xưa đến nay. Việt Nam là quốc gia đa sắc tộc và đa
lễ hội, tùy theo mỗi góc độ, mục đích, quan điểm nghiên cứu mà có sự phân loại lễ hội

khác nhau và trong các loại lễ hội được phân ra cũng sẽ có những cấp độ lễ hội
khác nhau. Các hình thức phổ biến của lễ hội và sự kiện trong lịch sử: Căn cứ vào nơi
tổ chức: Hội chùa, Hội đình... Tất cả dều ảnh hưởng, mang tính chất lễ hội nông
Trần Đức Anh Kiệt

15

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

nghiệp. Nguồn gốc lễ hội: Hình thành và phát triển cùng với lịch sử dân tộc, đất nước,
phản ánh đời sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. “Tháng Giêng ăn tết ở nhà, tháng
Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè”
Căn cứ vào nội dung phản ánh: Lễ hội nông nghiệp. Lễ hội danh nhân, anh hùng
lịch sử. Lễ hội tôn giáo tín ngưỡng....
Căn cứ vào hoạt động tổ chức trong lễ hội: Có lễ hội truyền thống, lễ hội hiện đại
hoặc lễ hội cung đình, lễ hội dân gian (thực ra lễ hội cung đình và lễ hội dân gian
thuộc về lễ hội truyền thống)
Lễ hội truyền thống: Có lễ hội truyền thống dân gian, lễ hội truyền thống cung
đình.
Lễ hội truyền thống dân gian là một loại hình sinh hoạt văn hóa, xã hội của quần
chúng nhân dân lao động ở một cộng đồng, địa phương nhất định mang đậm tính chất
tổng hợp các hình thái tư tưởng, tín ngưỡng, phong tục tập quán… của cộng đồng địa
phương đó.
Nhìn chung Lễ hội truyền thống dân gian có sự lặp đi lặp lại một cách ổn định về
thời gian, không gian hội, sự định kỳ ngày hội. Ngày nay với chủ trương phát triển văn

hóa kết hợp với du lịch. Lễ hội truyền thống dân gian ngày càng được quan tâm chú
trọng để phát triển và gìn giữ bản sắc văn hóa địa phương, Lễ hội được đông vui
hơn… nhằm mục đính chuyển tải truyền thống và nội dung giáo dục của ngày hội đến
các thế hệ nối tiếp, đồng thời giới thiệu, gìn giữ, phát triển những tinh hoa của lễ hội
truyền thống dân gian
Lễ hội cung đình: Lễ hội cung đình phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều Nguyễn,
phần lớn chỉ chú trọng về “lễ” hơn “hội”. “Lễ hội cung đình diễn ra trong cung đình
dưới triều Nguyễn (1802 1945). Hầu hết là những đại lễ của triều đình như lễ tế Nam
Giao, lễ tế Văn Miếu, lễ tế Xã Tắc, lễ tế Thái Miếu, lễ tế Thế Miếu, lễ Tịch Điền, lễ tế
Kỳ Đạo, lễ khai trạo của thủy quân, lễ đăng quang, lễ mừng thọ tứ tuần, ngũ tuần của
hoàng đế, hoàng hậu, và lễ Hưng quốc Khánh niệm (mồng 2 tháng 5 âm lịch)...”
(Nguồn: thuathienhue.gov.vn)
Trần Đức Anh Kiệt

16

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

Lễ hội dân gian: là một sinh hoạt tổng hợp bao gồm các mặt: Tôn giáo tín ngưỡng
và văn hóa nghệ thuật, tinh thần và cả vật chất, linh thiêng và đời thường. Lễ hội dân
gian gồm nhiều loại rất phong phú, tiêu biểu như: lễ hội Huệ Nam ở Điện Hòn Chén
hay còn gọi là lễ rước sắc nữ thần Pônagar theo tín ngưỡng của người Chăm Pa sau
này được Việt hóa Thiên y A na, lễ hội tưởng niệm các vị khai sinh các ngành nghề
truyền thống, lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh thành lập làng. Trong những dịp tế lễ,
nhiều sinh hoạt văn hóa bổ ích như đua thuyền, kéo co, đấu vật... còn được tổ chức và

