Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch lễ hội tại thánh địa la vang – tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.89 KB, 126 trang )

ĐẠI HỌC HUÊ
KHOA DU LỊCH
.......................

PHIÊU ĐIỀU TRA
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH LỄ HỘI
TẠI THÁNH ĐỊA LA VANG – TỈNH QUẢNG TRỊ

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

TS. LÊ THỊ KIM LIÊN

NGUYỄN THỤC TRINH
Lớp: K49-KTDL

Huế, ngày 07 tháng 05 năm 2019




Chun đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

Để đạt được kết quả như ngày hôm
nay, em xin gửi lời biết ơn chân thành


sâu



sắc

đến

toàn

thể

quý

Thầy/Cô giảng viên Khoa Du Lòch - Đại
Học Huế

những người đã tận tâm

giảng dạy, truyền đạt cho em kiến thức
và kinh nghiệm quý báu để em có thể
trưởng thành và tự tin hơn khi bước vào
đời.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến giảng viên TS. Lê Thò Kim
Liên - giáo viên hướng dẫn đã quan
tâm, động viên và giúp đỡ em rất
nhiều trong việc tiếp cận nghiên cứu
và hoàn thành bài chuyên đề tốt
nghiệp này.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm
ơn.
Huế, tháng 05

năm 2019
2
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

2

Lớp: K49-KTDL


Chuyờn tt nghip

GVHD: TS. Lờ Th Kim Liờn

Sinh vieõn thửùc taọp
Nguyeón Thuùc Trinh

3
SVTH: Nguyn Thc Trinh

3

Lp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập

và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kì đề tài
nghiên cứu khoa học nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được chỉ rõ nguồn gốc
rõ ràng và được phép công bố.
Huế, tháng 05 năm 2019
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thục Trinh

4
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

4

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

MỤC LỤC
122
PHỤ LỤC

5
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

5


Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

DANH MỤC CÁC BẢNG

6
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

6

Lớp: K49-KTDL


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Kim Liên

DANH MỤC CÁC BIỂU DỒ

7
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

7

Lớp: K49-KTDL



PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. TÍNH CẤP THIÊT
Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng về du lịch, trong đó lễ hội
được xem như một bộ phận cấu thành nên tiềm năng ấy. Tại sao có thể kết luận
như vậy? Bởi một điều hết sức giản đơn, lễ hội là một kho tàng văn hóa, nơi lưu
giữ những tính ngưỡng, tôn giáo, những sinh hoạt văn hóa văn nghệ, nơi phản
ánh tâm thức con người Việt Nam một cách trung thực nhất. Nơi mở hội nhiều
khi là những danh lam thắng cảnh, một môi trường giao tiếp văn hóa và đáp ứng
được các tiêu chuẩn của một điểm du lịch. Hơn thế nữa, với nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc, nước ta có gần 8000 lễ hội truyền thống hội tụ đủ các nét đẹp
văn hóa khắp các vùng miền, đây chính là một kho tài nguyên, là tiềm năng to
lớn để phát triển ngành du lịch. Khai thác khía cạnh này của văn hóa. Có thể nói
du lịch lễ hội đã và đang mang lại to lớn cho sự phát triển của du lịch cả nước nói
chung và từng địa phương nơi diễn ra lễ hội nói riêng.
Quảng trị là tỉnh có truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời. Điển hình nhất là
tiếng nói mang đặc điểm thổ ngữ vùng Trung bộ còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ của
tiếng Việt. Các phong tục khác nhau như ma chay, cưới xin, giỗ chạp với lễ nghi
đơn giản. Đặc biệt ở Quảng Trị có một địa điểm được xem là quan trọng và lớn
nhất của người Công giáo Việt Nam. Mỗi năm có hàng triệu người về hành
hương kính Đức Mẹ ở nơi linh thiêng này. Thánh địa La Vang Quảng Trị bây giờ
không còn là một vùng hoang vu như cách đây hơn 200 năm mà đã trở thành
trung tâm hành hương Công giáo với nhiều công trình được xây dựng kiên cố rất
đẹp. Tuy nhiên đa số các lễ hội ở đây đều diễn ra trong thời gian rất ngắn nên
chưa phát huy hết các giá trị văn hóa, tâm linh, lịch sử của nó. Điều này có nghĩa
là những chủ nhân của lễ hội và người làm du lịch cần có sự gắn kết chặt chẽ với
nhau trên cơ sở cả hai bên cùng có lợi và cũng vì mục đích lâu dài. Xuất phát từ
điểm thiết yếu đó, tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu phát triển bền vững du
lịch lễ hội tại thánh địa La Vang – tỉnh Quảng Trị” nhằm mục đích hình thành
cái nhìn đầu tiên rõ nét về hình thức du lịch lễ hội cũng như bước đầu đánh giá

8
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


được thưc trạng về sự quan tâm và tham gia của khách du lịch tham gia vào loại
hình du lịch của tỉnh nhà. Bằng những số liệu thu thập và lượng thông tin tìm
hiểu được trong quá trình nghiên cứu, đề tài của tôi sẽ là cơ sở lý luận cho những
công trình nghiên cứu sâu hơn và quy mô hơn về sau.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU (Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể)




Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững du lịch lễ hội
Đánh giá thực trạng phát triển du lịch lễ hội tại thánh địa La Vang – Quảng Trị
Xác định các nhân tố ảnh tác động đến phát triển bền vững lễ hội tại thánh địa La

