Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch huyện Côn Đảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH



Lê Thò Lợi




NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU
LỊCH HUYỆN CÔN ĐẢO (TỈNH BÀ RỊA –
VŨNG TÀU)



Chuyên ngành: Đòa Lý Học
Mã số: 60 31 95


LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS PHẠM XUÂN HẬU







Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CÁM ƠN

Sau hơn ba năm học tập, nghiên cứu khoa học tại phòng Khoa học – Công nghệ và Sau Đại Học trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, nay luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Địa Lý học với đề tài:
“NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH HUYỆN CÔN ĐẢO (TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU)
hoàn thành; tác giả xin trân trọng cám ơn:
Các thầy cô giáo khoa Địa Lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, trang
bị cho em nhiều kiến thức về lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học trong suốt 3 năm học giúp em có đủ
kiến thức và sự tự tin để nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Thầy Phạm Xuân Hậu – Viện trưởng Viện Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh đã hướng dẫn tận tình cho em
từ khâu xác định đề tài, sửa chữa đề cương nghiên cứu đến cách thiết kế các bảng số liệu…Bên cạnh đó thầy
có nhiều ý tưởng giúp em giải quyết được nhiều khúc mắc và phát hiện ra hướng phát triển luận văn của mình;
thầy đã hiểu, thông cảm và chia sẻ với em rất nhiều giúp em vượt qua khó khăn để hoàn thành luận văn – em
xin cám ơn thầy một lần nữa!
Thạc sĩ Lê Xuân Aí – giám đốc Vườn quốc gia Côn Đảo đã cung cấp cho em rất nhiều kiến thức về Côn
Đảo; tư vấn cho em các giải pháp quý báu về phát triển bền vững du lịch Côn Đảo.
Các Thầy, cô và các anh chị phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Ban giám hiệu trường Đại học Hồng Bàng, trường THPT Tân Bình, giới thiệu và tạo điều kiện thuận lợi để
tôi được yên tâm học tập tốt.
Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, phòng du lịch huyện Côn Đảo, phòng kinh tế và Vườn quốc gia Côn
Đảo đã cung cấp cho tôi những tài liệu quý báu phục vụ luận văn.
Gia đình, bạn bè đã động viên khích lệ tôi trong suốt khóa học và nghiên cứu.
Do giới hạn về thời gian, tài liệu, trình độ, những khó khăn khách quan và chủ quan khác luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn!

Lê Thị Lợi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


DLBV : Du lịch bền vững
GDP : Tổng thu nhập quốc dân
PGS.TS : Phó giáo sư tiến sĩ
IUCN : Qũy bảo tồn thiên nhiên
UNWTO : Tổ chức Du lịch thế giới
WTTC : Hiệp hội lữ hành quốc tế
WCED : Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới
VNAT : Ủy ban Kinh tế Trung ương
UBND : Ủy ban Nhân dân



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những thập niên gần đây, du lịch - ngành công nghiệp không khói có tốc độ phát triển
cực nhanh trên toàn thế giới. Nó trở thành nguồn thu hút ngoại tệ lớn của nhiều nước, đặc biệt là các
nước đang phát triển.
Ngày nay, du lịch trở thành nhu cầu thiết thực không thể thiếu trong cuộc sống của con người
khi mà: cuộc sống vất chất của họ ngày càng được nâng cao; thời gian nhàn rỗi nhiều hơn do c
hính
sách điều chỉnh về lao động của chính phủ các nước; xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã tạo
điều kiện cho việc vượt ranh giới các quốc gia dễ dàng hơn; đời sống đô thị đầy tiếng ồn, bụi bặm và
sự căng thẳng trong công việc…đã làm xuất hiện nhu cầu được hưởng thụ, giải trí đồng thời nâng cao
hiểu biết của m
ình về lịch sử, văn hoá của các dân tộc trên thế giới, sự kỳ bí của thiện nhiên… Vì thế,
con người đến với du lịch ngày càng nhiều.
Theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) và Hiệp hội lữ hành quốc tế (WTTC),
năm 2000 thu nhập của ngành du lịch chiếm tới 10,7%GDP của toàn thế giới; năm 2006 là 11,5%. Tổ
chức Du lịch thế giới nhận định rằng, số khác

h du lịch quốc tế năm 2005 là 720 triệu lượt người thì đến
năm 2010 sẽ là 1100 triệu lượt người và năm 2020 sẽ là 1600 triệu lượt người. (nguồn:
www.worldtourism.org).
Ngành du lịch đại diện cho một trong năm lĩnh vực xuất khẩu lớn nhất cho 83% quốc gia và là
nguồn ngoại tệ chính cho 38% quốc gia trên thế giới (Conservation International 2003).
Ngành du lịch và lữ hành hỗ trợ 200 triệu công việc trên toàn thế giới. Đến 2010, dự kiến số
công việc được hỗ trợ từ ngành nà
y sẽ tăng lên 250 triệu (WTTC and WEFA, 2000).
Cùng với sự phát triển của du lịch thế giới, ngành du lịch Việt Nam ngày càng được quan tâm
và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước: năm 2008, Việt Nam đã đón được 4,2 triệu lượt
khách quốc tế và 20 triệu lượt khách nội địa, doanh thu đạt 60 tỉ đồng(Theo Báo cáo Tổng kết công tác
2008 của TCDL). Dự báo năm 2010, nước ta sẽ đón 5,
5 - 6 triệu lượt du khách quốc tế và 25 -26 triệu
lượt khách du lịch nội địa; thu nhập từ du lịch sẽ đạt 4 - 4,5 tỉ đô la Mĩ (nguồn: chiến lược phát triển du
lịch Việt Nam 2001 - 2010, tạp chí du lịch Việt Nam, 8/2002).
Tuy nhiên, hơn bất cứ hoạt động nào khác, ngành du lịch rất phụ thuộc vào chất lượng của môi
trường, tài nguyên thiên nhiên cũng như tài nguyên nhân văn. Nhưng du lịch lại m
ang đặc tính phát
triển nhanh, ngắn hạn và "bùng nổ" - đặc biệt ở các nước đang phát triển, làm tổn hại đến tài sản của
chính mình: sự phá huỷ, xuống cấp nghiêm trọng tài nguyên du lịch; môi trường bị suy thoái và tác
động tiêu cực đến các hoạt động kinh tế - xã hội khác. Vậy "Làm thế nào để ngành du lịch được phát
triển bền vững?" là câu hỏi đã được đặt ra và thu hút sự quan tâm của những người làm du lịch của tất
cả các nước trên thế giới.
Bản thân là công dân của một nước có tiềm năng lớn về du lịch nhưng chưa được khai thác bao
nhiêu; lại được học về Địa lý Du lịch, tôi hiểu vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời cùng trăn trở với những người làm du lịch trước câu hỏi
"Làm thế nào để ngành Du lịch được phát triển bền vững?" bởi một số nơi có tiềm năng du lịch lớn ở
nước ta khai thác chưa hiệu quả,
mang nặng tính tự phát và có nguy cơ xuống cấp nghiêm trọng. Là
người làm công tác giáo dục bộ môn Địa lý trong đó có Địa lý Du lịch , tôi tự hỏi có bao nhiêu người

(kể cả những người trực tiếp tham gia hoạt động Du lịch) hiểu được "Thế nào là Du lịch bền vững?",
"Các nguyên tắc phát triển bền vững Du lịch là gì?" và “Làm thế nào để phát triển bền vững Du
lịch?”. Để củng cố lý thuyết về phát triển bền vững Du lịch trong một phạm vi không gian nhất định;
đồng thời góp phần nhỏ trong việc nghiê
n cứu sự phát triển bền vững du lịch quê hương Côn Đảo - nơi
được thế giới biết đến với cái tên "địa ngục trần gian", với hệ sinh thái tự nhiên rừng - biển đa dạng
hầu như còn nguyên vẹn thuộc diện bảo tồn, chưa chịu tác động của các ngành kinh tế khác và là nơi
đáp ứng đư
ợc xu thế du lịch hiện đại của thế giới: Du lịch Sinh thái, tôi chọn:"NGHIÊN CỨU PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH Ở HUYỆN CÔN ĐẢO (TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU)"làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Địa lý học của m
ình.
Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Phạm Xuân Hậu - Viện
trưởng Viện giáo dục thành phố Hồ Chí Minh, sự đóng góp ý kiến quý báu của thạc sĩ Lê Xuân Ái -
giám đốc Vườn quốc gia Côn Đảo và sự giúp đỡ nhiệt tình của phòng du lịch huyện Côn Đảo, phòng
Du lịch Vườn quốc gia Côn Đảo. Tôi xin chân thành tri ân.
Đây là công trình nghiên cứu khoa học về Du lịch bền vững dưới góc nhìn của người làm công
tác giáo dục nên chắc chắn có nhiều thiếu sót
, rất mong sự đóng góp ý kiến của quý vị.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và ý nghĩa của đề tài
2.1. Mục tiêu:
-
Xác lập cơ sở khoa học nghiên cứu sự phát triển bền vững du lịch.
-
Thấy được tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch của huyện Côn Đảo.
-
Xây dựng định hướng và giải pháp phát triển bền vững du lịch Côn Đảo đáp ứng nhu cầu trong
thời kỳ mới.
2.2. Nhiệm vụ:
-

Nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến phát triển bền vững du lịch.
-
Phân tích, đánh giá sự tác động của các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội đến ngành Du lịch
huyện Côn Đảo.
-
Điều tra thực trạng hoạt động Du lịch huyện Côn Đảo từ năm 1996 - 2007.
-
Đánh giá tính bền vững của ngành du lịch huyện Côn Đảo và lợi thế so sánh du lịch địa phương
với các địa phương khác trong tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
-
Dựa vào đặc điểm tài nguyên và các điều kiện liên quan, đưa ra các định hướng và giải pháp
phát triển bền vững du lịch huyện Côn Đảo.
2.3. Ý nghĩa của đề tài:
-
Củng cố lý thuyết về phát triển bền vững du lịch.
-
Xây dựng cơ sở lý thuyết phát triển bền vững du lịch cho huyện Côn Đảo.
-
Hiểu đúng khái niệm “phát triển bền vững” để đưa ra định hướng và giải pháp hợp lý.
3. Lịch sử nghiên cứu:
Cho tới nay, chưa có một báo cáo quy hoạch hay chiến lược nào để định hướng phát triển bền
vững cho du lịch Côn Đảo. Năm 2004, Ủy ban Kinh tế Trung ương triển khai dự án “Phát triển Côn
Đảo”, và VNAT cũng hoàn thành báo cáo “Định hướng Phát triển Du lịch Côn Đảo”. Những tài liệu
này đánh giá sơ bộ về tiềm năng du lịch của C
ôn Đảo, đồng thời tổng kết về tình hình hoạt động du
lịch của huyện. Những vấn đề được quan tâm bao gồm “huy động sức lực” để phát triển du lịch cùng
với việc quan tâm tới nguồn tài nguyên đất và nước trên quần đảo. Những báo cáo này cũng đưa ra
những giải pháp cho việc phát triển du lịch cũng như khẳng định quy hoạch du lịch đóng vai trò then
chốt
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài:

-
Nội dung nghiên cứu:

Cơ sở lý luận về phát triển bền vững du lịch

Nghiên cứu tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch của huyện Côn Đảo.

Định hướng và giải pháp phát triển bền vững du lịch huyện Côn Đảo.
-
Thời gian: từ năm 1996 đến năm 2007
-
Không gian: toàn huyện Côn Đảo.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
5.1.1. Quan điểm và chính sách sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước:
Nghị quyết Đại hội Trung ương Đảng lần thứ IX và X đều khẳng định phát triển du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn. Mục tiêu phấn đấu của nhà nước là dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh. Đồng thời Nhà nước cũng có những chính sách phát triển du lịch thể hiện trong điều 6,

chương I - Luật Du Lịch Việt Nam (năm 2005) như sau:
-
Nhà nước có cơ chế, chính sách huy động mọi năng lực, tăng đầu tư phát triển du lịch để đảm
bảo du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
-
Nhà nước có chính sách khuyến khích, ưu đãi về đất đai, tài chính, tính dụng đối với các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực sau:

Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và môi trường du lịch.

Tuyên truyền, quảng bá du lịch.


Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.

Nghiên cứu, đầu tư xây dựng các sản phẩm du lịch.

Hiện đại hoá các hoạt động du lịch.

Xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; nhập khẩu phương tiện
cung cấp phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, trang thiết bị chuyên dùng
hiện đại cho cơ sở lưu trú du lịch hạng cao và du lịch quốc gia.

Phát triển du lịch tại nơi có tiềm năng du lịch ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhằm sử dụng lao động, hàng hoá và dịch vụ tại chỗ,
góp phần nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo.
-
Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác quy hoạch; hỗ trợ dân trí, xây dựng kết cấu hạ tầng đô
thị du lịch, khu du lịch, điểm du lịch; hỗ trợ công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, bảo vệ tôn
tạo tài nguyên và môi trường du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ, đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực du lịch.
-
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
vào Việt Nam đi du lịch trong nước và nước ngoài; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
khách du lịch.
5.1.2. Quan điểm hệ thống lãnh thổ:
Phát triển du lịch ở bất kỳ cấp vùng hoặc trung tâm nào cũng phải là một phần cấu thành không
thể tách rời trong hệ thống du lịch chung của cả nước. Các hệ thống lãnh thổ du lịch thường tồn tại và
phát triển trong mối quan hệ qua lại nội tại của từng phân hệ, giữa các phân hệ du lịch trong một hệ
thống với nhau và các môi trường xung quanh, giữa các hệ thống lã
nh thổ du lịch cùng cấp và khác cấp,
giữa hệ thống lãnh tổ du lịch và hệ thống kinh tế - xã hội. Quan điểm hệ thống còn đặc biệt có ý nghĩa

trong quá trình nghiên cứu các hệ sinh thái đặc thù với sự phâ
n hoá theo lãnh thổ từ cấp quốc gia đến
cấp vùng và điểm. Mặc khác, các đối tượng nghiên cứu của sinh thái cần được xác định trên một lãnh
thổ để phân tích, nghiên cứu tìm ra những sự khác biệt và mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
5.1.3. Quan điểm phát triển du lịch bền vững:
Phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của toàn nhâ
n loại trong thế
kỷ XXI. Phát triển du lịch bền vững trở thành xu hướng và mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch
của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Vì vậy quan điểm
phát triển này cần được soi sáng, vận dụng trong việc tổ chức quản lý, triển khai đánh giá các hoạt
động du lịch trong nghiên cứu phát triển du lịch.
5.1.4. Quan điểm tổng
hợp:
Quan điểm tổng hợp là quan điểm truyền thống của địa lý học nói riêng và nghiên cứu tự nhiên
nói chung được xét dưới hai góc độ khác nhau:
-
Nghiên cứu đồng bộ toàn diện về các điều kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch đứng từ góc độ tự
nhiên và nhân văn, các yếu tố kinh tế, sự phân bố, quy luật phân bố và biến động của chúng,
những mối quan hệ tương tác chế ngự lẫn nhau giữa các yếu tố hợp phần của các tổng thể địa lý.
-
Sự kết hợp, phối hợp có quy luật, có hệ thống trên cơ sở phân tích đồng bộ và toàn diện các yếu
tố hợp phần của các thể tổng hợp lãnh thổ du lịch, phát hiện và xác định những đặc điểm đặc thù
của các thể tổng hợp lãnh thổ địa lý.
5.1.5. Quan điểm môi trường – sinh thái:
Du lịch hiện nay đã thật sự trở thành một ngành kinh tế, mà hoạt động kinh tế rõ ràng phải tính
đến lợi ích và chi phí. Những lợi ích thu về tr
ong hoạt động du lịch không chỉ có ý nghĩa kinh tế và văn
hoá mà còn phải tính đến lợi ích về môi trường. Do đó phải tính đến những thiệt hại về môi trường, các
hệ sinh thái ở các điểm - tuyến du lịch do tác động của hoạt động du lịch. Điều này có ý nghĩa đặc biệt
đối với sự phát triển bền vững du lịch bởi sự tồn tại của loại hình du lịch này phụ thuộc hoà

n toàn vào
tình trạng của các hệ sinh thái và môi trường.
5.1.6. Quan điểm viễn cảnh - lịch sử: quan điểm này thể hiện ở chỗ:
-
Chú ý tới khía cạnh địa lý, lịch sử khi xác định tổ chức không gian du lịch trên phạm vi khu vực
và cả nước nói chung.
-
Phân tích quá trình hình thành và phát triển điểm - tuyến du lịch trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu:
5.2.1. Phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống:
Đây là phương pháp cơ bản được sử dụng phổ biến trong hầu hết các công trình nghiên cứu
khoa học. Phương pháp này được sử dụng đặc biệt có hiệu quả trong nghiên cứu tự nhiên và tổ chức
khai thác lãnh thổ du lịch. Phát triển bền vững có liên quan chặt chẽ tới các điều kiện tự nhiên, ki
nh tế -
xã hội; vì vậy, trong nghiên cứu đây là phương pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
5.2.2. Phương pháp điều tra thực địa và phỏng vấn:
Công tác thực địa có mục đích cơ bản là kiểm tra chỉnh lý và bổ sung những tư liệu về tài
nguyên, cơ sở hạ tầng phục vụ trực tiếp cho hoạt động du lịch và các tài liệu liên quan khác; đối chiếu
và lên danh mục cụ thể từng địa danh, thể loại liên quan du lịch và sơ bộ đánh giá các
yếu tố cần thiết
cho việc hình thành tổ chức không gian du lịch.
5.2.3. Phương pháp thống kê du lịch:
Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trính nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ
chặt chẽ với mặt chất của các hiện tượng và qúa trình , đối chiếu biến động, phát triển trong hoạt động
du lịch. Phương pháp này á
p dụng để thống kê các hệ sinh thái đặc thù, các tài nguyên du lịch quan
trọng và phụ trợ, thống kê hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch; thống kê đánh giá lượng khách;
đánh giá tỷ lệ doanh thu; tỷ trọng và mức tăng trưởng du lịch nói chung để đưa ra bức tranh chung về
hiện trạng.
5.2.4. Phương pháp bản đồ, biểu đồ:

Phương pháp này cho phép thu thập những nguồn thông tin mới phát hiện phân bố trong không
gian của các đối tượng nghiên cứu. Bản đồ còn là phương tiện để cụ thể hoá, biểu đạt kết quả nghiên
cứu về cấu trúc, đặc điểm và phân bố không gian của các đối tượng du lịch.
Đây là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiê
n cứu bất kỳ tổ chức không gian lãnh thổ du
lịch nào, đặc biệt là khi nghiên cơ sở khoa học cho sự phát triển bền vững du lịch nói chung và tổ chức
không gian hoạt động du lịch nói riêng.
Bản đồ được sử dụng chủ yếu theo hướng chuyên ngành với việc thể hiện sự phân bố lãnh thổ
của các khu bảo tồn thiên nhiên, các hệ sinh thái đặc t
hù, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ
thuật. Phương bản đồ sẽ đặc biệt có hiệu quả khi sử dụng công nghệ GIS (Geographic Information
System - hệ thông tin địa lý) để phân tích đánh giá tiềm năng du lịch căn cứ vào mức độ quan trọng và
phân hoá lãnh thổ của các tài nguyên và điều kiện có liên quan cũng như để phân tích phát hiện các
mối quan hệ trong tổ chức không gian du lịch.
5.2.
5. Phương pháp xã hội học:
Phương pháp này nhằm khảo sát đặc điểm xã hội của các đối tượng du lịch. Phương pháp này
dùng để lấy ý kiến của cộng đồng, du khách, các chuyên gia. Trong du lịch bền vững dùng để điều tra
về sức hấp dẫn của các điểm du lịch, tài nguyên du lịch, chất lượng dịch vụ, chất lượng nguồn nhân
lực…; điều tra thái độ nhận t
hức của dân cư đối với các vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch,
mức sống của họ…
Phương pháp điều tra xã hội học bao gồm các bước: xác định các vấn đề cần điều tra, thiết kế
bảng hỏi, lựa chọn khu vực và đối tượng để điều tra, thời gian tiến hành điều tra, xử lý các kết quả điều
tra.


5.2.
6. Phương pháp dự báo và phương pháp chuyên gia:
Đề tài nghiên cứu có nhiệm vụ rất quan trọng là xác lập cơ sở khoa học để tổ chức phát triển

bền vững du lịch của huyện Côn Đảo. Vì vậy phương pháp dự báo có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
nghiên cứu, tổ chức hướng khai thác xây dựng các điểm, tuyến du lịch; sử dụng tài nguyên du lịch một
cách hiệu quả. Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững du lịch là
dự bá
o về nguồn khách, cơ cấu khách và thị trường khai thác khách; dự báo về khả năng đầu tư, tôn tạo,
nâng cấp các điểm du lịch bổ trợ; dự báo về phát triển cơ sở hạ tầng, mức tăng trưởng và phát triển của
ngành du lịch.
Phương pháp chuyên gia nhằm thu thập những ý kiến đóng góp để đề tài mang tính khách quan,
đảm bảo kết quả của đề tài có giá trị khoa học và thực tiễn cao, vì vậy phương pháp này cũng hết sức
quan trọng trong quá trình nghiên cứu đề tài.



Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU
LỊCH

1.1. Một số khái niệm cơ bản:
1.1.1. Du lịch:
Du lịch xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người. Mỗi thời đại, quan niệm về Du lịch khác
nhau, buổi ban đầu thường đi kèm với hoạt động truyền giáo, buôn bán hoặc thám hiểm các vùng đất
mới. Việc cung ứng các dịch vụ cho du khách để thu lợi nhuận với mục tiêu ưu tiên hàng đầu là thương
mại hoá các sản phẩm Du lịch. Từ đó xuất hiện hì
nh thức Du lịch đầu tiên và tồn tại cho đến ngày nay
tạm gọi là Du lịch thương mại hay Du lịch ồ ạt.
Năm 1925, Hiệp hội Quốc tế các tổ chức Du lịch được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu bước
ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về Du lịch. Đầu tiên, Du lịch được hiểu là việc đi lại
của từng cá nhân họăc một nhóm
người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các
vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh.
Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong

thời gian nhàn rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên
nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức về văn hoá
hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiê
n, kinh tế và văn hoá.
Tháng 6/2005, Tổng cục Du lịch Việt Nam ban hành luật Du lịch (có hiệu lực từ 1.1.2006) và
đưa ra khái niệm: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoảng
thời gi
an nhất định.
UNWTO thì cho rằng: Du lịch theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di
chuyển vì mục đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này. Người đi Du
lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80 km trong khoảng thời gian 24
giờ với mục đích giải trí tiêu khiển .
Còn nhiều khái niệm khác nữa về Du lịch, song tôi cho rằng khái niệm về Du lịch của Tổng cục
Du lịch Việt Nam đầy đủ và ngắn gọn nhất.
1.1.
2. Sự phát triển bền vững:
Cụm từ "phát triển bền vững" có nguồn gốc từ thực tiễn quản lý rừng ở Đức vào thế kỷ XIX,
nhưng mãi đến thập niên 80 của thế kỷ XX mới được phổ biến rộng rãi.
Năm 1980, IUCN cho rằng: "phát triển bền vững phải cân nhắc đến việc khai thác các nguồn
tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến c
ác điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức
các kế hoạch hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau”.
Năm 1987, Uỷ ban Môi trường và phát triển thế giới WCED do bà Groharlem Brundtland thành
lập đã công bố thuật ngữ "phát triển bền vững" trong báo cáo "tương lai của chúng ta" như sau: “phát
triển bền vững được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh
hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của những thế hệ mai sau”.
Theo hội nghị thượng đỉnh về Tr
ái Đất năm 1992, được tổ chức Riodejaneiro thì: "phát triển
bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp giữa ba hệ thống là hệ tự nhiên, hệ

kinh tế và hệ xã hội".
Ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia đều đề cập đến "phát triển bền vững" trong quá trình
hoạch định chính sách và quản lý phát triển kinh tế với ý muốn nhấn mạnh phương thức và việc sử
dụng có trách nhiệm các nguồn lực của sự phát triển.
Đối với Việt Nam, "phát triển bền vững" đự
ơc thể hiện trong chỉ thị 36/CT của Bộ chính trị,
Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25.6.1998: mục tiêu và các quan điểm cơ bản của phát triển bền
vững chủ yếu dựa vào hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp
lý tài
nguyên như một cấu thành không thể tách rời của phát triển bền vững.


