Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Công tác xã hội nhóm trong nâng cao kiến thức và kỹ năng giáo dục giới tính cho trẻ khuyết tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ MẾN

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG NÂNG CAO KIẾN THỨC VÀ
KỸ NĂNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO TRẺ KHUYẾT TẬT
(Nghiên cứu tại Trung tâm Nuôi dƣỡng Ngƣời có công
và bảo trợ xã hội Bắc Ninh)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ MẾN

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG NÂNG CAO KIẾN THỨC VÀ
KỸ NĂNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO TRẺ KHUYẾT TẬT
( Nghiên cứu tại Trung tâm Nuôi dƣỡng ngƣời có công
và bảo trợ xã hội Bắc Ninh)

Chuyên ngành: Công tác xã hội ứng dụng
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hồi Loan


HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hồi Loan. Các tài liệu trích dẫn,
kết quả nêu trong khóa luận đều có nguồn gốc rõ ràng, trung thực, khách quan
và chưa từng được ai công bố,
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự cam kết này.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Mến


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài: “Công tác xã hội nhóm trong nâng cao
kiến thức và kỹ năng giáo dục giới tính cho trẻ khuyết tật ”, Em đã nhận được
nhiều sự ủng hộ, động viên và giúp đỡ cũng như sự chỉ bảo tận tình, chu đáo
từ phía giáo viên hướng dẫn, bạn bè và gia đình.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thày giáo/ giảng viên hướng
dẫn PGS.TS Nguyễn Hồi Loan. Thầy là người trực tiếp giảng dạy và cũng là
người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong
suốt thời gian nghiên cứu để em có thể hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn ban chủ nhiệm khoa Xã hội học, bộ môn
Công tác xã hội – Trường ĐH khoa học xã hội và nhân văn đã tạo điều kiện
thuận lợi trang bị về kiến thức và kỹ năng, nguồn tài liệu để em có thể hoàn
thành bài khóa luận của mình theo hướng thực hành CTXH chuyên nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Lãnh đạo cũng như tập thể các giáo viên, nhân
viên chăm sóc và các em học sinh của Trung tâm Nuôi dưỡng người có công

và bảo trợ xã hội Bắc Ninh, các bậc phụ huynh và đồng nghiệp đã tận tình
giúp đỡ, tạo mọi điều kiện, đồng thời cung cấp những thông tin cần thiết để
phục vụ quá trình can thiệp.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như đây là lần đầu tiên em thực hành
với đề tài còn nhiều mới mẻ, chắc hẳn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và những người quan tâm đến đề tài
thực hành này.
Xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

STT

Chữ viết tắt

1

CTXH

Công tác xã hội

2

GDGT

Giáo dục giới tính

3


NVCTXH

4

TKT

5

QHTD

Quan hệ tình dục

6

SKSS

Sức khỏe sinh sản

7

THPT

Trung học phổ thông

8

UBND

Ủy ban nhân dân


9

HĐND

Hội đồng nhân dân

10

NCC&BTXH

11

THCS

12

TPHCM

Nhân viên công tác xã hội
Trẻ khuyết tật

Người có công và bảo trợ xã hội
Trung học sơ sở
Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Hoạt động GDGT tại Trung tâm


51

Bảng 2.2: Thái độ của TKT khi nghe về GDGT

53

Bảng 2.3: Đánh giá thực trạng kiến thức về GDGT mà các em đang

55

được học
Bảng 2.4: Mong muốn của các em về những kiến thức cần được trang

57

bị về GDGT
Bảng 2.5: Tác dụng của việc học GDGT tại Trung tâm

58

Bảng 2.6: Nguồn tìm hiểu GDGT của TKT

59

Bảng 2.7: Môi trường dạy GDGT cho trẻ khuyết tật

60

Bảng 2.8: Hình thức học GDGT tại Trung tâm


61

Bảng 2.9. Hình thức học GDGT mà các em mong muốn tại Trung tâm

62

Bảng 2.10. Thực trạng kỹ năng GDGT của trẻ KT tại Trung tâm

63

Bảng 2.11. Mong muốn được trang bị kỹ năng GDGT

64

Bảng 2.12 Đề xuất của các em về chương trình GDGT nhằm nâng cao

66

kiến thức và kỹ năng GDGT
Bảng 2.13. Thái độ của những người được hỏi liên quan đén GDGT

