Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN xuất sắc cấp tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.14 KB, 15 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
PHẦN MỘT
PHẦN MỞ ĐẦU
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp
chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.Bởi thế
dạy Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và
trong đời sống của mỗi con người.Mục tiêu của chương trình Tiếng việt
tiểu học mới ngoài việc cung cấp kiến thức Tiếng Việt và thái độ, tình yêu
Tiếng Việt còn phải giúp học sinh giao tiếp tốt trong môi trường hoạt động
lứa tuổi.Vì thế việc sử dụng từ ngữ đúng,nắm rõ nghĩa của từ có ý nghĩa
quan trong trong giao tiếp, giúp học sinh tự tin tham gia vào hoạt động giao
tiếp qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn
sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt.
Muốn làm được điều này học sinh phải có kiến thức vững chắc về
Tiếng Việt. Đó không chỉ là kiến thức về ngữ pháp, về vốn từ mà còn phải
nắm vững kiến thức về nghĩa cuả từ. Trong chương trình Tiếng Việt 5 học
sinh được học kiến thức về nghĩa của từ: các hiện tượng trái nghĩa, đồng
âm, đồng nghĩa và nhiều nghĩa. Trong các hiện tượng đó thì kiến thức về từ
nhiều nghĩa là phức tạp nhất. Là một giáo viên lớp 5, qua hai năm kinh
nghiệm giảng dạy tôi nhận thấy học sinh còn rất nhiều lúng túng, khó khăn,
khi học nội dung kiến thức này dẫn tới các tiết học nặng nề,không hứng
thú, không lôi cuốn được các em. Nguyên nhân nào dẫn tới những khó
khăn đó? Làm thế nào để nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa?
Đó là lý do tôi chọn đề tài : “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
các tiết học về từ nhiều nghĩa”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nhằm góp phần nâng cao hơn nữa kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho
học sinh .


III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
1. Khách thể nghiên cứu:
Phần môn luyện từ và câu Tiếng Việt lớp 5.
2.Đối tượng nghiên cứu
Các tiết luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa.
IV.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
-Tìm hiểu về hiện tượng nhiều nghĩa.
-Tìm hiểu những khó khăn mà học sinh còn gặp phải
-Những nguyên nhân dẫn đến khó khăn đó.
-Đề xuất một số giải pháp khắc phục những khó khăn.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
1
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
PHẦN HAI:
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI :
Trong từ vựng có những từ một nghĩa như:bươn, hiền, điềm tỉnh…
tuy nhiên phổ biến hơn là những từ nhiều nghĩa. Các từ đơn thường nhiều
nghĩa hơn các từ phức. VD:máy, làm, dắt…là những từ nhiều nghĩa nhưng
máy may, máy tiện, máy nổ là những từ một nghĩa. Tùy theo chức năng mà
từ chuyển đảm nhiệm trong ý nghĩa của từ có những thành phần ý nghĩa
khác nhau:
-Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.
-Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm.
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.
Ngoài ra từ các có ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp
trong câu.