1.1.3. Du lịch bền vững:
Khái niệm du lịch bền vững (Sustainable tourism) được xuất hiện vào năm 1996, trên cơ sở cải
tiến và nâng cấp khái niệm về du lịch mềm của những năm 90 và thật sự gây được sự chú ý rộng rãi.
Mặc dù chưa đạt đến giai đoạn chín muồi, nhưng nó cũng thể hiện được điểm đặc trưng cơ bản của
DLBV, đó là : DLBV không c
hỉ cổ vũ cho hoạt động du lịch ít gây tổn hại cho môi trường mà còn thu
hút và đòi hỏi sự tham gia của tất cả các thành tố của ngành công nghiệp du lịch: các tổ hợp khách sạn
toàn cầu, các tổ chức du lịch lữ hành, các khách sạn nhỏ bé biệt lập, với mục tiêu: sử dụng tiết kiệm v
à
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ văn hoá và phúc lợi cộng đồng địa phương; tạo lập sự công
bằng trong nội bộ và giữa các thế hệ.
"Du lịch bền vững là việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách
nhiệm với môi trường để tận hưởng và đánh giá cao tự nhiên, các đặc điểm văn hoá kèm theo (có thể
là cả trong quá khứ và hiện tại) theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có tác động t
hấp từ du khách và
mang lại những lợi ích cho sự tham gia chủ động về kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương" -
(World Conservation Union, 1996)
Cũng trong thời gian này, Hội đồng Du lịch và lữ hành quốc tế (WTTC) khái niệm: "Du lịch

bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng Du lịch mà vẫn đảm bảo những
khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ tương l
ai".
Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta
có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các
quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống (Hens L.1998).
Theo quan điểm của Tổng cục Du lịch Việt Nam, phát triển Du lịch phải được định hướng và
quản lí theo phương c
hâm: kết hợp hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất
và tiêu dùng Du lịch; khai thác, sử dụng hợp lí và phát triển tài nguyên Du lịch tự nhiên; chú trọng bảo
tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị của tài nguyên du lịch nhân văn; giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc; tránh hiện đại hoá hoặc làm biến dạng môi trường, cảnh quan di tích; xây dựng và giữ gìn
môi trường xã hội lành mạnh; đảm bảo an ninh chính trị và trật tự a
n toàn xã hội đặc biệt là ở các đô
thị du lịch và các điểm tham quan du lịch.
Như vậy, du lịch bền vững không phải là trào lưu du lịch mà đó là cương lĩnh phát triển du lịch
của thời đại.
1.1.4. Điểm du lịch:
Các nhà nghiên cứu và lập pháp đã đưa điểm du lịch vào Pháp lệnh Du lịch được chủ tịch nước
ký và công bố vào tháng 2.1999, theo đó "điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, c
ó khả
năng thu hút khách du lịch".
Như vậy theo Pháp lệnh Du lịch, "điểm du lịch" là khái niệm tương đối mở, không hạn chế về
quy mô lãnh thổ. Đồng thời với khái niệm trên, "điểm du lịch" có thể bao gồm:Điểm tài nguyên (tiềm
năng), nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn và có khả năng thu hút khách song có thể chưa đưa vào khai
thác; và điểm chức năng - nơi các tài nguyên du lịch đã đư
ợc khai thác đưa vào phục vụ nhu cầu khách
du lịch (tức là đã có sức thu hút khách du lịch).
Tuy nhiên khái niệm trên vẫn để ngỏ vấn đề "quy hoạch" đối với điểm du lịch. Trong trường
hợp lãnh thổ điểm du lịch được quy hoạch thì sự khác biệt với khái niệm "khu du lich" được xác định

ngay trong Pháp lệnh Du lịch, theo đó "khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch…, được quy hoạch
đầu
tư phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của du khách…" là chưa rõ ràng. Trong thực tế cuộc
sống, hai khái niệm này thường được sử dụng một cách vô thức mà chưa có sự phân biệt rõ ràng.
1.1.5. Tuyến du lịch:
"Tuyến du lịch là lộ trình nối các điểm du lịch, khu du lịch khác nhau" (Pháp lệnh Du lịch,
1999).
Tuyến du lịch được xem là sản phẩm du lịch đặc biệt, là một đơn vị tổ chức không gian du lịch

được tạo bởi sự kết nối nhiều điểm du lịch khác nhau về quy mô, chức năng, sự đa dạng của các đối
tượng du lịch trên một lãnh thổ. Cơ sở tiền đề cho việc xác định tuyến du lịch là sự phân bố trong
không gian hệ thống các điểm du lịch và hệ thống giao thông liên kết chúng. Do vậy, tuyến du lịch có
thể là tuyến du lịch đường bộ, tuyến du lịch đường thuỷ, tuyến du lịch hàng không hoặc tu
yến du lịch
tổng hợp với các phân đoạn có các loại phương tiện vận chuyển khác nhau.
Tuyến du lịch có thể là tuyến du lịch tổng hợp (liên kết các điểm du lịch chức năng khác nhau),
hoặc tuyến du lịch chuyên đề (liên kết các điểm du lịch có chức năng, sản phẩm du lịch tương đồng).
Tuyến du lịch là một khái niệm không hạn chế bởi ranh giới hành chính. Các tuyến du lịch có
thể được xây dựng phát triển trong một đơn vị hành chính (trong trường hợp có các điểm du lịch cần
thiết phâ
n bố trọn trong đơn vị hành chính đó), song trong nhiều trường hợp, tuyến du lịch được phát
triển trên lãnh thổ xuyên ranh giới hành chính (lien xã, liên huyện, liên tỉnh/thành phố), thậm chí xuyên
quốc gia. Trong xu thế hội nhập hợp tác cùng phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch thì các tuyến du
lịch liên vùng như vậy thường chiếm ưu thế. Điều này cũng làm tăng đáng kể sức hấp dẫn của các
tuyến du lịch.
1.2. N
hững điều kiện cơ bản và nguyên tắc đảm bảo phát triển bền vững Du lịch :
1.2.1. Những điều kiện cơ bản để phát triển bền vững Du lịch:
Để ngành du lịch phát triển một cách bền vững cần những điều kiện sau:
1.2.1.1. Sự đa dạng của tài nguyên du lịch.

Đối với tài nguyên thiên nhiên, gắn với nó là loại hình du lịch sinh thái,

đòi hỏi tính đa dạng
sinh học cao.
Đa dạng sinh học bao gồm đa dạng sinh thái, đa dạng di truyền và đa dạng loài.
Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống và mối
liên hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống
như: đất, nước, địa hình, khí hậu…đó là các hệ sinh thái (eco - systems) và cá
c nơi trú ngụ, sinh sống
của một hoặc một số loài sinh vật (theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại hội nghị thượng
đỉnh Rio De Janeiro về môi trường).
Đối với tài nguyên nhân văn bao gồm những di tích lịch sử, di tích cách mạng, những công trình
văn hoá, kiến trúc… kể cả những giá trị văn hoá truyền thống cần được giữ gìn, bảo tồn để mỗi điểm
du lịch mang nét độc đáo riêng tạo sự hấp dẫn đa dạng cho ngành du lịch.
1.2.
1.2. Sự am hiểu về du lịch
Người làm công tác du lịch đặc biệt là các nhà điều hành, hướng dẫn viên du lịch và dân địa
phương phải thật am hiểu - đây cũng là một trong những nguyên tắc của du lịch bền vững.
Sự am hiểu ở đây bao gồm hiểu về tài nguyên du lịch (các đặc điểm sinh thái tự nhiê
n, văn hoá
cộng đồng), tác động tiềm ẩn của hoạt động du lịch đối với tài nguyên - môi trường và cả ngoại ngữ.
Điều này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch . Muốn vậy cần
phải có chiến lược giáo dục thật hiệu quả đặc biệt đối với cộng đồng địa phương về những kiến t
hức về
du lịch và bảo vệ môi trường. Vì hơn ai hết chỉ có họ mới ý thức được quyến lợi họ được hưởng và bảo
vệ môi trường du lịch chính là bảo vệ cuộc sống của chính họ. Họ cũng là những người truyền đạt
những kiến thức đó đến du khách hiệu quả nhất. Từ đó tất cả các lực lượng tham
gia du lịch, dân bản
địa cùng nhau bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trường du lịch, là điều kiện quan trọng để du lịch phát
triển một cách bền vững.

Các nhà điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết
gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên và môi trường. Họ chỉ đơn giản tạo cho du khách
một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội nà
y thay đổi hoặc
vĩnh viễn mất đi. Ngược lại, để đạt được nền du lịch bền vững, các nhà điều hành du lịch phải có được
sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên, cộng đồng địa phương và các lực lượng
bảo vệ môi trường với mục đích bảo vệ lâu dài các giá trị tự nhiên, nhân văn, văn hoá địa phương và
môi trường; cải thiện cuộc sống , nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương với du khách.
1.2.
1.3. Đảm bảo về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch
Giao thông vận tải: đảm bảo nhu cầu đi lại cho du khách từ đất liền ra Côn Đảo và ngược lại;
đến các điểm du lịch.
Thông tin liên lạc: đảm bảo để du khác
h liên lạc với gia đình, người thân.
Điện, nước: cung cấp đầy đủ cho các hoạt du lịch và sinh hoạt cho du khách.
Cơ sở lưu trú: chất lượng và phù hợp với môi trường du lịch của địa phương.
Các dịch vụ du lịch khác: ăn, uống, mua sắm…phải đảm bảo trên tinh thần tươi sống, an toàn
vệ sinh thực phẩm, giá cả phù hợp.
1.2.1.4. Tuân thủ chặt chẽ các quy định về "sức chứa"
Nhằm hạn chế tới tới mức tối đa tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên du lịch và môi
trường, đạt đến nền du lịch bền vững, cần tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về "sức chứa".
Khái niệm "
sức chứa" được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý học và xã hội học. Tất cả
những khía
cạnh này có liên quan đến lượng khách ở một thời điểm trong cùng địa điểm.
Đứng trên góc độ vật lý: "sức chứa" ở đây được hiểu là số lượng tối đa du khách mà khu
vực đó có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn tối thiểu về không gian đối với
mỗi du khách cũng như đối với nhu cầu sinh hoạt của họ.
Đứng
ở góc độ sinh học: sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà nếu lớn hơn sẽ vượt