67

Bảng 2.14 Bảng đánh giá về kiến thức và kỹ năng GDGT của trẻ khuyết

70

tật trước khi thực nghiệm
Bảng 3.1 Tiêu chí đánh giá kiến thức giáo dục giới tính cho trẻ khuyết


99

tật trước và sau thực nghiệm
Bảng 3.2 Tiêu chí đánh giá kỹ năng giáo dục giới tính cho trẻ khuyết tật 100
trước và sau thực nghiệm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn vấn đề can thiệp ............................................................................1
2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu .........................................................................3
2.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế Giới. .............................................................3
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc. ..............................................................5
3. Ý nghĩa của nghiên cứu ..................................................................................13
3.1. Ý nghĩa khoa học .........................................................................................13
3.2. Ý nghĩa thực tiễn..........................................................................................13
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................14
4.1. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................14
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................14
5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ..................................................15
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu ..................................................................................15
5.2. Khách thể nghiên cứu ..................................................................................15
5.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. ...................................................................15
7. Câu hỏi nghiên cứu .........................................................................................15
8. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................16
9. Phƣơng pháp nghiên cứu ...............................................................................17
9.1. Phƣơng pháp phân tích tài liệu ................................................................17
9.2. PHƢƠNG PHÁP ĐIỀU TRA BẢNG HỎI..............................................................18
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU ........21
1.1. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận ...........................................................21

1.1.1. Cơ sở phương pháp luận .........................................................................21
1.1.2. Các khái niệm công cụ ............................................................................23
1.1.4 . Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu .....................................................34
1.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................38
1.2.1. Các chính sách và dịch vụ hỗ trợ đối tƣợng trẻ em khuyết tật ............38
1.2.2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ..................................................................44


CHƢƠNG 2.:THỰC TRẠNG VỀ KIẾN THỨC VÀ KỸ NĂNG GIÁO DỤC
GIỚI TÍNH CHO TRẺ KHUYẾT TẬT SỐNG TRONG TRUNG TÂM NUÔI
...................................................................................................................................52
2.1. Thực trạng hoạt động giáo dục giới tính cho trẻ khuyết tật ....................52
2.1.1 Thực trạng hoạt động giáo dục giới tính ..................................................52
2.1.2 Thực trạng thái độ của trẻ về hoạt động giáo dục giới tính .....................54
2.2 Thực trạng kiến thức và kỹ năng giáo dục giới tính của trẻ khuyết tật tại
Trung tâm. ...........................................................................................................56
2.2.1 Thực trạng kiến thức về giáo dục giới tính ...............................................56
2.2.2 Những vấn đề trong chƣơng trình giáo dục giới tính mà các em quan tâm
và cần phải đi sâu hơn nữa ................................................................................57
2.2.3 Thực trạng kỹ năng về giáo dục giới tính .................................................64
2.3 Nhãn quan của Lãnh đạo, giáo viên và ngƣời làm công tác quản lý tại
Trung tâm ...........................................................................................................68
2.5. Điều kiện vật chất - vấn đề kinh phí ............................................................70
CHƢƠNG 3 :

THỰC HÀNH MÔ HÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM

TRONG NÂNG CAO KIẾN THỨC VÀ KỸ NĂNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CHO TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM ...................................................73
3.1. Lý do lựa chọn áp dụng phƣơng pháp công tác xã hội nhóm trong nâng

cao kiến thức và kỹ năng giáo dục giới tính cho trẻ khuyết tật tại Trung tâm
Nuôi dƣỡng ngƣời có công và bảo trợ xã hội Bắc ninh. ..................................73
3.2 Thành lập nhóm và tiến trình ứng dụng mô hình công tác xã hội nhóm
trong nâng cao kiến thức và kỹ năng giáo dục giới tính cho trẻ khuyết tật. .75
3.2.1 Xác định mục đích hỗ trợ và khả năng thành lập nhóm ...........................75
3.2.2 Tiến trình ứng dụng mô hình CTXH nhóm trong nâng cao kiến thức và kỹ
năng GDG cho TKT tại Trung tâm ....................................................................76
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................................................106
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................112