thu hút đông người xem. Căn cứ vào không gian (phạm vi) của lễ hội: Có lễ hội
quốc gia (cả nước), Lễ hội vùng, lễ hội làng...
Lễ hội quốc gia: như Giỗ tổ Hùng Vương, các ngày lễ kỷ niệm chiến thắng... Lễ
hội vùng: Là loại hội lễ có tầm thu hút ảnh hưởng rộng lớn, mang tính chất tiêu biểu,
sự tham gia của cả vùng.
Lễ hội làng: Đa số gắn với tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Diễn ra tại Đình
làng, Miếu, Đền, Lăng… “Đó là một hình thức sinh hoạt văn hóa định kỳ, cộng đồng
tổng hợp và tiêu biểu nhất của xã hội nông thôn ở đơn vị làng” [41trang 15] Bao gồm:
+ Lễ hội thờ đức Thành Hoàng: Diễn ra ở các đình làng, còn gọi là hội đình
hay đình đám.
+ Lễ hội thờ các nhân vật lịch sử: Đa số diễn ra ở các Lăng, Đền thờ các vị có
công với nước.
+ Lễ hội thờ cúng Cá Voi: Diễn ra tại các làng ven biển
+ Lễ Hội Tết: Đây là sinh hoạt mang tính cộng đồng cao. Là một loại hội mùa gắn
với các nghi lễ của tín ngưỡng dân gian hoặc tôn giáo dựa theo âm lịch như lễ tết
Nguyên Đán.
+ Lễ hội tôn giáo: Gắn liền với những cộng đồng tín đồ tôn giáo đồng thời cũng là
dịp hội họp, sinh hoạt văn hóa quần chúng của nhân dân sở tại. Các loại hình lễ hội
tông giáo đó là: Lễ hội rằm tháng bảy hay
còn gọi lễ vu lan; Lễ hội Phật đản; Lễ thiên chúa giáo (Lễ Noel, lễ Phục sinh...)

Trần Đức Anh Kiệt

17

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.


GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

Du lịch lễ hội
- Khái niệm

Du lịch lễ hội thuộc loại hình du lịch văn hóa. Du lịch lễ hội là hoạt động mà khách du
lịch muốn thỏa mản nhu cầu tìm hiểu truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, lịch sữ
tín ngưởng dân gian… thông qua việc tham dự chứng kiến các hoạt động của lễ hội
-

Đặc điểm du lịch lễ hội

Khác với các loại hình du lịch thiên nhiên du, du lịch xã hội, du lịch giải trí… Du lịch
lễ hội có một số đặc điểm cơ bản sau:
Du lịch lễ hội luôn gắn với thời gian mở hội nên thường diễn ra theo mùa vụ. Các
lễ hội ở Việt Nam chủ yếu được tổ chức vào mùa xuân, một số ít lễ hội được tổ chức
vào mùa thu. Do vậy yếu tố mùa vụ của lễ hội sẽ chi phối lớn đến các thiết chế phục vụ
hoạt động du lịch lễ hội như hệ thống tài nguyên lễ hội, quy hoạch tuyến du lịch điểm
du lịch, các hoạt động dịch vụ, cơ sở lưu trú, các chương trình du lịch… Cũng phải
tuân theo các yếu tố mùa vụ. Các loại hình du lịch khác như du lịch thể thao, du lịch
giải trí ít bị chi phối bởi mùa vụ. Do vậy việc chuẩn bị các yếu tố phục vụ các du lịch lễ
hội phải có sự sắp xếp chu đáo và khoa học. Nếu không có sự chuẩn bị từ trước ( từ cơ
sở vật chất, các dịch vụ, công tác tổ chức lễ hội..) sẽ dẫn đến không đáp ứng nhu cầu
của khách hàng hoặc sẽ xảy ra tình trạng quá tải do lượng du khách tăng đột biến so
với ngày thường.
Du lịch lễ hội thường gắn với không gian, thời gian nhất định. Chẳng hạn lễ hội
Đền Hùng chỉ diễn ra một lần vào dịp 10/3 hàng năm tại tỉnh Phú Thọ; lễ hội đua
thuyền trên sông Hương diễn ra hai lần vào dịp Festival Huế và dịp quốc khánh 2/9; lễ
hội Thái Dương Hạ chỉ diễn ra vào ngày 12 tháng giêng âm lịch; lễ hội vật Làng Sình