quá khả năng tiếp nhận của môi trường, làm xuất hiện các tác động sinh thái do hoạt động của du
khách và tiện nghi mà họ sử dụng gây ra. Sức chứa này sẽ đạt tới khi số lượng du khách và các tiện
nghi mà họ sử dụng bắt đầu có những ảnh hưởng tới tập tục sinh hoạt của cá
c loài thú hoang dã,
làm cho hệ sinh thái xuống cấp (ví dụ: làm phá vỡ tập quán kết bầy, làm đất bị xói mòn…); tài
nguyên nhân văn bị tổn hại và các giá trị truyền thống dần mai mọt, mất đi.
Đứng ở góc độ tâm lý: Sức chứa được hiểu là giới hạn lượng khách mà nếu vượt quá bản
thân du khách cảm thấy khó chịu vì sự đông đúc và hoạt động của họ bị ảnh hưởng bởi sự có mặt
của các du khách khác. Nói cách khác mức độ thoả mãn
của du khách giảm xuống quá mức bình
thường do tình trạng quá tải.
Đứng ở góc độ xã hội: sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà ở đó bắt đầu xuất hiện
những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá - xã hội, kinh tế - xã hội của
khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, bị xâm nhập.
Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khác
h tối đa mà khu du lịch có khả
năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này, năng lực quản lý (lực lượng nhân viên, trình
độ và phương tiện quản lý…) của khu du lịch sẽ không đáp ứng được nhu cầu của du khàch, làm
mất khả năng quản lý kiểm soát hoạt động của khách và kết quả sẽ ảnh hưởng đến môi trường và xã
hội.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả tính định tính và định lượng, vì vậy khó c
ó thể xác định
một con số chính xác về sức chứa cho một khu vực. Mặt khác mỗi khu vực khác nhau sẽ có chỉ số
sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một cách tương đối bằng phương pháp thực
nghiệm.
Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định sức chứa là "quan niệm"
về sự "đông đúc"
của các nhà nghiên cứu khác nhau sẽ khác nhau, đặc biệt trong những điều kiện phát triển xã hội
khác nhau. Rõ ràng, để đáp ứng yêu cầu này của du lịch, cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa
của các địa điểm cụ thể và căn cứ vào đó sẽ có những quyết định về quản lý. Điều này cần được

tiến hành với các nhóm đối tượng khách/thị trường khác nhau phù hợp với tâm
lý và quan niệm của
họ.
1.2.1.5. Thoả mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết của du khách.
Việc thoả mãn nâng cao nhu cầu hiểu biết của du khách về tự nhiên, văn hoá bản địa thường rất
khó khăn song lại là nhu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch. Vì vậy những dịch
vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những gì họ tham
quan.
1.2.2. Những nguyên tắc đảm bảo phát triển bền vững du lịch:
1.2.1.1. Sử dụng các nguồn lực một cách bền vững
Việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hoá và xã hội là tối cần
thiết, nó sẽ khiến cho việc kinh doanh phát triển lâu dài.
Tất cả các hoạt động kinh tế đều liên quan tới việc sử dụng các nguồn tài nguyên (thiên nhiên
và nhân văn). Nhiều nguồn trong đó không thể đổi mới, tái chế hay thay thế được.
Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc lưu lại cho các thế hệ tương lai một nguồn tài
nguyên t
hiên nhiên không kém hơn so với cái mà các thế hệ trước được hưởng. Ngăn ngừa những thay
đổi không thể tránh được đối với tài sản môi trường không có khả năng thay thế, ngăn chặn sự mất đi
của tầng ôzôn và các loài sinh vật, sự phá hoại chức năng thiết yếu của các hệ sinh thái. điều nà
y cũng
có nghĩa là việc tính tới các dịch vụ được môi trường thiên nhiên cung cấp, những dịch vụ này không
phải là "hàng hoá cho không" mà phải được tính vào chi phí các hoạt động kinh tế.
Các nguyên tắc như vậy cũng được áp dụng đối với tài nguyên nhân văn. Cần trân trong các nền
văn hoá địa phương, truyền thống dân tộc, kế sinh nhai và đất đai người ta dựa vào để sống.
Việc sử dụng bền vững, bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực này là vấn đề sống còn đối với việc
quản lý hợp lý mang tính toàn cầu và cũng mang ý nghĩa kinh doanh tích cực.
1.2.1.2. Giảm sự tiêu thụ qu
á mức và giảm chất thải sẽ tránh được những chi phí tốn kém cho việc
phục hồi tổn hại về môi trường và đóng góp cho chất lượng du lịch.
Sự tiêu thụ quá mức sẽ dẫn tới sự huỷ hoại môi trường toàn cầu và đi ngược lại với sữ phát triển

bền vững. Kiểu tiêu thụ này là đặc trưng của những nước có nền công nghiệp phát triển và lan rộng rất
nhanh trên toàn cầu.
Sự tiêu dùng tài nguyên môi trường và các tài nguyê
n khác một cách lãng phí, không cần thiết
đã gây ra sự ô nhiễm và xáo trộn về văn hoá, xã hội. Sự phớt lờ hoặc không quản lí chất thải của các
công trình mà dự án triển khai không có đánh giá tác động đến môi trường làm cho môi trường xuống
cấp lâu dài, khó khắc phục. Vì thế cần "phạt ô nhiễm" đối với các công trình trên.
1.2.1.3. Duy trì tính đa dạng
Việc duy trì và tăng cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá và xã hội là hết sức quan trọng
cho sự phát
triển bền vững du lịch và là chỗ dựa sinh tồn của ngành công nghiệp du lịch.
Sự đa dạng trong môi trường tự nhiên, văn hoá và xã hội là thế mạnh mang lại khả năng phục
hồi cho những đột biến và áp lực. Đa dạng cũng sự sống còn để tránh việc quá phụ thuộc một hay một
vài nguồn hỗ trợ sinh tồn.
Phát triển bền vững chủ trương việc để lại cho thế hệ tương lai sự đa dạng cả về thiên nhiên và
nhâ
n văn không ít hơn những gì thế hệ trước được thừa hưởng. Nhận thức được rằng thay đổi về môi
trường sinh học, văn hoá, kinh tế là kết cục không tránh khỏi của bất cứ loại hình phát triển nào.
Chiến lược Bảo Tồn Thế Giới (1980) nhấn mạnh sự cần thiết bảo tồn đa dạng nguồn gien. Từ
đó mục đích đã được mở rộng, trong đó c
ó sự đa dạng các cơ cấu chính trị, kinh tế - xã hội và các nền
văn hoá.
1.2.1.4. Hợp nhất du lịch vào quá trình quy hoạch
Hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược cấp quốc gia và địa
phương, tiến hà
nh đánh giá tác động môi trường làm tăng khả năng tồn tại lâu dài của ngành du lịch.
Các mâu thuẫn quyền lợi, sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên và tình trạng quá phụ thuộc có
thể tránh hay giảm thiểu được bằng cách hợp nhất lĩnh vực này với lĩnh vực khác dựa trên hai qui tắc:
quy hoạch chiến lược dài hạn và đánh giá tác động môi trường.
Khuôn khổ hoạch định có tính chiến lược cho phép đánh giá các tác động của sự phát triển đối

với các điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường ở cả cấp địa phương và khu vực trong khuôn khổ ngắn
trung và dài hạn.
Đánh giá tác động môi trường được tiến hành trong các giai đoạn lập kế hoạch và thực hiện của
dự án sẽ làm giảm thiểu tổn hại đối với môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội. Đánh giá tác động của
môi trường bao gồm tác động gián tiếp và trực tiếp của con người đối với các hệ động - thực vật, đất
đai, nguồn nước, khí hậu và cảnh quan; và cả tác động qua lại của các nhân tố này với các tài nguyên

nhân văn. Tuy nhiên sự đánh giá này mới diễn ra chủ yếu ở Cộng đồng Châu Âu, phần lớn các nước
còn lại đang trong giai đoạn thử nghiệm.
1.2.1.5. Hỗ trợ kinh tế địa phương
Ngành du lịch hỗ trợ được các hoạt động kinh tế địa phương, tính đến các giá trị và chi phí về
mặt môi trường thì mới bảo vệ được nền kinh tế địa phương và tránh đư
ợc sự tổn thất về môi trường.
Sự tăng trưởng kinh tế thể hiện qua sự tăng trưởng của Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) mà biểu
hiện của nó là các giá trị hàng hoá trên thị trường; còn giá trị các loại hình dịch vụ và tài nguyên môi
trường không được tính, dẫn đến tình trạng huỷ hoại môi trường.
Sự phát triển bền vững, một mặt thoả mãn nhu cầu và phúc lợi của con người đồng thời vẫn duy
trì và cải thiện môi trường . Lưu tâm
đến chức năng kinh tế và việc đánh giá tác động đến môi trường
của các dự án đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng.
Cốt lõi của sự phát triển kinh tế bền vững là tính không phụ thuộc, ngày càng phát triển và đa
dạng. Nó đòi hỏi sự tái thiết lập hệ thống thị trường để hợp lý hoá các dịch vụ ở góc độ m
ôi trường và
các chi phí sản xuất có tính xã hội rộng lớn hơn.
Hoạt động kinh tế quan tâm đến môi trường cũng là quan tâm đến lợi ích quần chúng địa
phương.