Trước đây khi nghiên cứu về nghĩa của từ các nhà nghiên cứu thường
vận dụng cách phân biệt nghĩa đen và nghĩa bóng hoặc nghĩa hẹp và nghĩa
rộng để phân biệt các nghĩa hiện dùng của một từ .
Theo SGK Tiếng Việt 5: Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và
một hay một số nghĩa chuyển .Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ có
mối liên hệ với nhau.
Theo cách phân chia này nghĩa của từ được chia làm hai loại: nghĩa
gốc và nghĩa chuyển. Nghĩa gốc là cái nghĩa chỉ vật, khái niệm mà những
người trong một cộng đồng ngôn ngữ thường hiểu đối một từ nào đó khi nó
đứng một mình, ít bị phụ thuộc vào những từ đi trước hoặc sau nó. Nghĩa
chuyển là nghĩa chuyển được suy ra từ nghĩa gốc .Ví dụ: Đối với từ chân
nghĩa “chi dưới của động vật”, đối với từ nhà nghĩa “công trình kiến
trúc để ở”, đối với từ chạy nghĩa :“dời chổ bằng chân với tốc độ cao”,
đối với chín nghĩa “chỉ trạng thái của quả cây” là nghĩa gốc thì các nghĩa
còn lại của mỗi từ đều là nghĩa chuyển.
Mặt khác các từ trong cùng một phạm vi biểu vật thường chuyển
nghĩa theo một hướng nên nghĩa gốc và nghĩa chuyển có tính chất giống
nhau.
Ví dụ: Nếu xem nghĩa “ bộ phận cơ thể người, động vật” là nghĩa
gốc của từ tay thì đó cũng là nghĩa gốc của từ: đầu, mặt,cổ, chân, cánh,
lưng, bụng….và các nghĩa của các từ trên trong các tổ hợp sau đây là nghĩa
chuyển của chúng: tay ghế, tay áo, đầu bút, đầu sóng, mặt bàn, tai mũ, tai
chén, cổ áo, cổ chai, cánh quạt lưng áo, lưng quần, lưng ghế, chân bàn,
chân mây, ruột bút, ruột máy…
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
2
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Từ có thể chuyển nghĩa dựa trên sự giống nhau về vị trí hoặc hình
thức của các sự vật như: lòng sông, đầu làng, ngọn núi. Từ cũng có thể
chuyển nghĩa dựa trên sự giống nhau về chức năng của sự vật như: bến
trong bến xe, bến tàu điện giống với bến đò, bến sông vì cùng chỉ chức năng
đầu mối giao thông.
Có khi người ta dùng tên gọi của những giác quan này để gọi tên
những cảm giác của những giác quan khác hay những cảm giác trí tuệ, tình
cảm như: “chua”, “nhạt”, “mặn”, “chát” là những cảm giác vị giác được
dùng để gọi tên các cảm giác thính giác : “nói chua loét”, “lời nói ngọt
ngào”, “pha trò nhạt quá”, “nói cay quá”…
Cũng có nhiều khi từ chuyển nghĩa bằng cách lấy tên gọi bộ phận cơ
thể thay cho cả cơ thể, cho cả người hay cả toàn thể . Ví dụ: chân, tay,
miệng là tên gọi bộ phận cơ thể nhưng trong các tập hợp sau: “có chân
trong đội bóng đá”, “ một tay cờ xuất sắc”, “ gia đình bảy tám miệng ăn”
chúng chỉ cả người hay cả cơ thể trọn vẹn.
Cũng có khi lấy tên gọi của đơn vị thời gian nhỏ gọi tên đơn vị thời
gian. Ví dụ xuân là tên gọi một mùa nhưng nó có thể để chỉ năm “ bảy
mươi xuân”.
Trong Tiếng Việt lại có hiện tượng đồng âm, đó là những từ giống
nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa. Ví dụ từ chín trong “lúa
chín” và trong “suy nghĩ chín chắn” là từ nhiều nghĩa và nó đồng âm với
chín trong “số chín”.
Như vậy dạy học từ nhiều nghĩa ở tiểu học rất phức tạp. Là giáo viên
giảng dạy lớp 5 giáo viên cần phải nắm vững kiến thức về từ nhiều nghĩa,
các cách thức chuyển nghĩa của từ để từ đó có thể lựa chọn phương pháp
hướng dẫn học sinh học tập phù hợp.
Đối với học simh lớp 5, chúng ta không thể yêu cầu học sinh nắm
vững các thành phần ý nghĩa của từ, cách thức chuyển nghĩa của từ song
yêu cầu học sinh phải giải nghĩa một số từ thông qua các câu văn, các cụm
từ cụ thể, xác định được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ, phân biệt từ

nhiều nghĩa với từ đồng âm, tìm được một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của
từ, đặt câu với các nghĩa của từ nhiều nghĩa.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI:
1.Những khó khăn mà học sinh thường gặp phải
Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ nhiều
nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể là:
-Khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa từ
sai, lúng túng và còn lủng củng.
-Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ: học sinh còn
làm sai đến 40-45%.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
3
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
-Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: còn mơ hồ, định tính.
-Đặt câu có sử dụng từ nhiều nghĩa: chưa hay, chưa đúng với nét
nghĩa yêu cầu.
2. Các bài tập trong SGK tiếng Việt 5:
1/ Tìm nghĩa của từ.
2/So sánh các nghĩa của từ: giống nhau và khác nhau.
3/Tìm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của một số từ thông qua một só
câu cụ thể.
4/Tìm một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của từ:Vd: lưng, cổ, miệng,
lưỡi…
5/Đặt câu để phân biệt được các nghĩa của từ nhiều nghĩa là động từ
hoặc tính ví dụ như: đi, đứng, chín..
6/Phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.
3. Nguyên nhân củ những khó khăn:

Như trên đã nói từ nhiều nghĩa là một khái niệm rất khó đối với học
sinh tiểu học lứa tuổi mà vốn kiến thức ngữ nghĩa còn ít. Mặt khác do các
bài tập trong SGK nhiều, đa dạng và cấu tạo tương đối khó đối với học
sinh.
Mặt khác do giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc giúp học
sinh nắm vững hiện tượng nhiều nghĩa của từ, còn lúng túng trong việc giải
nghĩa các từ nhiều nghĩa, chưa nắm vững bản chất của từ nhiều nghĩa, giáo
viên còn truyền thụ kiến thức, chưa đổi mới phương pháp.
III . Một số giải pháp khắc phục
Xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất của từ nhiều nghĩa, xuất phát
từ những khó khăn mà học sinh còn gặp phải khi học các tiết học về từ
nhiều nghĩa và nguyên nhân của những khó khăn đó, để nâng cao hiệu quả
các tiết học về từ nhiều nghĩa trong chương trình Tiếng Việt lớp 5, qua
nghiên cứu và thử nghiệm tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
A-Về mặt lí luận, phương pháp:
1. Giáo viên phải nắm vững kiến thức về từ nhiều nghĩa:
Phương pháp dạy học mới không cho phép giáo viên cung cấp kiến
thức cho học sinh theo kiểu truyền thụ một chiều song lại yêu cầu giáo viên
phải nắm vững kiến thức sâu sắc để hướng dẫn, làm trọng tài khoa học cho
học sinh. Đối với các tiết luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa vốn kiến thức
của giáo viên lại đặc biệt quan trọng. Muốn có điều này giáo viên phải bồi
dưỡng, nghiên cứu tài liệu kĩ, đặc biệt phải nắm rõ các nghĩa của từ một
cách chính xác.
VD: Khi dạy bài “Từ nhiều nghĩa” SGK đưa ra hai nghĩa của từ: tai, răng,
mũi thì giáo viên còn phải nắm thêm một số nét nghĩa nữa.
Ví dụ : Từ “ mũi” có một số nét nghĩa sau:
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
4
Sáng kiến kinh nghiệm

Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
1. Bộ phận củ cơ quan hô hấp.
2. Phần trước của tàu thuyền.
3. Bộ phận nhọn của vũ khí: mũi dao, mũi súng.
4. Phần đất nhô ra ngoài biển: mũi đất, mũi cà Mau.
5. Năng lực cảm giác về mũi: Con chó có mũi thính.
6. Đơn vị quân đội : mũi quân bên trái.
2. Thiết kế hệ thống bài tập:
Phiếu học tập cho nhóm hoặc cá nhân là một trong những hình thức
học tập rất hữu hiệu giúp học sinh có thể tích cực, chủ động trong học
tập.Mặt khác nó còn giúp giáo viên nắm được kết quả ngược từ học sinh
một cách chính xác, từ đó giáo viên có thể linh hoạt trong việc giảng dạy,
học sinh nắm vững nội dung bài học. Phiếu học tập cần được thiết kế bằng
hệ thống các bài tập trắc nghiệm khách quan như: nối, đúng- sai, nhiều lựa
chọn…
3. Cần sử dụng các phương pháp dạy học mới:
Để dạy tốt các tiết học về từ nhiều nghĩa giáo viên cần đưa các
phương pháp dạy học mới như phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp
đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp trò chơi…
-Phương pháp thảo luận nhóm: Nhằm giúp học sinh tham gia tính
cực chủ động vào quá trình học tập, học sinh có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý
kiến hay để cùng giải quyết một vấn đề khó khăn nào đó.
-Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: Nhằm mục đích đưa học sinh
và tình huống có vấn đề, từ đó kích thích sự hứng thú học tập của học sinh
vào việc giải quyết vấn đề đưa ra.
VD: Bài “ Luyện tập về từ nhiều nghĩa” trang 73.
? Đặt một câu có từ chạy .
- Học sinh đặt câu.
? Từ chạy trong câu trên có nghĩa là gì?