diễn ra vào ngày 10 tháng giêng âm lịch hàng năm… Do vậy việc tổ chức các hoạt
động du lịch lễ hội phải nắm chắc thời gian địa điểm và các hoạt động đặc trưng các
nội dung chính của lễ hội khai thác đúng hướng và hiệu quả. Chẳng hạn muốn tìm hiểu
lễ hội chèo thuyền trên sông Hương lễ hội thường được diễn ra vào thời điểm festival
bao gồm nhiều hoạt động lễ hội khác nên cần phải chuẩn bị được tổ chức tốt cả phần lễ
và phần hội thì sức cảm hóa của thời điểm mạnh và không gian thiên liên được nhân
Trần Đức Anh Kiệt

18

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

lên gấp ngàn lần và giá trị nhân văn của lễ hội trong lòng du khách cũng được tăng lên.
Thời gian, không gian và tính chất của lễ hội sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút
khách du lịch.
-

Phân loại lễ hội

Xét dưới góc độ của những người làm công tác quản lý nhà nước về lễ hội, năm
2001, Bộ trưởng Bộ VHTT (nay là Bộ VHTTDL) ban hành quyết định số 39/2001/QĐBVHTT kèm theo Quy chế tổ chức lễ hội. Quy chế này đã đưa ra 4 loại lễ hội ở nước
ta thuộc đối tượng cần điều chỉnh là: Lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội
tôn giáo, Lễ hội du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam.
+ Lễ hội dân gian
Giới nghiên cứu có xu hướng xác định lễ hội dân gian được hiểu là những lễ hội

mà chủ thể là do dân chúng tham gia tổ chức và hưởng thụ, khai thác triệt để các sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian làm nền tảng cho hoạt động hội.
Theo tác giả Đinh Gia Khánh: “Hội lễ dân gian, khác với hội lễ của các tôn giáo,
bao giờ cũng lôi cuốn đại đa số dân chúng tham gia”.
Có lễ hội dân gian truyền thống và lễ hội dân gian hiện đại. Lễ hội dân gian
truyền thống được hiểu là lễ hội đã xuất hiện trước thời điểm tháng 8-1945, chủ yếu ở
các làng, bản, ấp, gắn với nông dân, ngư dân, thợ thủ công. Loại lễ hội này được cộng
đồng tổ chức định kỳ, lặp đi, lặp lại, với các sinh hoạt văn hóa tương đối ổn định; là bộ
phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân vào thời gian nhàn rỗi của
chu kỳ sản xuất nông nghiệp trước đây. Ví dụ: Lễ hội chùa Hương (Hà Nội), lễ hội đền
Hùng (Phú Thọ), lễ hội núi Bà Đen (Tây Ninh), lễ hội Bà Chúa Xứ (An Giang), lễ hội
lăng ông Nam Hải (Cà Mau), lễ hội Ka Tê của đồng bào Chăm, lễ hội Chol Thnăm
Thmây của đồng bào Khơme, lễ hội lồng tồng của đồng bào Tày...
Lễ hội dân gian truyền thống, theo tác giả Nguyễn Chí Bền, còn gọi là lễ hội cổ
truyền, nếu giả định như một mô hình thì nó có 4 thành tố cơ bản như sau: Nhân vật
phụng thờ, trò diễn, các vật dâng cúng, nghi thức thờ cúng.
Nhân vật thờ phụng được coi là thành tố quan trọng của lễ hội dân gian truyền
thống, chính vì vậy, các nhà quản lý văn hóa, tôn giáo đã xếp một bộ phận của loại lễ
hội này là lễ hội tín ngưỡng. Nghị định số 22/2005/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn
Trần Đức Anh Kiệt