1.2.1.6. Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phương
Việc tham gia của cộng động địa phương vào Du lịch sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho họ và

môi trường mà còn nâng cao chất lượng Du lịch.
Sự tham gia của cộng đồng địa phương là rất cần thiết để phát triển hợp lý và
bền vững. Ngược
lại sự phát triển bền vững sẽ đáp ứng được nhu cầu của dân bản địa bảo vệ môi trường thiên nhiên và
văn hoá của họ. Để đạt được mục tiêu đó, cần có chiến lược phát triển phù hợp của địa phương sở tại.
Để sự tham gia của cộng đồng địa phương thật sự hiệu quả, cần có chiến lược giáo dục bài bản,
khoa học và cho phép họ t
ham gia vào quá trình hoạch định và tiến hành các chiến lược phát triển.
1.2.1.7. Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng có liên quan
Sự đồng lòng giữa công nghiệp Du lịch với cộng đồng địa phương, các tổ chức và các cơ quan
khác nhau là rất cần thiết, đồng thời cùng nhau giải toả các mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi.
Tham
khảo ý kiến quần chúng nhằm tranh thủ sự quan tâm của họ trong việc dung hoà giữa phát
triển kinh tế (đặc biệt là công nghiệp) và sự tác động tiềm ẩn của nó lên môi trường tự nhiên, xã hội và
văn hoá. Đó là việc làm cần thiết để đánh giá một dự án phát triển, các biện pháp để giảm thiểu các tác
động tiêu cực và tối đa hoá sự đóng góp của quần chúng địa phương.
Thiếu sự tham khảo ý kiến giữa cơ quan nhà nước và cộng đồng địa phương có thể đưa đến sự
thù địch và đối kháng thậm chí khó có thể giải quyết được các mâu thuẫn về quyền lợi.
Các cộng đồng địa phương trên toàn thế giới nếu được trang bị kiến thức đầy đủ, họ sẽ là những
người qua
n tâm nhất và đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường của chúnh mình.
Phát triển bền vững là tính đến các nhu cầu hiện tại, tương lai và phúc lợi của con người dựa
trên sự lựa chọn, hiểu biết về những chi phí phát triển môi trường, xã hội và văn hoá. Tham khảo ý
kiến m
ang tính chất then chốt vì nó hàm nghĩa trao đổi thông tin, ý kiến, đánh giá và hành động dựa
vào kỹ năng, kiến thức và các nguồn lực địa phương.
1.2.1.8. Đào tạo nhân viên
Việc đào tạo nhân viên trong đó có lồng ghép vấn đề Du lịch bền vững vào thực tiễn công việc,
cùng với việc tuyển dụng lao động địa phương vào mọi cấp sẽ làm tăng chất lượng sản phẩm du lịch.
một lực lượng lao động được đào

tạo và có kỹ năng thành thạo không những đem lại lợi ích về
kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. việc đào tạo đúng mức và nhận thức
của người học về tầm quan trọng và tính chất phức tạp của du lịch góp phần nâng cao lòng tự hào
nghề nghiệp, sự tự tin và tự nguyện công tác của nhân viên; nâng cao chất lượng sản phẩm du
lịch,
lòng tin vào tính hiệu quả của tất cả các cấp đối với sự phát triển của ngành du lịch.
Việc đào tạo phải bao gồm cả giáo dục đa văn hoá nhằm tăng cường hiểu biết cho học viên giúp
họ đem lại sự hài lòng cao nhất cho du khách.
Đào tạo và sử dụng nhân viên là người địa phương, đặc biệt là các cán bộ tổ chức và các hướng
dẫn viên du lịch sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho ngành.
Sự phát triển bền vững nhấn mạnh đén tăng cường giáo dục nhằm mục đích nâ
ng cao sự phồn
vinh về kinh tế - xã hội. Giáo dục nâng cao nhận thức về quản lý môi trường là then chốt cho sự phát
triển tổng hợp bền vững cần phải bao hàm những vấn đề về xã hội, văn hoá và kinh tế.
1.2.1.9. Tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm
Việc tiếp thị cung cấp thông tin cho du khách một cách đầy đủ và có trách nhiệm sẽ nâng cao sự
tôn trọng của du khác
h đối với môi trường thiên nhiên, văn hoá, xã hội của địa phương đồng thời làm
tăng thêm sự thoả mãn cho du khách.
Tiếp thị và quảng cáo là vũ khí lợi hại giúp bán thành công bất cứ sản phẩm nào. Phát triển bền
vững dựa trên sự tiếp thị đầy đủ và trung thực các thông tin về sản phẩm
góp phần nâng cao chất lượng
môi trường tự nhiên, nhân văn và mức sống (có tính đến giá thành của những giá trị về môi trường).
chiến lược tiềp thị đối với du lịch bền vững bao gồm việc xác định, đánh giá và luôn rà soát lại
mặt cung của tài nguyên du lịch và những nguồn lực khác, đồng thời luôn quan tâm đến cán cân cung -
cầu.
Sự tăng trưởng của du lịch và sự hoán vị của các điểm tham quan tạo nên sự cạnh tranh trong
tiếp thị du lịch.
1.2.1.10. Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu
Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu và giàm sát ngành công nghiệp du lịch thông qua

việc sử dụng và phân tích hiệu quả các số liệu là cần thiết trong việc giải quyết những vấn đề tồn đọng,
mang đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho ngành và cả khách hàng.
để ngành du lịch phát triển và tồn tại một cách bền vững, điều cốt yếu là có dự đoán vấn đề và
nắm được trước chi phí giải quyết vấn đề. Tốc độ phát triển nha
nh của du lịch tại những khu vực dễ bị
tổn thương về mặt môi trường, kinh tế và xã hội; mà những khu vực này thường khó thu thập số liệu.
Vì thế cần cấp bách nghiên cứu cơ bản hơn nữa để đảm bảo không chỉ cho hiệu quả kinh doa
nh mà cho
cả sự phát triển bền vững trong mối quan hệ với cơ chế chính sách, với việc bảo vệ tài nguyên - môi
trường. Việc nghiên cứu toàn diện đòi hỏi sự phối hợp giữa ngành du lịch với các trường đại học, các
viện nghiên cứu, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ về tiềm năng, kỹ năng nghiên cứu và tổ chức
cũng như thiện chí về chính trị, sự trung thực và sự cam kết về nghiệp vụ.
1.2.
3. Những điều kiện và chỉ tiêu cơ bản để xây dựng các điểm, tuyến du lịch
1.2.3.1. Những điều kiện cơ bản để xây dựng các điểm, tuyến du lịch:
-
Tài nguyên du lịch:
Tài nguyên du lịch được xem là tiền đề quan yrọng cơ bản để xây dựng nên các điểm, tuyến du
lịch. Điều này đã được khẳng định ngay trong pháp lệnh du lịch: "Tài nguyên du lịch là cảnh quan
thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con
người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du
lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch".
Bên cạnh những tài nguyê
n đã và đang được khai thác để thoả mãn nhu cầu du lịch, nhiều tài
nguyên du lịch còn tồn tại ở dạng tiềm năng do:
 Chưa được nghiên cứu điều tra và đánh giá đầy đủ.
 Chưa có nhu cầu khai thác do khả năng "cầu" còn thấp.
 Tính đặc sắc của tài nguyên thấp hoặc chưa đủ tiêu chuẩn cần t
hiết để khai thác
hình thành các sản phẩm du lịch.