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn vấn đề can thiệp
Anthony Lake- Giám đốc Điều hành UNICEF trong một báo cáo về Tình
hình Trẻ em Thế giới hàng năm của UNICEF (trong đó có trẻ khuyết tật) phát
biểu: “Nhìn vào khuyết tật của trẻ trƣớc khi nhìn nhận trẻ không chỉ là hành
động không công bằng với trẻ, mà còn làm mất đi những điều trẻ có thể mang
lại cho xã hội…. Sự mất mát của các em là mất mát chung của toàn xã hội;
lợi ích của các em cũng là lợi ích cho toàn xã hội, vì thế sự phân biệt đối xử
dựa trên tình trạng khuyết tật là một hình thức áp bức…” [1]. Điều này cho
thấy khuyết tật hiện nay không chỉ là vấn đề của riêng mỗi quốc gia mà là vấn
đề mang tính toàn cầu và trẻ khuyết tật là trẻ nằm trong nhóm những trẻ em
dễ bị tổn thương nhất.
Một thực tế những năm qua ở Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề
xâm hại tình dục trẻ em nói chung và TKT cũng không phải ngoại lệ. Tình
trạng trẻ em bị xâm hại tình dục liên tục gia tăng với mức độ ngày càng phức
tạp. Nếu trước đây trẻ bị xâm hại từ 13-18 tuổi, thì nay xuất hiện nhiều vụ
việc ở lứatuổi từ 5-13 tuổi. Theo số liệu từ Bộ lao động thương binh và xã
hội (LĐTB-XH) trong năm ( 2011-2115) cả nước có 5.300 vụ xâm hại tình
dục trẻ em và có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên các chuyên gia cho rằng, số

vụ xâm hại tình dục trẻ em được ghi nhận tại Việt Nam trong những năm qua
thực tế chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”. Vấn đề này dễ gây nên những
hậu quả xã hội khôn lường và trở thành mối quan tâm, lo lắng không chỉ trong
cộng đồng mà còn cả ở các nhà nghiên cứu. Bởi lẽ, trẻ nếu như không được
trang bị những kiến thức và rèn các kỹ năng liên quan tới vấn đề này thì
1

Trích từ Báo cáo tình hình trẻ em thế giới năm 2013.
1


chúng rất dễ lâm vào tình trạng tổn thương nghiêm trọng về tâm, sinh lý và dễ
gặp nguy cơ cao về viêm nhiễm đường sinh dục, xuất huyết, ứ máu vùng
chậu, viêm nội mạc tử cung, viêm dính tử cung, vòi trứng đối với nữ, cũng
như rối loạn cương dương, xuất tinh sớm và đặc biệt là các bệnh lây truyền
qua đường tình dục, trong đó có HIV/AIDS đối với nam giới …
Theo ước tính của tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm có khoảng
250 triệu người mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Ở Việt Nam,
nhóm tuổi thanh niên từ 16 đến 30 tuổi có khoảng 6,1 triệu người chiếm 1,3
% tổng số người trong độ tuổi lao động. Còn theo Vụ Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ
em - Bộ Y tế, tỷ lệ trẻ em có thai trong tổng số người mang thai tăng liên tục
qua các năm: Năm 2010: 2,9%; năm 2011: 3,1%; năm 2012: 3,2%, tương ứng
tỷ lệ phá thai ở lứa tuổi này là 2,2% (2010), 2,4% (2011), 2,3% (2012) và số
trẻ bị xâm hại tình dục là 1.453 trẻ ( 2013 - theo báo cáo của quỹ Nhi đồng
Liên hiệp quốc UNICEF)… cũng là một con số không nhỏ bổ sung cho số ca
nạo phá thai và tỷ lệ làm mẹ ở trẻ
Trước tình hình này có tới: 46% các em tìm đến sự giúp đỡ của bạn bè,
24% gọi điện đến tổng đài; 13,5 % là giấu kín và 16,5% còn lại sử dụng các
phương pháp khác (theo Viện nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh).
Ở giai đoạn này, trẻ dậy thì vì thế phải trải qua những biến đổi to lớn về cơ