Vang – Quảng Trị
• Đề xuất định hướng và các giải pháp nhằm khai thác và phát triển bền vững dun
lịch lễ hội tại thánh địa La Vang – Quảng Trị
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng điều tra: Du khách tham quan các sản phẩm có tại lễ hội La
Vang – Quảng Trị năm 2018.
- Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững du
lịch lễ hội
- Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Các địa điểm tổ chức lễ hội tại thánh địa La Vang – Quảng Trị
Thời gian: 01/01/2019– 05/04/2019

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn dữ liệu
Nguồn sơ cấp:
- Được thu thập thông qua thảo luận nhóm, phỏng vấn định tính, gửi bảng
câu hỏi cho khách hàng tại lễ hội, ban quản lý lễ hội tại thánh địa La Vang
- Tham khảo ý kiến của chuyên gia để xây dựng hoàn chỉnh bảng hỏi: ban
tổ chức, du khách
- Thông tin cần thu thập: thông tin về du khách, đánh giá của khách hàng về
sự hài lòng của họ đối với chất lượng lễ hội tại thánh địa
Nguồn thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp được lấy từ nhiều nguồn khác nhau:

9
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


- Thu thập các thông tin, số liệu liên quan như báo cáo, chương trình lễ hội,
thống kê lượng khách hàng trong năm qua các kỳ lễ hội.
- Một số công trình nghiên cứu và luận văn tốt nghiệp đại học, cao học.
- Các giáo trình, ví dụ Hành vi người tiêu dùng để lấy cơ sở lý thuyết cho đề
tài nghiên cứu: lý thuyết về khách hàng, chất lượng, sự hài lòng của khách hàng.
- Ngoài ra, còn thu thập thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu từ
Internet. (sẽ đề cập nguồn vào đề tài cụ thể)
4.2. Thiết kế nghiên cứu
4.2.1. Nghiên cứu định tính
Thảo luận
Nghiên cứu các tài liệu thứ cấp và thảo luận khoảng 10 khách hàng để
khám phá, điều chỉnh, bổ sung các biến quan sát, xây dựng thang đo sơ bộ về sự

hài lòng của khách hàng đối với lễ hội tại thánh địa La Vang .
Thiết kế bảng hỏi
Phần I: Bảng hỏi được thực hiện trên cơ sở thang đo đã lựa chọn và thảo luận
nhóm về các yếu tố tác động đến phát triển bền vững du lịch lễ hội. Nội dung và các
biến quan sát trong các thành phần được hiệu chỉnh cho phù hợp. Một thang đo
Likert 5 điểm được dùng để sắp xếp từ nhỏ đến lớn là càng đồng ý với phát biểu (1:
rất không đồng ý, 2: không đồng ý, 3: bình thường, 4: đồng ý, 5: rất đồng ý).
Phần II: Là các thông tin cá nhân nhằm phân loại đối tượng phỏng vấn như
giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, thu nhập hiện tại.
4.2.2. Nghiên cứu định lượng
Thử điều tra
Phát phiếu điều tra cho tầm 30 du khách đã đến các điểm triển khai trong
thời gian diễn ra lễ hội, kiểm tra lại bảng điều tra nếu có sai sót thì điều chỉnh lại
bảng hỏi cho tthật phù hợp rồi tiến hành điều tra chính thức.
4.3.3. Xử lý số liệu
* Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS 22.0 để xử lý số
liệu. Trong quá trình xử lý số liệu,tiến hành một số phương pháp phân tích sau:

10
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


* Phân tích mô tả: Mục đích của phương pháp này là mô tả mẫu điều
tra,thống kê các hành vi và tìm hiểu thói quen của khách hàng,tìm hiểu đặc điểm
của đối tượng điều tra. Kết quả sẽ là cơ sở để đưa ra những nhận định ban đầu và
tạo nền tảng để đề xuất các giải pháp sau này.
* Kiểm tra độ tin cậy:
+ Mục đích là tìm hiểu xem các biến quan sát có cùng đo lường cho 1 khái

niệm cần đo hay không. Muốn biết cái nào đóng góp nhiều hay ít thì quan sát hệ
số tương quan biến – tổng.
+Sử dụng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha trước khi phân tích
nhân tố EFA để loại các biến không phù hợp vì các biến rác này có thể tạo ra các
nhân tố giả khi phân tích EFA
* Phân tích nhân tố: phương pháp thống kê dùng để rút gọn một tập gồm nhiều
biến quan sát phụ thuộc lẫn nhau thành một tập biến ít hơn, không tương quan với
nhau, nhưng chúng vẫn chứa đựng hầu hết thông tin của tập biến ban đầu.
* Phân tích Anova: Phương pháp này sẽ cho phép chúng ta so sánh sự khác
biệt giữa tham số trung bình của 2 hay nhiều nhóm có trong mẫu để suy rộng lên
tổng thể.