19

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên


thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ở Điều 3. Lễ hội tín ngưỡng,
viết: “Lễ hội tín ngưỡng là hình thức hoạt động tín ngưỡng có tổ chức, thể hiện sự tôn
thờ, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng, thờ cúng tổ
tiên, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu
biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”.
Lễ hội dân gian hiện đại có hai cách hiểu. Một là những lễ hội xuất hiện sau thời
điểm tháng 8/1945 được người dân tổ chức, cộng đồng chấp nhận tái hiện theo chu kỳ
nhất định và trong xu hướng phát triển lễ hội ấy có thể trở thành lễ hội dân gian truyền
thống. Ví dụ: khi phố cổ Hội An (Quảng Nam) trở thành di sản văn hóa thế giới, được
sự đồng ý và giúp sức của chính quyền, dân chúng tổ chức lễ hội đêm rằm phố cổ Hội
An vào tối 14 âm lịch hàng tháng, đến nay, lễ hội này đã bám rễ vào đời sống cộng
đồng; ở huyện Long Đất (Bà Rịa - Vũng Tàu), các cơ sở tín ngưỡng trong huyện hàng
năm tổ chức lễ hội đền ơn đáp nghĩa vào ngày thương binh liệt sĩ 27-7, có lễ cầu siêu
vong linh các anh hùng, liệt sĩ và những người chết trong chiến tranh; lễ hội Tết độc
lập 2-9 của người Mông ở huyện Mộc Châu (Sơn La), ngày này người Mông ở các tỉnh
Tây Bắc kéo về thị trấn Mộc Châu gặp gỡ, giao lưu rất đông vui.
Cách hiểu thứ hai: lễ hội dân gian hiện đại là những lễ hội dân gian truyền thống
đã bị biến đổi mạnh mẽ theo hướng cách tân làm cho các yếu tố truyền thống bị phai
mờ và bị các yếu tố sinh hoạt văn hóa, văn nghệ hiện đại lấn lướt, hoặc “có những nét
thay đổi cho phù hợp với quan niệm thẩm mỹ hiện đại”.
Lễ hội dân gian hiện đại tổng hợp và dung hòa các loại hình văn hóa, nghệ thuật
truyền thống và hiện đại tồn tại ở dạng vật thể và phi vật thể, kết hợp với các hoạt động
thương mại, quảng bá sản phẩm, tạo ra một diễn xướng văn hóa lớn.
+ Lễ hội lịch sử cách mạng
Đây là lễ hội mới ra đời sau tháng Tám năm 1945 do chính quyền các cấp và
nhân dân tham gia tổ chức. Nội dung lễ hội liên quan đến các nhân vật tiền bối cách
mạng của Đảng và các sự kiện lịch sử trên chặng đường hoạt động cách mạng từ khi
thành lập Đảng tới nay.
Đáng chú ý là khá nhiều lễ hội lịch sử cách mạng gắn với cuộc đời hoạt động của
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài ra, các lễ hội được tổ chức ở

Trần Đức Anh Kiệt

20

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

các khu lưu niệm, nhà tưởng niệm các lãnh tụ cách mạng Việt Nam (Trần Phú, Hà Huy
Tập, Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, Tôn Đức Thắng, Trường Chinh, Nguyễn Văn
Linh...) vào các năm tròn 5, chẵn 10.
Một số địa phương xuất hiện lễ hội liên quan đến các anh hùng, liệt sĩ mà sự hy
sinh của họ đã trở thành hồn thiêng sông núi của quê hương, như lễ hội tưởng niệm chị
Võ Thị Sáu ở Côn Đảo, lễ hội tưởng niệm chị Phan Thị Ràng, nguyên mẫu nhân vật chị
Sứ trong cuốn tiểu thuyết Hòn Đất nổi tiếng một thời của nhà văn Anh Đức ở vùng núi
Ba Hòn, huyện Hòn Đất (Kiên Giang)...
Các sự kiện lịch sử cách mạng đã trở thành tâm điểm cho cảm hứng sáng tạo lễ
hội của nhân dân. Đó là các lễ hội ở các địa phương nhân dịp thành lập Đảng (3-2),
Quốc khánh 2-9; ngày chiến thắng 30-4; ngày quê hương giải phóng... Ví dụ: ngày
chiến thắng 30/4, ở Quảng Trị có lễ hội thống nhất non sông ở cầu Hiền Lương; ngày
thương binh liệt sĩ 27-7 có lễ hội thả đèn hoa ở đôi bờ sông Thạch Hãn tưởng nhớ các
liệt sĩ đã chiến đấu hy sinh trong 81 ngày đêm giữ thành cổ Quảng Trị...; Hà Nội tổ
chức các lễ hội nhân ngày giải phóng Thủ đô 10-10; Đà Nẵng tổ chức lễ hội vào dịp
29-3 - ngày giải phóng Đà Nẵng... Rất nhiều lễ hội lịch sử cách mạng được hình thành
thu hút sự tham gia đông đảo quần chúng nhân dân dưới nhiều hình thức sinh hoạt văn
hóa, văn nghệ, dịch vụ thương mại... Một số lễ hội lịch sử cách mạng được tái hiện, lặp
đi lặp lại, định hình một số nghi thức, trò diễn, sinh hoạt văn hóa mang sắc thái riêng