thể cũng như về tâm lí. Trẻ rất cần sự chỉ dẫn về giới tính, về tình yêu, về sự
thay đổi giới tính và về các mối quan hệ xã hội… nhưng ai sẽ là người mà các
em tìm đến khi gặp những vấn đề về giới tính nảy sinh ? không ít trẻ đã phải
hỏi đến bạn bè đồng trang lứa, bởi chúng cho rằng nói chuyện với bố mẹ và
với người lớn khác những người gần gũi nhất, người có thể cung cấp nhiều
thông tin tốt nhất, thì lại là những người chắc chắn không bao giờ đồng ý với
quan điểm đó của chúng. Những quan điểm này không những không được

2


chấp nhận mà có khi còn bị la mắng, quở trách…. Chính vì điều này mà
những thông tin trẻ nhận được không phải bao giờ cũng đúng.
Tại Trung tâm Nuôi dưỡng người có công và bảo trợ xã hội Tỉnh Bắc
Ninh đang nuôi dưỡng tập trung 170 đối tượng là TKT thuộc hộ gia đình
nghèo, cận nghèo và có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh. Trong
đó có 56 em khuyết tật nghe nói, 104 trẻ khuyết tật trí tuệ, 10 trẻ khuyết tật
vận động. Các em có độ tuổi từ 8-18 tuổi. Ở đây các em được học văn hóa
(giáo trình do Trung tâm tự biên soạn dựa theo giáo trình khung của Viện
khoa học và chiến lược), học nghề hướng nghiệp. Trong giáo trình dạy văn
hóa ở Trung tâm bao gồm: Toán, Tiếng Việt, Thủ công, Mỹ thuật, Hát nhạc,
Thể dục, Phát âm và kỹ năng sống. Ở đây chưa có giáo trình GDGT cho trẻ.
Do nhận thức của những nhà quản lý về TKT còn thấp, đặc biệt là năng lực và
trình độ chuyên môn về GDGT cho TKT của giáo viên còn hạn chế.
Từ thực tế giáo dục giới tính và vai trò của công tác xã hội nhóm đối với
giáo dục giới tính là rất quan trọng. Với tầm quan trọng về lý luận và thực tiễn
của vấn đề nêu trên tác giả đã chọn hướng nghiên cứu đề tài: “Công tác xã
hội nhóm trong nâng cao kiến thức và kỹ năng giáo dục giới tính cho trẻ
khuyết tật” (Nghiên cứu tại Trung tâm nuôi dưỡng người có công và bảo trợ
xã hội Tỉnh Bắc Ninh) .

2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế Giới.
Trên thế giới, hoạt động GDGT có mặt rất sớm nhưng được gọi với
những cái tên khác nhau chẳng hạn như sức khỏe vị thành niên, giới tính tình
dục thanh thiếu niên hay sức khỏe sinh sản tuổi mới lớn. Từ sau Hội nghị
quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) tại Cairo (4/1994) đã có định nghĩa
chính thức về GDGT, được thống nhất phổ biến đến mọi quốc gia trên thế
giới và là mối quan tâm của toàn xã hội.
3