11
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


5. Quy trình nghiên cứu

Xác định vấn đề nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu

Xử lý số liệu

Điều tra sơ bộ

Thu thập dữ liệu


Thiết kế bảng hỏi sơ bộ

Điểu tra thử 20 bảng hỏi

Tiến hành điểu tra chính thức
Chỉnh sửa và tính cỡ mẫu
Mã hóa, nhập và làm sạch dữ liệu

Điều tra chính thức

Kết quả nghiên cứu

Phân tích dữ liệu

Báo cáo nghiên cứu

Hình 1: Quy trình nghiên cứu
6. Hạn chế đề tài
Do kiến thức nghiên cứu còn hạn chế, đề tài không tránh khỏi những thiếu
sót, kính mong quý thầy cô và các bạn đọc, góp ý chỉnh sửa để đề tài nghiên cứu
được hoàn thiện hơn.
7. BỐ CỤC ĐỀ TÀI
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Phần II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I: Tổng quan lý luận về phát triển bền vững du lịch lễ hội
Chương II: Thực trạng phát triển bền vững du lịch lễ hội tại thánh địa La Vang
Chương III: Giải pháp phát triển bền vững du lịch lễ hội tại thánh địa La Vang
PHẦN III: KÊT LUẬN VÀ KIÊN NGHỊ
Tài liệu tham khảo
12

SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG DU LỊCH LỄ HỘI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI
1.1.1 Khái niệm lễ hội
Có thể nói, lễ hội là một kho tàng văn hoá, nơi lưu giữ những tín ngưỡng,
tôn giáo, những sinh hoạt văn hoá văn nghệ, nơi phản ánh tâm thức con người
Việt Nam một cách trung thực.Nó giữ vai trò như sợi dây gắn kết cộng đồng, tạo
dựng không gian văn hóa vừa sang trọng, linh thiêng, vừa tưng bừng, náo nức.
Nhìn chung, lễ hội dân tộc Việt Nam gồm hai bộ phận: lễ hội truyền thống cung
đình và lễ hội dân gian. Với lễ hội dân gian, đây là nơi lưu giữ nhiều tín ngưỡng
dân gian. Tín ngưỡng của lễ hội dân gian Việt Nam được biểu hiện dưới nhiều
dạng như thờ cúng thần hoàng, thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng tổ nghề…Lễ
hội truyền thống còn lưu giữ nhiều sinh hoạt văn hoá văn nghệ đặc sắc. Nơi mở
hội nhiều khi là những danh lam thắng cảnh, một môi trường giàu tính văn hoá.
Chính địa điểm mở hội đáp ứng các tiêu chuẩn một điểm du lịch. Ngoài ra, các
tín ngưỡng dân gian còn tiềm ẩn các trò diễn như tín ngưỡng thờ mặt trời, mặt
trăng, thần nước… Sự tiềm ẩn đó khiến chúng ta khó nhận diện các tín ngưỡng
cổ xưa ấy. Cùng với tín ngưỡng, nhiều lễ hội còn gắn với phật giáo, thiên chúa
giáo. Lễ hội cung đình gắn liền với văn hóa cung đình của các triều đại phong
kiến mà đỉnh cao và sự phong phú là các lễ hội cung đình triều Nguyễn như lễ tế
Nam Giao, tế Xã tắc, Truyền lô, lễ Vật…
Trong gốc từ Hán Việt, “Lễ hội” được kết hợp từ hai yếu tố, trong đó “lễ” là
những quy tắc ứng xử, cách thức cúng tế, nghi thức tôn giáo, “hội” là cuộc vui,
đám vui đông người.

Còn trong tiếng La Tinh, “lễ hội xuất xứ từ Festum, Nghĩa là sự vui chơi,
vui mừng của công chúng.
Giáo sư người Nhật Kurahayashi cũng đã đưa ra quan điểm rằng: “ Xét về
tính chất xã hội của lễ hội, lễ hội là quảng trường tâm hồn; xét về tính chất văn
13
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


nghệ, lễ hội là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng nghệ thuật. mỹ thuật, nghệ thuật,
giải trí, trò diễn và với ý nghĩa đó, lễ hội tồn tại và có liên hệ mật thiết với sự
phát triển của văn hóa”.
Alessandro Falassi nhận định rằng: “ Lễ hội là một hoạt động kỷ niệm định
kì biểu thị thế giới quan của một nền văn hóa hay nhóm xã hội thông qua lễ diễn
xướng nghi kễ và trò chơi truyền thống”.
Còn theo nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh “ Lễ hội là một hiện tượng văn
hóa dân gian tổng thể được hình thành trên cơ sở một tín ngưỡng nào đó được
tiến hành theo định kỳ mang tính cộng đồng”.
Tác giả Dương Văn Sáu cũng đã đưa ra khái niệm về lễ hội:“ Lễ hội là hình
thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian
và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự khiện, nhân vật lịch sử hay huyền
thoại; đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với thiên
nhiên – thần thánh và con người trong xã hội”
Trong cuốn “địa lý du lịch”, Nguyễn Minh Tuệ cho rằng: “Lễ hội là một
loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng và phong phú, là một kiểu
sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc hoặc là một dịp
để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại: ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại
truyền thống, hoặc là để giải quyết những nỗi âu lo, những khao khát, ước mơ mà
cuộc sống hiện tại chưa giải quyết được”.

Thật vậy, lễ hội như gắn bó chặt chẽ với cuộc sống đời thường, dù có đôi
chút khác nhau trong cách hiểu, cách diễn đạt song ta vẫn có thể nhận thấy một
mạch chung, thống nhất trong một nội dung: Lễ hội là cuộc đời thứ hai bên cạnh
cuộc đời thực; là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của cộng
đồng, là sự lý tưởng hóa khát vọng cuộc đời, là một hệ thống sinh hoạt văn hóa,
tôn giáo, nghệ thuật của một cộng đồng người, gắn liền với các nghi thức đặc thù
và các cuộc vui chung nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người”.