của một vùng đất được nhân dân chấp nhận, tự nguyện tham gia và theo xu hướng phát
triển có thể trở thành lễ hội dân gian hiện đại, như: lễ hội làng Sen kỷ niệm ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Nghệ An, lễ hội mồng 2-9 kỷ niệm ngày mất Chủ tịch Hồ Chí
Minh ở xã Long Đức (Trà Vinh)...
+ Lễ hội tôn giáo
Lễ hội tôn giáo do các chức sắc, tổ chức tôn giáo đứng ra chủ trì huy động các tín
đồ tham gia đáp ứng nhu cầu tinh thần và đời sống tâm linh của tín đồ. Nội dung của lễ
hội tôn giáo liên quan đến sự tích về các nhân vật do tôn giáo đó thờ phụng. Các lễ hội
tôn giáo không chỉ ở việc hành lễ và diễn ra các nghi thức tôn giáo trong khuôn viên
nơi thờ tự mà nhiều lễ hội đã mở rộng không gian hoạt động, chú ý đến các sinh hoạt
văn hóa, văn nghệ truyền thống ở cộng đồng để tăng chất hội hè, vui chơi giải trí. Các
Trần Đức Anh Kiệt

21

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

tín đồ xuất phát từ đức tin vào những biểu tượng thiêng, cõi thiêng của tôn giáo đã tâm
đức đóng góp tiền của, công sức tạo nên sắc màu lung linh, huyền ảo của nhiều lễ hội
diễn ra tại cơ sở thờ tự của tôn giáo. Đáng lưu ý một số lễ hội tôn giáo không chỉ ảnh
hưởng tới các tín đồ mà còn thu hút sự chú ý và hưởng ứng tham gia của nhiều dân
chúng và các tầng lớp xã hội, trở thành một lễ hội văn hóa, như: lễ hội Noen, lễ hội
Phật đản... Một số lễ hội tôn giáo có sức hút tín đồ và dân chúng ở nhiều vùng miền về
hành lễ và hưởng thụ văn hóa (lễ hội La Vang ở Quảng Trị, lễ hội Vía Cao Đài ở tòa
thánh Tây Ninh...).

+ Lễ hội du nhập từ nước ngoài
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam có quan hệ giao lưu với nhiều
quốc gia, dân tộc trên thế giới. Do biến động của lịch sử, một số tộc người từ quốc gia
khác cũng đã di cư sinh sống ở Việt Nam mang theo cả tài sản văn hóa, trong đó có lễ
hội. Vì vậy, nhiều lễ hội của những tộc người từ quốc gia khác vào Việt Nam sinh sống
lâu đời đã trở thành di sản văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Ví dụ: lễ hội
Noen, Phật đản, lễ hội của người Hoa ở Hà Tiên (Kiên Giang), lễ hội của người Thái,
người Mông, người Dao ở Tây Bắc Việt Nam. Do vậy, lễ hội du nhập từ nước ngoài
vào Việt Nam ở đây xác định đối tượng là những lễ hội của nước ngoài do người nước
ngoài hoặc người Việt Nam tổ chức trong thời gian từ Cách mạng tháng Tám năm 1945
trở lại đây. Xác định đối tượng và khoảng thời gian như vậy thì số lễ hội du nhập từ
nước ngoài vào Việt Nam không nhiều, chỉ 10 lễ hội. Ví dụ: lễ hội ánh sáng (Diwlim Ấn Độ) tổ chức cho trẻ em, lễ hội thả đèn trên sông cầu may (Loy Krathong - Thái
Lan)...
Đáng lưu ý là một số lễ hội của nước ngoài được giới trẻ Việt Nam tiếp nhận một
cách tự nhiên và nồng nhiệt tái diễn. Đó là lễ hội ngày tình yêu (Valentin’s Day), lễ hội
hóa trang (Halowen)...
+ Lễ hội văn hóa du lịch
10 năm trở lại đây, xuất hiện một loại lễ hội mới, đó là lễ hội văn hóa thể thao, lễ
hội văn hóa du lịch. Lễ hội văn hóa thể thao thường liên quan đến lễ kỷ niệm một sự
kiện nào đó, như: kỷ niệm tròn 5, chẵn 10 năm của một ngành, của một địa phương
hoặc được chính quyền tổ chức định kỳ đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân. Lễ hội
Trần Đức Anh Kiệt