- Học sinh không giải thích được. Giáo viên cho học sinh làm bài
tập 1 SGK
4. Cần chuẩn bị tốt tâm thế học tập cho học sinh
Giáo viên cần phải giao nhiệm vụ cho học sinh rõ ràng, kích thích
hứng thú học tập của các em bằng các hình thức thi đua, khen thưởng.
ngoài ra giáo viên cần kiểm tra bài vở học sinh kể cả học sinh yếu lẫn học
sinh khá, giỏi để tất cả các em cùng học tập, tránh tình trạng vì kiến thức
quá khó nên một vài học sinh không học tập hoặc học tập không hiệu quả.
B- Về mặt thực tiễn
1. Khi dạy bài “Từ nhiều nghĩa”:
Mục tiêu của bài học này là giúp học sinh nắm vững khái niệm về từ
nhiều nghĩa, phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ. Xác định được
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
5
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. Tìm được nghĩa chuyển của
một số danh từ chỉ bộ phận cơ thể người , động vật.
Để giúp học sinh hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa, giáo viên hướng dẫn
học sinh từ nhận xét 1, học sinh có thể nêu ra một số ví dụ về nghĩa của từ
đó. Ví dụ: răng em bé, răng sữa, răng mèo…Để đến nhận xét 2, học sinh
tìm thêm được từ chứa tiếng mới: răng cào, từ đó giúp học sinh hiểu được
răng của chiếc cào không nhai được như răng người hay động vật nhưng
vẫn gọi là răng vì chúng chỉ vật nhọn, sắc, sắp đều nhau thành hàng. Sau đó
yêu cầu học sinh tìm thêm các từ chứa tiếng răng có nghĩa như răng cào:
răng lược, răng bừa…Tiếp theo đó yêu cầu học sinh nhận xét được từ răng
qua nhận xét 1 và 2 có 2 nghĩa:
- Nghĩa ở nhận xét 1 là nghĩa gốc.

- Nghĩa ở nhận xét 1 là nghĩa chuyển.
Hai nghĩa này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Sau khi học sinh nắm vững nhận xét 1 và 2 cần đặt câu hỏi vấn đáp
để giúp học sinh nhớ khái niệm từ nhiều nghĩa, yêu cầu học sinh lấy ví dụ
về từ nhiều nghĩa. Giáo viên cùng học sinh phân tích từ vừa tím được. Nếu
học sinh còn lúng túng, giáo viên có thể lấy ví dụ về từ nhiều nghĩa trong
các kết hợp từ khác nhau.
Ví dụ: Đi
- Nó chạy còn tôi đi.
- Chân nó không đi giày.
- Ca nô đi nhanh hơn thuyền.
Đối với ví dụ này giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét được từ đi
trong câu 1 có nghĩa là di chuyển từ nơi này sang này sang nơi khác bằng
những bước chân. Từ đi trong câu thứ 2 có nghĩa là mang hay đeo vào. Từ
đi trong câu thứ 3 có nghĩa là chuyển động của cá phương tiện giao thông.
Để rút ra kết luận đi trong câu 1 là nghĩa gốc vì nó chỉ hoạt động của cơ thể
người, từ đi trong câu 2, câu 3 là nghĩa chuyển vì nghĩa của nó được suy ra
từ nghĩa gốc và nó có mối liên hệ về nghĩa với từ đi trong câu 1.
-Với bài tập có dạng tìm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ trong các
câu văn giáo viên nên cho học sinh thảo luận, phát biểu ý kiến của mình
sau khi học sinh đã rút ra được kết quả đúng. Giáo viên nên yêu cầu học
sinh tìm thêm một số câu hay từ chứa tiếngđó mang nghĩa chuyển.
Ví dụ với từ: - Mắt: mắt kính, mắt tre, mắt lưới,mắt xích…
- Chân: chân bàn, chân lưới, chân núi, chân mây…
- Đầu: chải đầu, đầu tàu hỏa, đầu đũa, đầu
người( thành viên trong một gia đình)…
- Với bài tập 2 của phần luyện tập của tiết học yêu cầu học sinh tìm
sự chuyể nghĩa của từ cổ, tay, lưng, lưỡi, miệng. Giáo viên giúp học sinh
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà

6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×