14
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


1.1.2 Phân loại lễ hội
Căn cứ vào thời gian hình thành và phát triển lễ hội:
- Lễ hội truyền thống:
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của
người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam
từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Ví dụ như hội
đền Hùng (Phú Thọ), hội Chùa Hương (Hà Nội).
+ Lễ hội dân gian:
Lễ hội dân gian là di sản văn hóa, gắn với lao động sản xuất tạo nên nét độc đáo
trong văn hóa người Việt Nam. Ví dụ ở Huế có hội đua thuyền, hội Vật Làng Sình.
+ Lễ hội cung đình: Gắn với văn hóa cung đình như Lễ tế Nam Giao, tế
Xã Tắc, lễ Truyền Lô.
- Lễ hội hiện đại:
Là lễ hội mang hơi thở của thời đại mới, thương mại và chính trị cao. Ví dụ
như các lễ hội sau: Lễ hội kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Ngày Quốc
Khánh (2/9), ngày giải phóng miền Nam (30/4), Festival Huế, Lễ hội Hoa Đà Lạt…

Căn cứ vào không gian tổ chức:
- Lễ hội mang tính quốc tế: Lễ hội du nhập từ bên ngoài vào đời sống văn
hóa, xã hội của người Việt Nam được cả thế giới tổ chức như ngày quốc tế lao
động 1/5.
- Lễ hội mang tính quốc gia: Lễ hội phản ánh các sự kiện lịch sử, nhân vật
anh hùng ảnh hưởng sâu sắc đén dân tộc Việt Nam như lễ h.ội đền Hùng.
- Lễ hội mang tính vùng miền: lễ hội mà mang nét đặc trưng riêng của vùng
miền đs, có sự tham gia đông đảo của người dân trong vùng miền đó như lễ hội
Phủ Giày 3/3.
- Lễ hội làng: Lễ hội thường được tổ chức trong tầng lớp dân cư, nội dung
phong phú và đa dạng.
Căn cứ vào mục đích thờ cúng
- Lễ hội gắn với hoạt động sản xuất: Việt Nam là một nước có nền nông
nghiệp phát triển gắn bó lâu dài với người dân. Các lễ hội thường cầu mong mùa
màng bội thu, người an vật thịnh...
- Lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc,vị thành hoàng, chư vị thần linh,giúp
dân hướng thiện.
- Lễ hội liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo:
+ Lễ hội thờ cúng tỏ tiên như lễ hội đền hung lớn nhất nước ta, lễ hội thành
hoàng, thổ thần...
15
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


+ Lễ hội của tín ngưỡng phồn thực: Tín ngưỡng tôn thờ những hiện vật biểu
trưng sinh thực khí âm dương.
+ Lễ hội Kitô giáo: Đây là những nghi lễ sinh hoạt tôn giáo ở bát kỳ giáo xứ
nào như lễ phục sinh...

+ Lễ hội Phật Giáo: Phật giáo du nhập sớm vào Việt Nam anhr hưởng sâu
sắc nhất như lễ hội Vu lan báo hiếu(15/7 âm lịch)
1.1.3 Cấu trúc lễ hội
1.1.3.1 Lễ hội truyền thống
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của
người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam
từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện
thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng
thiêng, được định danh là những vị “Thần” - những người có thật trong lịch sử
dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất
cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những
người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi với
thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền
thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn
cuộc sống hạnh phúc...
Phần lễ là phần thiêng liêng, gắn với sự tích, quyền năng mối quan hệ giữa
thần và người.
Lễ hội truyền thống là các lễ hội được hình thành từ trước Cách mạng tháng
tám năm 1945, trong lễ hội truyền thống, các lễ hội dù lớn hay nhỏ đều có phần
nghi lễ với những nghi thức nghiêm túc, trọng thể mở đầu ngày hội theo thời gian
và không gian.
Lễ hội truyền thống bao gồm: phần lễ và phần hội.
Phần lễ: Lễ là tổng thể nghi thức thể chế hóa trật tự, gắn với sự tích, quyền
năng của thần, diễn đạt mối quan hệ của Người và Thần. Lễ cơ bản là linh thiêng.
Nghi lễ là những nghi thức tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất định mang
tính biểu trưng để đánh dấu, kỷ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó nhằm mục
đích cảm tạ, tôn vinh ước nguyện về sự kiện nhân vật đó với mong muốn nhận
16
SVTH: Nguyễn Thục Trinh