Khảo sát các chương trình giáo dục giới tính ở Châu Á cũng đang có
những mức độ phát triển rất khác nhau. Indonesia, Mông Cổ, Hàn Quốc có
khung chính sách hệ thống về việc giảng dạy giới tính trong các trường học.
Malaysia, Philippines và Thái Lan đánh giá các nhu cầu sức khoẻ sinh sản
thanhniên. Ấn Độ có các chương trình với mục tiêu hướng tới trẻ em từ chín
tới mười sáu tuổi. Tại Nhật Bản, giáo dục giới tính là bắt buộc từ 10 hay 11
tuổi, chủ yếu đề cập tới các chủ đề sinh học như kinh nguyệt và xuất tinh. Tại
Trung Quốc và Sri Lanka, giáo dục giới tính truyền thống gồm đọc về đoạn
sinh sản trong các cuốn sách giáo khoa sinh học. Tuy nhiên, ở Bangladesh,
Myanmar, Nepal và Pakistan thì không có những chương trình GDGT như
vậy.[2]
Theo “Giáo dục giới tính toàn cầu”, tại các quốc gia Châu Âu, vào tháng
2/2000, Chính phủ Pháp đã quyết định đưa kiến thức giới tính lên Đài truyền
hình và Sóng phát thanh, đồng thời phát khoảng 5 triệu tờ rơi cho học sinh
phổ thông về các phương pháp tránh thai an toàn, hiệu quả. Tại Đan Mạch,
cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã có chương trình truyền hình được
Chính phủ tài trợ đã trở thành kênh thông tin quen thuộc về giới tính và SKSS
cho lứa tuổi VTN. Đan Mạch là nước có tỷ lệ trẻ VTN mang thai thấp nhất
thế giới và là hình mẫu “lý tưởng” cho các nước khác học tập cách thức

GDGT trong trường học.
Tại các quốc gia ở Châu Mỹ, các trường học đều đưa GDGT vào chương
trình học của học sinh lớp 7-12, có nơi bắt đầu từ lớp 5, lớp 6.Học sinh tiếp
cận với kiến thức giới tính thuộc 2 kiểu: toàn diện kiến thức chung chiếm
58% hoặc kiến thức sâu về một khía cạnh, vấn đề chiếm 34%.[3]

2

Theo giáo dục giới tính toàn cầu của trang

3

Theo giáo dục giới tính toàn cầu của trang
4


Tại Châu Phi, vấn đề SKSS-GDGT ở châu lục này tập trung vào việc
đẩy lùi nạn dịch AIDS thông qua hợp tác với Tổ chức Y Tế thế giới (WHO)
và các tổ chức phi chính phủ (NGO). Những chương trình này dạy cho họ và
con em của họ các cách “ABC”, với A để phòng chống AIDS, B là chung
thủy và C là dùng bao cao su.
Ở Ai Cập, trẻ từ 12-14 tuổi được giáo viên giảng dạy những kiến thức
giải phẫu sinh học như cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ, cơ chế hoạt động,
quan hệ tình dục, nguyên nhân có thai và các bệnh truyền nhiễm qua đường
tình dục.
Ở châu Phi, tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn dao động từ 50 – 90 % trong
số thanh niên chưa chồng và 25 – 40% trong số thanh niên có chồng.[4]
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước.
Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, cùng với công tác tuyên truyền,
giáo dục giới tính đã bắt đầu được quan tâm rộng rãi. Đề án Nghiên cứu về

giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời
sống gia đình) năm 1988 có kí hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được
Hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam thông qua và cho phép thực hiện với sự tài trợ của UNFPA và UNESCO
khu vực. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trần Trọng Thuỷ và Đặng Xuân Hoài,
Đề án đã được tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng
nhiều vấn đề như: quan niệm về tình bạn, tình yêu, hôn nhân; nhận thức về giới
tính và GDGT của giáo viên, học sinh, phụ huynh… ở nhiều nơi trong cả nước,
để chuẩn bị tiến hành GDGT cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.
Từ khoảng năm 1990 đến nay, ở Việt Nam đã có nhiều dự án Quốc gia,
nhiều đề tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính và
4

Theo giáo dục giới tính toàn cầu của trang
5


những vấn đề có liên quan như: giáo dục SKSS; giáo dục về tình yêu trong thanh
niên, học sinh; giáo dục đời sống gia đình; GDGT cho học sinh… Việc nghiên
cứu giới tính và giáo dục giới tính đã được sự quan tâm nhiều của Nhà nước, Bộ
Giáo dục và đào tạo, Bộ Y tế, các nhà khoa học và các bậc phụ huynh.
Cuộc điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ
nhất, được công bố cuối năm 2007. Đây là cuộc điều tra có quy mô lớn và
toàn diện nhất về thanh thiếu niên được triển khai, với gần 7.600 người tại 42
tỉnh, thành phố tham gia trả lời về giáo dục, việc làm, tình trạng sức khỏe sức khỏe sinh sản. Kết quả điều tra cho thấy: 7,6% số người trong độ tuổi
thanh niên có QHTDTHN, trong đó tỉ lệ nam thanh niên là 11,1%, nữ chỉ có
4%. QHTDTHN phổ biến nhất ở khu vực dân tộc thiểu số với 39,8% ở nam
thanh niên và 26,1% với nữ thanh niên. Tuổi quan hệ tình dục lần đầu của
thanh niên Việt Nam là 19,6…
Theo nghiên cứu gần đây của tác giả Vũ Mạnh Lợi (Viện Xã hội học