 Các điều kiện để tiếp cận và các phương tiện để khai thác hạn chế, do đó chưa có
khả năng hoặc gặp nhiều khó khăn trong khai thác.
 Chưa đủ khả năng đầu tư để khai thác.
Trong thực tế, ở nước ta, nhiều di tích văn hoá lịch sử, lịch sử cách mạng mặc dù đã đư
ợc xếp
hạng sonh chưa được khai thác phục vụ du lịch; nhiều khu rừng nguyên sinh với tính đa dạng sinh học
cao, nhiều bãi biển đẹp ở miện Trung, nhiều lễ hội… vẫn chưa đầy đủ điều kiện đưa vào khai thác và
sử dụng.
Ngoài tài nguyên du lịch, nhân tố quan trọng cơ bản để xây dựng các điểm,tuyến du lịch còn có
các yếu tố khác như vị trí địa lý, các điều kiện tự nhiên như mưa, gió, sương mù, dòng chảy…Các yếu
tố này trong nhiều trường hợp quyết định mức độ sử dụng tài nguyên và ảnh hưởng rất nhiều đến sức
hấp dẫn của các điểm, tuyến du lịch.
-
Cơ sở hạ tầng du lịch
Nếu tài nguyên du lịch là yếu tố cơ sở quan trọng để tạo nên các điểm, các trung tâm, các vùng
du lịch, qua đó hình thành các tuyến du lịch thì cơ sở hạ tầng du lịch là yếu tố đảm bảo cho việc khai
thác những giá trị tài nguyên đó hình thành nên các điểm/khu du lịch. Đặc biệt cơ sở hạ tầng du lịch
mà trực tiếp là hệ thống giao thông là điều kiện không thể thiếu để hình thà
nh nên các tuyến du lịch.
Cơ sở hạ tầng du lịch bao gồm:
Hệ thống và phương tiện giao thông:
Đây được xem là nhân tố quan trọng hàng đầu bởi hoạt động du lịch gắn liền với sự di chuyển
của du khách từ nơi cư trú đến các điểm tham quan. Hệ thống giao thông ở đây không chỉ là hệ thống
đường (đường bộ, đường sắt, đư
ờng thuỷ, đường hàng không) mà còn bao gồm cả các d9ầu mối giao
thông như sân bay, nhà ga, bến cảng, các cửa khẩu quốc tế.
Hệ thống cung cấp điện:
Đối với hoạt động du lịch, điện là nguồn năng lượng không thể thiếu đảm bảo sinh hoạt của
khách du lịch và các dịch vụ du lịch có liên quan. Trong du lịch bền vững luôn khuyến khích các
nguồn năng lượng tự nhiên tại chỗ như các máy thuỷ điện nhỏ, pin mặt trời… thân thiện môi trường.

Hệ với thống cấp, thoát nước:
Là yếu tố cơ sở hạ tầng du lịch không thể thiếu trong hoạt động du lịch vì nó đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt tối thiểu của du khác
h. Hệ thống cấp nước và xử lý nước thải trong hoạt động du lịch luôn là
yếu tố được coi trọng khi xây dựng các điểm
/khu du lịch. Đối với phát triển bền vững du lịch. vấn đề
xử lý nước thải là đặc biệt quan trọng vì nước thải sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các hệ sinh thái và ô
nhiễm môi trường, huỷ hoại ngay nguồn tài nguyên chính mà điểm du lịch đó khai thác và phát triển.
Hệ thống thông tin liên lạc:
Đảm bảo hệ thống hạ tầng thông tin liên lạc để đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc với bạn bè,
người thân thậm chí còn duy trì các mối liên hệ công việc mà người đó đảm n
hận trong thời gian đi du
lịch là rất quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động du lịch.
Ngoài những yếu tố hạ tầng cơ sở du lịch cơ bản trên, một số yếu tố khác cũng cần được lưu ý
bao gồm: hạ tầng tài chính, hạ tầng y tế … để đáp ứng nhu cầu của hoạt động du lịch.
-
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch:
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là những yếu tố trực tiếp tham gia vào việc hình thành các sản
phẩm du lịch, có ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ du lịch, vì vậy chúng có vai trò quan trọng trọng
trong việc xây dựng các điểm, tuyến du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cơ sở vật chất của ngành du lịch và cơ sở vật chất của
một số ngành dịch vụ có liên quan.
Những yếu tố cơ bản của hệ thống cơ sở vật chất du lịch bao gồm:
Cơ sở lưu trú du lịch là: "cơ sở kinh doanh buồng, giường và các dịch vụ khác phục vụ khác
h
du lịch. Cơ sở lưu trú du lịch gồm khách sạn, làng du lịch, biệt thự, căn hộ, lều bãi cắm trại cho
thuê, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu"(pháp lệnh du lịch 1999). Đây được xem
như loại cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cơ bản thuộc hệ thống dịch vụ của ngành.
Cơ sở thể thao, vui chơi giải trí: đáp ứng nhu cầu thư giãn, vui chơi giải trí và tái tạo sức khoẻ
cho du khách. những cơ sở nà

y bao gồm các công trình thể thao, các công viên vui chơi giải trí
ngoài cơ sở lưu trú…
Các công trình thông tin, văn hoá, biểu diễn nghệ thuật như trung tâm văn hoá - thông tin,
rạp chiếu phim, nhà hát, câu lạc bộ nghệ thuật, phòng trưng bày triển lãm…Đây đồng thời cũng là
những công trình phúc lợi xã hội.
Các cơ sở dịch vụ bảo trợ khác như hiệu rửa ảnh, trạm xăng dầu, hiệu cắt tóc, hiệu sửa chữa
đồng hồ…T
hực chất đây là các cơ sở dịch vụ xã hội tham gia vào các hoạt động cung ứng dịch vụ
thoả mãn nhu cầu của khách du lịch.
1.2.3.2. Những chỉ tiêu cơ bản để xây dựng các điểm, tuyến du lịch
Việc xây dựng các điểm và qua đó là các tuyến du lịch thường dựa trên những chỉ tiêu cơ bản
sau:
-
Vị trí của điểm du lịch:
Vị trí tương đối của điểm du lịch với thị trường cung cấp khách có ý nghĩa quan trọng đối với
khả năng phát triển hoạt động du lịch ở điểm du lịch đó. thực tế cho thấy những điểm du lịch có tài
nguyên du lịch với mức độ hấp dẫn tương đồng thì điểm du lịch nào có vị trí gần với thị trường cung
cấp khách hơn thì việc xây dựng phát triển điểm
du lịch đó sẽ thuận lợi hơn.
Xác định mức độ thuận lợi để xây dựng phát triển các điểm du lịch ở góc độ khoảng cách từ thị
trường nguồn đến vị trí điểm du lịch, trên cơ sở thực tiễn hoạt động du lịch thường sử dụng 4 cấp:
Rất thuận lợi: khoảng cách từ 10 - 100 km
, thời gian đi đường ít hơn 3 giờ và có thể sử dụng từ
2 - 3 phương tiện vận chuyển thông dụng.
Khá thuận lợi: khoảng cách 100 - 200 km, thời gian đi đường ít hơn 5 giờ và có thể sử dụng từ
2 - 3 phương tiện vận chuyển thông dụng.
Thuận lợi: khoảng cách từ 200 - 500 km, thời gian đi đường ít hơn 12 giờ và có thể sử dụng 1 -
2 phương tiện vận chuyển thông dụng.
Kém thuận lợi: khoảng cách trên 500 km
, thời gian đi đường hơn 24 giờ và có thể sử dụng từ 1

- 2 phương tiện vận chuyển thông dụng.
-
Độ hấp dẫn của điểm du lịch:
Độ hấp dẫn của điểm du lịch là chỉ tiêu mang tính tổng hợp các yếu tố như tính hấp dẫn của
cảnh quan được nhiều du khách công nhận; sự thích hợp của khí hậu; tính đặc sắc và độc đáo của các
đối tượng tham quan du lịch…Độ hấp dẫn này thường được chia thành 4 cấp:
Rất hấp dẫn: có ít nhất trên 5 cảnh quan đẹp được thừa nhận; có ít nhất 5 di tích đặc sắc và
những tài nguyên du lịch khác để có thể phát triển được ít nhất 5 loại hình du lịch.
Khá hấp dẫn: có ít nhất 3 - 5 cảnh qua
n đẹp được thừa nhận; có ít nhất 2 di tích đặc sắc và
những tài nguyên du lịch khác để có thể phát triển được từ 3 - 5 loại hình du lịch.
Hấp dẫn: có ít nhất 1- 2 cảnh quan đẹp được thừa nhận; có ít nhất 1 di tích đặc sắc và những tài
nguyên du lịch khác để có thể phát triển được 1 -2 loại hì
nh du lịch.
Kém hấp dẫn: có cảnh quan đơn điệu và chỉ có thể phát triển được 1 loại hình du lịch.
-
Điều kiện cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch:
Đây được xem là chỉ tiêu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển điểm, tuyến du
lịch với 4 mức độ khác nhau:
Rất tốt: điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ, đạt tiêu chuẩn quốc
tế. Với điều kiện này,
việc khai thác các tiềm năng để phát triển các điểm, tuyến du lịch rất thuận lợi
đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách ở trình độ cao.
Khá tốt: có cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật đồng bộ, đủ tiện nghi, đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Trung bình: có được một số cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chát kỹ thuật đạt tiêu chuẩn quốc gia
nhưng không đồng bộ.
Kém: điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ th
uật yếu kém, không đồng bộ.
-
Thời gian hoạt động của điểm du lịch:

Thời gian hoạt động của điểm du lịch được xác định bởi khoảng thời gian thích hợp về các điều
kiện khí hậu, thời tiết đối với sức khoẻ và đảm bảo an toàn cho du khách cũng như điều kiện thuận lợi
để đưa khách đi du lịch theo chương trình.
Thời gian hoạt động du lịch quyết định tính chất thường xuyê
n hay mùa vụ của hoạt động du
lịch, từ đó tác động đến kế hoách khai thác, đầu tư và hoạt động kinh doanh du lịch tại các điểm, tuyến
du lịch. Để tiện lợi trong việc xem xét chỉ tiêu này trong tổng thể các chỉ tiêu liên quan đến việc xây
dựng phát triển các điểm, tuyến du lịch, việc đánh giá thời gian hoạt động của điểm du lịch cũng có
thể chia làm 4 cấp:
Rất dài: có trên 200 ngày trong năm có
thể triển khai tốt các hoạt động du lịch và có ít nhất trên
180 ngày có điều kiện khí hậu thích hợp với sức khoẻ con người.
Khá dài: có từ 150 - 200 ngày trong năm có thể triển khai tốt các hoạt động du lịch và có từ 120
- 180 ngày có điều kiện khí hậu phù hợp với sức khoẻ con người.
Dài: có từ 100 - 150 ngày trong năm có thể triển khai tốt các hoạt động du lịch và có từ 90 - 120
ngà
y có điều kiện khí hậu thích hợp với sức khoẻ con người.
Ngắn: có dưới 100 ngày trong năm có thể triển khai tốt các hoạt động du lịch và dưới 90 ngày
có điều kiện khí hậu thích hợp với sức khoẻ con người.
-
Sức chứa của điểm du lịch:
Sức chứa của điểm du lịch phản ánh khả năng và quy mô triển khai hoạt động của điểm du lịch
mà không nảy sinh những tác động tiêu cực đến tài nguyên, môi trường và xã hội. Điều này có ý nghĩa
rất quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững du lịch.
Trong thực tế, việc xác định "sức chứa" của một điểm du
lịch rất khó bởi cần triển khai việc
quan trắc bằng thực nghiệm. Trong nhiều trường hợp, nhiệm vụ này được thực hiện bằng việc kế thừa
có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các nước, đặc biệt các nước trong khu vực nơi có những điều kiện
tương đồng hoặc bằng kinh nghiệm thực tiễn.
Sức chứa (chỉ khả năng tiếp nhận khác

h) của điểm du lịch cũng thường được chia thành 4 cấp:
Rất lớn: trên 1.000 lượt khách/ngày.
Khá lớn: từ 500 - 1.000 lượt khách/ngày.
Trung bình: từ 100 - 500 lượt khách/ngày.
Nhỏ: dưới 100 lượt khách/ngày.
Tuy nhiên có thể nhận thấy sức chứa của điểm du lịch phụ thuộc rất nhiều vào qui mô lãnh thổ
của điểm du lịch đó.
-
Tính bền vững của điểm du lịch:
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tồn tại, tự phục hồi của các thành phần tự nhiên của điểm du
lịch trước áp lực tác động của hoạt động du lịch, hoặc các tác động tự nhiên, kinh tế - xã hội khác. Tính
bền vững này cũng được chia thành 4 cấp:
Rất bền vững: Không có thành phần tự nhiên nào bị phá huỷ, nếu có chỉ mức độ không đá
ng kể
và được phục hồi lại sau một thời gian ngắn. Hoạt động du lịch không bị ảnh hưởng và có thể diễn ra
liên tục.
Khá bền vững: Có từ 1 - 2 thành phần tự nhiên bị phá huỷ ở mức độ nhẹ và có khả năng tự
phục hồi. Hoạt động du lịch diễn ra thường xuyên.
Bền vững trung bình: Có 1 -2 thành phần tự nhiên bị phá huỷ nặng cần đến sự can thiệp của
con người mới có khả năng phục hồi. Hoạt động du lịch bị hạn c
hế.
Kém bền vững: Có từ 1- 2 thành phần tự nhiên bị phá huỷ nặng cần đến sự can thiệp của con
người. Song khả năng phục hồi hạn chế và kéo dài. Hoạt động du lịch bị gián đoạn.
Tính bền vững của các điểm
du lịch phụ thuộc nhiều vào tính nhạy cảm, dễ phá huỷ của các hệ
sinh thái. Ví dụ, hệ sinh thái san hô rất dễ bị phá huỷ và quá trình phục hồi tự nhiên rất lâu trong khi
hệ sinh thái rừng khô hạn hoặc rừng tràm ít nhạy cảm trước những tác động và quá trình phục hồi
nhanh hơn khi bị phá huỷ.
Để đánh giá mức độ quan trọng (hấp dẫn, có khả năng thu hút khách cao) và khả năng phát triển
(có tài nguyên đặc sắc, dễ tiếp cận, hoạt động thuận lợi, khả năng tồn tại cao) của các điểm du lịch,

thường các chỉ tiêu trên được đánh giá cho điểm theo trọng số (tuỳ thuộc vào quan điểm đánh giá) và
được tổng hợp lại. Điểm du lịch nào có điểm
càng cao thì càng có vai trò quan trọng và khả năng phát
triển càng tốt. Căn cứ vào đánh giá này, các nhà đầu tư và quản lý sẽ quyết định về mức đầu tư xây
dựng phát triển điểm du lịch tương xứng với tiềm năng của nó .
Căn cứ vào số lượng các điểm du lịch đạt yêu cầu đầu tư xây dựng phát triển và phân bố hợp lý
của chúng trong không gian, việc xây dựng các tuyến du lịch cũng sẽ được quyết định.
1.2.
4. Các phương pháp đánh giá tính bền vững của du lịch
1.2.4.1. Phương pháp phân tích SWOT
Mục đích của việc đánh giá là để xác định rằng việc phát triển du lịch có thể đóng góp vào công
tác bảo tồn và xoá đói giảm nghèo, duy trì các tiêu chí phát triển bền vững, nhận được sự hỗ trợ của
cộng đồng và tính thực tế về giá trị kinh tế.
SWOT (Strengths, Weaknesses, Opportunities và Threats) là phương pháp phâ
n tích những
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và những đe doạ. Đây là một khung lập kế hoạch mà thông qua đó các
cộng đồng có thể nêu lên những ưu tiên, xác định mối quan tâm về du lịch như là một hoạt động triển
vọng cho việc tạo thu nhập, sự sẵn sàng của cộng đồng cũng như những trăn trở của họ đối với việc
phát triển du lịch địa phương.
1.2.
4.2. Phương pháp thống kê các điểm thu hút
Thành lập danh sách các điểm thu hút trong khu bảo tồn
Các điểm thu hút tự nhiên: phong cảnh đẹp (các bãi biển, hang động, thác nước…), những sinh
vật quý hiếm (chim, rùa…). Đa dạng sinh học và những điều kiện tự nhiên khác có khả năng thu hút du
khách rất lớn.
Các thu hút về văn hoá: những mô hình về cách sống truyền thống, các nghi lễ, các lễ hội tôn
giáo, các lễ hội và các sự kiện lớn khác, nghệ thuật và thủ công, ẩm thực…; các hoạt động kinh tế địa
phương như: khai thác cá, làm muối, nông nghiệp…
không những tạo sự hấp dẫn cho du khách mà còn
cho phép du khách tìm hiểu và hỗ trợ văn hoá địa phương.

Các điểm thu hút về lịch sử và di sản: các pháo đài, chiến luỹ, bảo tàng , nhà thờ, chùa chiền,
lăng tẩm, các kiến trúc đặc biệt, các điểm k
hảo cổ, các tượng đài kỷ niệm, các địa đạo, nhà tù…
Các hoạt động giải trí: chạy tàu thuỷ, đi bộ, leo núi, đạp xe đạp, cắm trại, chèo thuyền, bơi lội…

×