Lớp: K49-KTDL


được sự may mắn tốt lành. Phần lễ tiến hành theo một trật tự gần như thống nhất;
cáo, hiến tế, cầu xin, tạ ơn. Lễ đơn giản diễn ra trong thần điện, đa số các lễ hội đền,
hội chùa, đình nước ta tiến hành lễ đơn giản. Lễ mở rộng ra ngoài thần điện với đám
rước, diễn xướng. Tùy theo tính chất của lễ hội mà phần lễ sẽ mang sắc thái riêng,
phần lễ là một hệ thống liên kết có trật tự cùng hỗ trợ nhau: Lễ rước nước, lễ mộc
dục, lễ gia quan, lễ rước, đám rước, lễ đại tế, lễ túc trực, lễ hèm, lễ rã đám.
Phần hội: Hội là những cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự,
theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt. Hội là đời thường diễn ra bên ngoài thần
điện và mở rộng ra tất cả vùng miền, cộng đồng, đến từng gia đình, diễn ra trong
thời gian lễ sau đó. Hội là phần của những trò chơi dân gian, diễn xướng vui
chơi, tất cả mọi người đều có tham gia vì nó được mô phỏng theo những động tác
lao động hằng ngày như đấu vật, đánh đu, chơi cờ, hát đối... Hội cơ bản là đem
lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên trong việc tổ chức và mục đích của hội là
để vui chơi thỏa thích, thoải mái. Phần hội thường gắn liền với tình yêu, giao
duyên nam nữ nên rất có phong vị tình. Hội không bị ràng buộc bởi lễ nghi tôn
giáo, đẳng cấp và tuổi tác. Con người đến với hội trong tình thần cộng cảm, hồ
hởi, sảng khoái và hoàn toàn tự nguyện. Thật vậy, lễ hội là cuộc đời thứ hai bên
cạnh cuộc đời thực; là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của
cộng đồng, là sự lý tưởng hóa khát vọng cuộc đời. Lễ hội diễn ra có sức hấp dẫn
lạ kỳ, con người hòa với thiên nhiên, với đất trời, cảm thấy cuộc sống này thật
tươi đẹp biết nhường nào.
1.1.3.2. Lễ hội hiện đại
Lễ hội hiện đại là một sinh hoạt văn hóa đồng thời là một sinh hoạt chính trị
rộng khắp chứa đựng những giá trị hiện sinh đồng thời phản ánh trình độ điều
kiện và xu hướng phát triển của xã hội ở vào thời điểm diễn ra lễ hội. Lễ hội hiện
đại chỉ ra đời từ sau năm 1945.
Lễ hội hiện đại thường là những hoạt động mang ý nghĩa xã hội có liên

quan đến các sự kiện chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội như các hoạt động chào
mừng những sự kiện nào đó, lễ khai mạc, lễ bế mạc các sự kiện quan trọng gắn
với một tổ chức hay rộng hơn trên phạm vi quốc gia - dân tộc. Lễ hội hiện đại
17
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


bao gồm: “Lễ hội du lịch”, “Lễ hội văn hóa - Thể thao - Du lịch”, “Lễ hội du lịch
- Thương mại”, “Liên hoan du lịch”, “Hội chợ triển lãm”, “Festival”... Lễ hội
hiện đại có thể diễn ra định kỳ ngày tháng trong năm, hoặc theo định kỳ năm
chẵn hoặc năm lẻ. Lễ hội hiện đại thường diễn ra trong thời gian ngắn, trừ các
hội chợ xuân, hội chợ triển lãm, liên hoan du lịch...
Không gian của lễ hội hiện đại thường diễn ra ở các trung tâm đô thị, thủ đô
và các thành phố lớn của đất nước. Trong lễ hội hiện đại có sử dụng các thành kỹ
thuật, các yếu tố cấu thành của đời sống hiện đại như nghi thức, phương tiện âm
thanh, hình ảnh, ánh sáng, trang phục...
Lễ hội hiện đại thường được truyền thông, truyền hình rộng rãi, nhanh
chóng và đầy đủ, chi tiết các hoạt động của lễ hội. Các phương tiện truyền thông
như Radiô, truyền hinh, báo in, báo điện tử... các phương tiện truyền thông hiện
đại tường thuật trực tiếp qua làn sóng điện.
Lễ hội hiện đại thường diễn ra do các cơ quan chính quyền, đoàn thể tổ
chức. Thường gắn với một cơ quan đoàn thể vào thời điểm nào đó có ý nghĩa với
sự ra đời tồn tại và phát triển của cơ quan tổ chức đó. Đội ngũ đại biểu, quan
chức, quan khách tham dự lễ hội thường được bố trí ở một khu vực dành riêng
như lễ đài, khán đài
Trình tự và nội dung khái quát trong lễ hội hiện đại có thể là:
1. Rước lửa truyền thống.
2. Rước cờ tổ quốc, cờ hội, cờ thể thao

3. Các nghi thức như: Chào cờ, Quốc ca, Quốc tế ca (nếu có).
4. Lễ dâng hương
5. Diễn văn/Chúc văn khai mạc
6. Đại biểu phát biểu ý kiến
7. Duyệt/Diễu binh, diễu hành, biểu dương lực lượng
8. Tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật tập thể
9. Bắn pháo hoa, thả đèn trời, thả bóng, thả chim bồ câu…
10. Các nghi thức và các hoạt động khác.

Tóm lại, dù là lễ hội truyền thống hay lễ hội hiện đại thì vẫn luôn mang
trong mình một nhiệm vụ, đó là giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp
của dân tộc mình nói riêng và tinh hoa nhân loại nói chung, tiếp thu các thành tựu
18
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


của khoa học và kỹ thuật để xây dựng một nền văn hóa với bản sắc dân tộc riêng,
vị thế riêng trong thời kỳ mới.
1.1.4. Một số đặc điểm của lễ hội.
* Tính thiêng:
Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang
tính “thiếng” nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã xuống
mảnh đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh hùng
bỗng dưng hiển thánh bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ song, nơi có một
xác người chết đuối, đang trôi bỗng nhiên dừng lại, không trôi nữa; dân vớt lên,
chôn cất thờ phụng… Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm ngày sinh, ngày
mất của một người có công với làng với nước, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác
(có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có người trị thủy,

có người đánh giặc…). Song, những người đó bao giờ cũng được “thiên hóa”, đã
trở thành “Thần thánh” trong tâm trí của người dân.
Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ có
thể phù hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa bệnh,
làm nghề, sản xuất, đánh giặc… mà còn có thể giúp họ vượt qua những khó khan
đa dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống. Chính tính “Thiêng” ấy đã trở thành chỗ
dựa tinh thần cho nhân dân trong những thời điểm khó khan, cũng như tạo cho họ
những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.