Việt Nam) về vấn đề “Tình dục trƣớc hôn nhân: Nghiên cứu so sánh thanh
niên Hà Nội, Thƣợng Hải và Đài Loan - Trung Quốc”, phần khảo sát 6.363
thanh niên Hà Nội ở độ tuổi 15-24 cho thấy: Tuổi trung bình khi quan hệ tình
dục lần đầu của nam, nữ thanh niên Hà Nội lần lượt là 20,15 và 20,34, thấp hơn
thanh niên ở Thượng Hải và Đài Loan. Đại đa số thanh niên đã sinh hoạt tình
dục cho biết họ tham gia lần đầu với người yêu hay vợ, chồng tương lai.Những
người này chiếm 83% ở Thượng Hải và 90% ở Đài Loan.Ở Hà Nội, tỷ lệ
những người này chỉ là 63%. Đặc biệt, 4% thanh niên trong số nghiên cứu đã
từng có hoạt động tình dục ở Hà Nội đã có lần đầu tiên làm tình với người bán
dâm, trong khi tỷ lệ này ở Thượng Hải, Đài Loan chỉ là 1%.[5]
Theo số liệu chính thức điều tra quốc gia về thanh niên và vị thành niên
thì 7,6% số thanh thiếu niên có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Tuổi quan
hệ tình dục lần đầu tiên của thanh niên Việt Nam là 19,6%, gần 80% thanh
6


niên chỉ quan hệ tình dục (QHTD) khi đã lập gia đình. Có tới 66,7% nam giới
chấp nhận QHTD trước hôn nhân. Tuy nhiên, trên thực tế, con số ấy có thể
lớn hơn rất nhiều. Điều đáng lưu tâm ở đây là các nghiên cứu cho thấy, xu
hướng quan hệ tình dục ngày càng trẻ hóa, có những em khoảng 12 đến 15
tuổi đã QHTD lần đầu. Nhiều người sẵn sàng quan hệ tình dục trước hôn nhân
trong khi những hiểu biết về sức khỏe tình dục, sinh sản của nhóm đối tượng
này còn rất hạn chế.
Nghiên cứu của tác giả Dương Thị Thu Hà với tên đề tài “ Lồng ghép
GDGT cho học sinh trong giảng dạy môn sinh học lớp 8 trƣờng THCS” năm
2008 là một mô hình GDGT cụ thể. Nghiên cứu này cho thấy, cách giảng dạy
mới của giáo viên, giúp học sinh có thể qua môn học sinh học mà tìm hiểu
thêm về những vấn đề giới tính mà ở tuổi của các em rất tò mò và nhiều thắc
mắc. Hơn nữa môn Sinh học là một bộ môn tương đối phù hợp để giáo viên
lồng ghép GDGT cho học sinh, đặc biệt là chương trình Sinh học 8, khi các