22

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

văn hóa du lịch được một địa phương hay một đơn vị tổ chức hay liên kết một số địa
phương, đơn vị tổ chức nhằm mục đích quảng bá du lịch, thu hút du khách đến với một
vùng đất. Đặc điểm của loại hình lễ hội này là chính quyền và đơn vị đăng cai tổ chức
lễ hội bỏ kinh phí cùng với nguồn tài trợ của các thành phần kinh tế qua hình thức xã
hội hóa cho mọi hoạt động diễn ra lễ hội để phục vụ vui chơi giải trí của nhân dân,
thông qua đó giáo dục chính trị tư tưởng, việc người dân có đến lễ hội đó hay không là
quyền của mỗi người. Nhà tổ chức dựa theo kịch bản huy động số lượng lớn các nghệ
sĩ chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp tập luyện, trình diễn các loại hình nghệ
thuật; mời gọi các doanh nghiệp tham gia triển lãm, hội chợ thương mại... Tùy từng
chủ đề, các nhà viết kịch bản và đạo diễn có sử dụng kết hợp các loại hình văn hóa
đương đại với các loại hình văn hóa truyền thống. Ví dụ: Lễ hội du lịch carnaval Hạ
Long (Quảng Ninh), festival biển Bà Rịa - Vũng Tàu, festival hoa Đà Lạt (Lâm Đồng),
festival cà phê (Đắc Lắc), lễ hội Quảng Nam hành trình di sản... Do phụ thuộc vào chủ
quan của một số người nên nội dung lễ hội này luôn được thay đổi sau mỗi lần tổ chức.
Quần chúng, nhân dân là người thụ động hưởng thụ văn hóa chứ không phải là chủ thể
tham gia một cách trực tiếp, tự giác, phi vụ lợi như người dân trong lễ hội truyền thống
vào quá trình chuẩn bị và diễn các sinh hoạt lễ hội. Vì nguyên do này, một số nhà
nghiên cứu dựa vào bản chất của lễ hội còn băn khoăn là có nên gọi loại này là lễ hội
văn hóa thể thao du lịch không, hay gọi đó là một loại hình sự kiện văn hóa thể thao du
lịch, hay gọi nó là lễ hội đại chúng khác với lễ hội quần chúng. Lễ hội quần chúng là
một thành tố của văn hóa quần chúng. Đây là lễ hội mới ra đời trong thời kỳ đất nước
ta thực hiện chính sách kinh tế tập trung, kế hoạch hóa với hai thành phần kinh tế chủ
chốt là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Từ hai nguồn kinh tế này, quần chúng, nhân
dân được huy động tham gia trực tiếp vào hoạt động và hưởng thụ văn hóa lễ hội. Cách
thức tổ chức lễ hội quần chúng nước ta học và áp dụng theo các giáo trình về lễ hội
quần chúng ở Liên Xô. Dù còn ý kiến khác nhau nhưng nếu xét dưới góc nhìn của một
lễ hội hiện đại, đồng thời xem xét xu thế chung của lễ hội ở các nước trong khu vực
Đông Á và Đông Nam Á những năm gần đây, yếu tố lễ ngày một giảm, yếu tố hội gắn