* Tính cộng đồng:
Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự
nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi
thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước.
* Tính địa phương:
Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế
lễ hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của lễ hội chính là
điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng
19
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


những nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung lễ hội
mà còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang
phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng…
* Tính cung đình:
Đa phần các nhân vật được suy tôn thành thần linh trong các lễ hội của
người Việt, là các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa. Bởi thế
những nghi thức diễn ra trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu… đều

mô phỏng sinh hoạt cung đình. Sự mô phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang
phục, động tác đi lại… Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy
hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm thấy được
nâng lên một vị trí khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những khao khát
nguyện vọng của người dân.
* Tính đương đại:
Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch
sử, cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới, những
cách bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như radio, cassete, video, tăng
âm, micro… đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được thuận lợi
hơn, đáp ứng nhu cầu mới.
Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện
của nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp ghép tùy tiện,
vô lý…
1.1.5. Vai trò, chức năng của lễ hội
Có thể nói, lễ hội Việt Nam đã trải qua nhiều biến thiên lịch sử và vẫn đang
tồn tại bền vững trong xã hội hiện đại là vì lễ hội có vai trò, chức năng vô cùng
quan trọng đối với đời sống con người, và chính điều đó làm nên sự tồn tại vững
bền qua thời gian của di sản văn hóa này.
Thứ nhất, lễ hội thực hiện chức năng liên kết cộng đồng, dù dưới hình thức
nào lễ hội truyền thống vẫn là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân, là “cuộc
vui chơi đông người” được tổ chức sau thời gian lao động, sản xuất hay nhân dịp
20
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


kỷ niệm một sự kiện xã hội quan trọng liên quan đến sự tồn tại của một cộng
đồng hoặc để quần chúng tìm đến một cái gì đó. Ta thấy hầu như toàn bộ lễ hội

truyền thống nào cũng đều phản ánh chức năng này, từ lễ hội Chùa Hương (Hà
tây), lễ hội Nghinh Ông (Bình Thuận) đến lễ hội Bà Chúa Xứ (An Giang)…
Thứ hai, lễ hội có chức năng phản ánh, bảo lưu và truyền bá các giá trị văn
hóa truyền thống, thể hiện ở sự ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống đã qua
(như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Gióng…).
Thứ ba, lễ hội còn thể hiện chức năng đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần, tâm
linh, giải quyết những khát khao, những ước mơ của cộng đồng các dân tộc ở địa
phương như lễ hội Dinh Thầy Thím, Cầu Ngư (Bình Thuận), Chùa Bà (Bình Dương),
Núi Bà Đen (Tây Ninh)…Thông qua đó, lễ hội tạo cho con người niềm lạc quan yêu
đời, yêu chân lý, trọng cái thiện và làm cho tâm hồn, nhân cách mỗi con người như
được sưởi ấm tình nhân đạo, làm cho đời sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.
Thứ tư, lễ hội còn có vai trò tạo môi trường hưởng thụ và giải trí. Đến với
lễ hội mọi người được “hòa nhập” hết mình trong các hoạt động của lễ hội, được
“hóa thân” đóng một vai trong hội hay “nhập thân” vào một trò chơi. Trong lễ
hội, người dân không chỉ hưởng thụ mà còn là người sáng tạo văn hóa, là chủ
nhân thực sự trong đời sống văn hóa của chính bản thân mình.
Hiện nay do phát huy tốt vai trò, chức năng nêu trên, các lễ hội đã tiếp tục
thu hút được hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn quần chúng nhân dân tham gia,
tạo nên một không khí náo nhiệt, hào hứng giữa đời sống lao động sản xuất của
nhân dân. Chiều sâu của tinh thần lễ hội truyền thống là bảo lưu cội nguồn, là thứ
vũ khí tư tưởng rất sắc bén cho mọi thời đại của mỗi dân tộc; do đó, thực hiện tốt
các chức năng của lễ hội truyền thống là góp phần giáo dục truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, làm lành mạnh, phong phú đời sống tinh thần của xã hội.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH LỄ HỘI
1.2.1. Khái niệm du lịch lễ hội
Các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam như giáo sư Trần Quốc Vượng, giáo
sư Trần Ngọc Thêm khi nhắc đến văn hóa Việt Nam đều nhắc đến làng quê Việt.
Đó là những xã hội thu nhỏ của người Việt, là nơi sinh trưởng, phát triển, lưu
21
SVTH: Nguyễn Thục Trinh


Lớp: K49-KTDL


giữa và trao truyền những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc đến từng cá thể
trong cộng đồng và tới thế hệ tương lai. Trong các xã hội làng xã Việt Nam ngày
ấy, lễ hội luôn có một vai trò vô cùng quan trọng. Bởi trong các lễ hội, lịch sử,
nguồn gốc, khát vọng, ước mơ, những nét tinh túy hồn Việt, của nền văn hóa lúa
nước được phác họa một cách chân thực nhất, cô đọng nhất. Việt Nam có nhiều
lễ hội, quy mô của các lễ hội tùy thuộc vào từng vùng và từng tính chất lễ hội.
Du khách khi tham gia lễ hội có thể hiểu về văn hóa con người nơi tổ chức
xã hội, hiểu về đời sống tinh thần phong phú của họ. Như vậy, lễ hội là dạng tài
nguyên du lịch nhân văn độc đáo.
Dựa vào các lý luận về văn hóa, du lịch văn hóa và lễ hội, ta có thể khẳng
định du lịch lễ hội thuộc về du lịch văn hóa. Du lịch lễ hội được hiểu là hoạt
động của con người đến nơi tổ chức lễ hội để được tiếp xúc trực tiếp, được tham
quan tìm hiểu, trải nghiệm, và vui chơi giải trí ở lễ hội trong một khoảng thời
gian xác định.
Du lịch lễ hội tức là lấy lễ hội làm điểm tựa, hoạt động du lịch lễ hội góp
phần tôn vinh, bảo vệ bản sắc văn hóa của lễ hội, giữ gìn và phát triển lễ hội.
Theo Trịnh Lê Anh và Nguyễn Thu Thủy trường Đại Học KHXH và NV Hà
Nội: “ Du lịch lễ hội là loại hình du lịch trong đó du khách thực hiện chuyến đi vì
mục đích tham quan, tham gia vào các lễ hội tại điểm đến.Ở đây, lễ hội là yếu tố
hấp dẫn dặc biệt lôi kéo du khách từ phương xa đến”.
Du lịch lễ hội nghĩa là lấy các sự kiện làm sức hút du khách, làm chất xúc
tác phát triển không chỉ cho ngành du lịch trong cơ cấu kinh tế địa phương và
quốc gia tổ chức, làm công cụ xây dựng hình ảnh cho điểm đến.
Du lịch lễ hội là loại hình du lịch, mục tiêu là đi du lịch đến với các lễ hội
của địa phương, tham gia vào các lễ hội được tổ chức tại một địa danh nổi tiếng
nào đó. Qua dó, nâng cao hiểu biết về văn hóa, tăng cường mở rộng mối quan hệ

giao tiếp.
1.2.2. Đặc điểm du lịch lễ hội
Khác với loại hình du lịch thiên nhiên, du lịch thể thao, du lịch giải trí … du
lịch lễ hội có các đặc điểm cơ bản sau:
22
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


- Du lịch lễ hội thường gắn với không gian thời gian và địa điểm nhất định.
Chẳng hạn lễ hội Đền Hùng chỉ diễn ra 1 lần vào dịp 10/3 âm lịch hàng năm tại
tỉnh Phú Thọ, lễ hội khai ấn Đền Trần vào đêm 14 rạng sáng 15 tháng Giêng âm
lịch tại tỉnh Nam Định, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn chỉ diễn ra 1 lần vào ngày 9/8
hàng năm tại Đồ Sơn, Hải Phòng…. Do vậy, việc tổ chức các hoạt động lễ hội
phải nắm chắc thời gian, địa điểm và các hoạt động văn hóa đặc trưng, các nội
dung chính của lễ hội để khai thác đúng hướng và hiệu quả. Thời gian, không
gian thiêng và tính chất thiêng của lễ hội sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút
khách du lịch. Bởi vì nếu các yếu tố này được “thiêng hóa” khách du lịch sẽ tri
giác được cái “linh thiêng” của lễ hội, nó có sức mạnh tinh thần to lớn, là niềm
tin thiêng liêng để lôi cuốn con người trở về với quê hương cội nguồn. Đây chính
là một đặc điểm riêng biệt của du lịch lễ hội mà loại hình du lịch nào có được.
- Du lịch lễ hội mang tính mùa vụ. Do du lịch lễ hội luôn gắn với thời gian
mở hội nên thường diễn ra theo mùa vụ. Các lễ hội ở Việt Nam được tổ chức chủ
yếu vào mùa xuân, một số ít lễ hội tổ chức vào mùa thu. Do vậy, yếu tố mùa vụ
của lễ hội sẽ chi phối lớn đến các thiết chế phục vụ hoạt động du lịch lễ hội như
hệ thống tài nguyên du lịch, quy hoạch tuyến du lịch, điểm du lịch, các hoạt động
dịch vụ, các cơ sở lưu trú, các chương trình du lịch … cũng phải tuân theo các
yếu tố mùa vụ. Do vậy, việc chuẩn bị các yếu tố phục vụ các hoạt động du lịch lễ
hội phải có sự sắp xếp khá chu đáo và khoa học. Nếu không có sự chuẩn bị trước

(từ cơ sở vật chất, các dịch vụ, công tác tổ chức lễ hội…) sẽ dẫn đến không đáp
ứng nhu cầu du khách hoặc xảy ra tình trạng quá tải do lượng du khách tăng đột
biến so với những ngày thường.
- Du lịch lễ hội là một hoạt động văn hóa sâu sắc vừa mang ý nghĩa lịch sử
vừa có giá trị nghệ thuật độc đáo. Bản sắc của du lịch là văn hóa do vậy bản sắc
văn hóa của từng vùng, từng địa phương, tộc người là một khía cạnh cần được
khai thác, nghiên cứu trong phát triển du lịch. Sự phong phú và sâu sắc về văn
hóa của hoạt động du lịch lễ hội thể hiện ngay trong nội dung, hình thức và cách
tổ chức của lễ hội. Bên cạnh đó, lễ hội còn là sản phẩm của lịch sử, do đó nó
phản ánh lịch sử bằng hình ảnh, sự kiện mang tính nghệ thuật hóa, biểu tượng
23
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