Trần Đức Anh Kiệt

23

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

với vui chơi, giải trí tăng lên; sự tham gia của người dân vào các sự kiện văn hóa giảm
phần trực tiếp mà tăng phần gián tiếp, thông qua sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp mà tự giác
hòa đồng vào không gian sự kiện, được quay phim, chụp ảnh, phấn khích, reo vui... bộc
lộ cảm xúc cá nhân, thì sự kiện văn hóa thể thao du lịch ấy được coi là một loại hình lễ
hội với tính chất hiện đại của nó.
Lễ hội văn hóa du lịch cũng như lễ hội lịch sử cách mạng khi được tổ chức
thường xuyên, định hình những thành tố cốt lõi, được quần chúng, nhân dân đồng tình
hưởng ứng, tự giác huy động công sức, tiền của tham gia thì nó trở thành lễ hội dân
gian hiện đại.
1.3. Phát triển bền vững du lịch lễ hội
- Khái niệm về du lịch bền vững
Du lịch bền vững là du lịch mà giảm thiểu các chi phí và nâng cao tối đa các lợi
ích của du lịch cho môi trường tự nhiên và cộng đồng địa phương và có thể được thực
hiện lâu dài nhưng không ảnh hưởng xấu đến nguồn lợi mà nó phụ thuộc vào.
- Phát triển du lịch lễ hội bền vững
Khái niệm về phát triển du lịch bền vững
Phát triển du lịch bền vững được định nghĩa tại Luật du lịch 2017 (có hiệu lực từ
ngày 01/01/2018). Theo đó:
Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu

về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia
hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong
tương lai.
Mạng Lưới tổ chức Du lịch Thế giới của Liên Hợp Quốc (United Nation World
Tourism Organization Network - UNWTO) chỉ ra rằng du lịch bền vững cần phải:
Về môi trường: Sử dụng tốt nhất các tài nguyên môi trường đóng vai trò chủ yếu
trongphát triển du lịch, duy trì quá trình sinh thái thiết yếu, và giúp duy trì di sản thiên
nhiên và đa dạng sinh học tự nhiên.
Trần Đức Anh Kiệt

24

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Lê Thị Kim Liên

Xã hội và văn hóa: Tôn trọng tính trung thực về xã hội và văn hóa của các cộng
đồng địa phương, bảo tồn di sản văn hóa và các giá trị truyền thống đã được xây dựng
và đang sống động, và đóng góp vào sự hiểu biết và chia sẻ liên văn hóa.
Về kinh tế: Bảo đảm sự hoạt động kinh tế tồn tại lâu dài, cung cấp những lợi ích
kinh tế xã hội tới tất cả những người hưởng lợi và được phân bổ một cách công bằng,
bao gồm cả những nghề nghiệp và cơ hội thu lợi nhuận ổn định và các dịch vụ xã hội
cho các cộng đồng địa phương, và đóng góp vào việc xóa đói giảm nghèo.
1.4. Các nghiên cứu về du lịch về phát triển du lịch lễ hội
Đề tài: “Khai thác các giá trị văn hóa của lễ hội Đền Sóc (Đền Gióng) để phục vụ
du lịch”. Chủ nhiệm đề tài: Sinh viên Trần Thị Bích Ngọc, lớp VHL101; giáo viên
hướng dẫn: ThS. Vũ Thị Thanh Hương. Đề tài được đánh giá xếp loại khá.

Đề tài: “Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải
Phòng”. Chủ nhiệm đề tài: Sinh viên Tô Thị Bình Nhung, lớp VHL101; giáo viên
hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Bính. Đề tài được đánh giá xếp loại giỏi.
Đề tài: “Tìm hiểu các nghi lễ theo chu kỳ đời người của tộc người Tày ở thôn Lập
Thạch - xã Tân Trào - huyện Sơn Dương - tỉnh Tuyên Quang để phục vụ cho phát triển
du lịch”. Chủ nhiệm đề tài: Sinh viên Phạm Quang Hưng, lớp VHL101; giáo viên
hướng dẫn: ThS. Vũ Thị Thanh Hương. Đề tài được đánh giá xếp loại giỏi.
1.5 Mô hình nghiên cứu đề xuất

Trần Đức Anh Kiệt

25

Lớp: K49 Kinh tế du lịch


×