hóa. Điểm đến du lịch với những lễ hội càng đặc trưng bao nhiêu, càng khác lạ
bao nhiêu về phong tục tập quán, lịch sử, ngôn ngữ, tín ngưỡng và các giá trị
cuộc sống… thì càng hấp dẫn du khách bấy nhiêu.
- Du lịch lễ hội có quan hệ chặt chẽ với hệ thống các di tích và các công
trình kiến trúc nghệ thuật. Di tích và lễ hội chính là nguyên liệu gốc sản sinh ra
các điểm đến du lịch trong đó lễ hội và hệ thống di tích thường gắn kết chặt chẽ
với nhau. Các hệ thống kiến trúc của Đình, Đền, Chùa, các di tích lịch sử gắn với
các sự kiện, các nhân vật thờ tự là phần vật thể. Còn lễ hội tại các di tích ấy mới
là phần hồn, phần phi vật thể chứa đựng giá trị văn hóa lịch sử. Chẳng hạn lễ hội
Đền Hùng và hệ thống di tích lịch sử tại đền Hùng, lễ hội Đền Trần và các di tích
Đền Trần… đang là điểm hấp dẫn thu hút đông đảo du khách hàng năm. Do vậy
để phát triển tốt du lịch lễ hội thì bên cạnh việc bảo tồn các giá trị văn hóa lễ hội
truyền thống cũng cần bảo tồn các di tích đảm bảo tính nguyên bản của nó.
1.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH LỄ HỘI

VÀ LỄ HỘI TÂM LINH
1.3.1. Phát triển bền vững du lịch lễ hội
Phát triển bền vững du lịch lễ hội là việc đáp ứng nhu cầu tham quan và
tham gia vào lễ hội của du khách thập phương, là việc làm thế nào để lượng
khách du lịch đến với lễ hội ngày một tăng cao mang lại hiệu quả kinh tế cho
ngành du lịch nhưng vẫn phải đảm bảo tiêu chí bảo tồn, gìn giữ và phát huy
những giá trị văn hóa tốt đẹp của các lễ hội và tuân thủ theo quan điểm phát triển
bền vững của ngành du lịch.
Để lễ hội trở thành nguồn lực bền vững cho phát triển du lịch thì phải giữ
được tính đa dạng: đa dạng loại hình, đa dạng nghi lễ, đa dạng các biểu đạt văn
hóa gắn với đặc thù của từng lễ hội, từng cộng đồng địa phương, có như vậy
khách du lịch mới có nhu cầu khám phá, trải nghiệm nhiều lễ hội khác nhau, ở
nhiều vùng, miền, địa phương khác nhau; nên hạn chế tối đa tình trạng phục hồi,
làm mới tràn lan lễ hội dân gian, đưa yếu tố mới vào một cách tùy tiện, không ăn

24
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


nhập, chạy theo hình thức; lễ hội dân gian vốn là của dân, nên trả về cho người
dân theo đúng nghĩa.
Lễ hội dân gian chỉ hấp dẫn khách du lịch khi đó là sản phẩm văn hóa của
người dân, do chính người dân sáng tạo, gìn giữ, thực hành và trao truyền. Có thể
thấy, các lễ hội bằng chính sự đa dạng, phong phú và đặc sắc của nó đã là một
nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch.
Song tự thân lễ hội khó có thể trở thành một sản phẩm du lịch hấp dẫn nếu
không có sự góp sức của những người làm du lịch và du lịch cũng khó có thể phát
triển được nếu thiếu điểm tựa là các giá trị văn hóa, trong đó có các lễ hội dân gian.

Điều này có nghĩa là những chủ nhân của lễ hội dân gian và những người
làm du lịch cần có sự gắn kết chặt chẽ trên cơ sở cả hai bên cùng có lợi và cùng
vì mục đích lâu dài, có như vậy thì nguồn lực lễ hội dân gian mới được vận hành
tốt trong phát triển du lịch.
Mục tiêu phát triển bền vững du lịch lễ hội
- Phát triển bền vững du lịch lễ hội nhằm góp phần phát triển kinh tế của địa
phương nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh du lịch lễ hội.
- Phát triển bền du lịch lễ hội nhằm góp phần phổ biến rộng rãi văn hóa của
từng địa phương tới mọi miền đất nước. Thông qua các chuyến du lịch lễ hội,
được tận mắt chứng kiến và nghe thuyết minh về các hoạt động trong lễ hội, kết
hợp với việc tham gia vào các trò chơi trong lễ hội, du khách có cơ hội hiểu biết
một cách tường tận thấu đáo các kiến thức liên quan đến lịch sử, văn hóa, tôn
giáo, phong tục, tập quán của người dân các địa phương nơi du khách có dịp ghé
thăm. Có thể khẳng định rằng những chuyến du lịch đó chính là các bài học thực
tế, bù đắp cho phần thiếu hụt trong các bài giảng lý thuyết tại các trường học hay
trong các sách báo tạp chí.
- Thông qua việc phát triển các hoạt động du lịch lễ hội, mỗi địa phương,
mỗi quốc gia có thể truyền bá một cách hiệu quả văn hóa dân tộc ra thế giới, góp
phần tạo ra sự giao thoa, đan xen văn hóa, làm giàu kho tàng truyền thống của
25
SVTH: Nguyễn Thục Trinh

Lớp: K49-KTDL


×