em được tìm hiểu các kiến thức về giải phẫu sinh lý người. Học sinh sẽ có
điều kiện khám phá các hoạt động sinh lý của cơ thể, giải thích một số hiện
tượng tâm sinh lý lứa tuổi, biết cách vệ sinh thân thể, giữ gìn sức khỏe bản
thân....Tuy nhiên, đề tài vẫn chưa đề cập đến một vấn đề đó là thời gian một
tiết trên lớp để giảng bài quá ngắn so với sự háo hức được học hỏi của các
em, hơn thế nữa vì là lồng ghép cho nên vấn đề về GDGT cụ thể vẫn chưa thể
giải đáp hết thắc mắc mà các em mong muốn. Đề tài này phân tích dưới góc
độ của một giáo viên phụ trách sinh học cho nên vẫn còn chưa lưu ý đến
những vấn đề tâm tư, tâm lý của các em.[6]
Tác giả Nguyễn Xuân Huệ với nghiên cứu “Nhận thức của học sinh lớp
9 về GDGT tại một số trƣờng THCS ở Quận 11 – Thành phố Hồ Chí Minh”
năm 2012 đã đề cập đến vấn đề nhận thức về GDGT của các học sinh lớp 9
tại một số trường trung học cơ sở ở Quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh, đồng
7


thời trình bày kết quả khảo sát thực trạng nhận thức về GDGT ở các mặt: mục
tiêu GDGT và nội dung GDGT trong các trường học tại địa bàn tác giả khảo
sát. Qua phân tích, đánh giá kết quả khảo sát, tác giả nhận thấy rằng đa phần
học sinh có nhận thức đạt yêu cầu về mục đích của GDGT với mức độ trung
bình trở lên. GDGT là một quá trình lâu dài, đòi hỏi dự kiên trì, bền bỉ. Do đó,
gia đình, nhà trường cần sự phối hợp đồng bộ, thống nhất.[7]
Đề tài “Vai trò của GDGT đối với tuổi thành niên hiện nay” của Nguyễn
Thị Lan năm 2013 cho thấy thực trạng về vấn đề GDGT hiện nay trong gia
đình, khi bước vào độ tuổi này, các em dường như có xu hướng độc lập trong
suy nghĩ và hành động, muốn được đối xử như người lớn, nhưng trong suy
nghĩ của nhiều bậc cha mẹ các em vẫn là những đứa trẻ vô tư và hồn nhiên, sự
bí ẩn về giới tính, lối giáo dục hiểu “kín kín mở mở” như vậy đã đưa trẻ vào
quá trình tự mày mò tìm hiểu. Đã bao giờ các bậc cha mẹ của ta tự hỏi rằng:
“trẻ tò mò gì xung quanh chuyện quan hệ tình cảm của ba mẹ” hay chưa?

Chính sự khác biệt trong suy nghĩ, sự xa cách về tâm lý đã làm tăng khoảng
cách giữa cha mẹ và con cái.[8]
Sách “Trò chuyện về giới tính tình dục và SKSS” của Trung tâm Giáo
dục Đạo đức Công dân (Viện Khoa học Giáo dục, Bộ giáo dục đào tạo), Cục
V26 (Bộ Công an) Trung tâm dạy nghề KOTO và Quỹ Dân số Thế Giới phối
hợp thực hiện được xuất bản năm 2007. Cuốn sách cung cấp cho giáo viên và
học sinh thông tin khoa học về sự thay đổi tuổi dậy thì, các cơ quan sinh sản
của nam và nữ, sự thụ tinh- thụ thai, thai nghén, tình bạn, tình yêu và tình dục,
các viêm nhiễm và bệnh lây truyền qua đường tình dục, kêt cả HIV/AIDS...
Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đề cập đến những hưỡng dẫn, gợi ý thiết thực
trong việc tự chăm sóc bản thân như: giữ gìn vệ sinh cơ quan sinh dục, chăm
sóc cuộc sống tinh thần và tình cảm, quan hệ tình dục có trách nhiệm và an
toàn, phòng tránh bị làm dục tình dục hay lạm dụng ma túy, tránh thai ngoài ý
8


muốn và phòng tránh HIV. Đặc biệt , cuốn sách còn giúp trẻ vị thành niêm
xác định và củng cố giá trị sống cũng như các kỹ năng sống cho bản thân, để
từ đó có được thái độ và hành vi lành mạnh về sức khỏe giới tính, tình dục và
hưỡng tương lai tốt đẹp.[9]
Công trình nghiên cứu về “Nhận thức về GDGT của những bậc cha mẹ
có con ở độ tuổi VTN” của tác giả Lê Thị Thu Hiền năm 2014 đề cập đến
những nguyên nhân và tác hại khi trẻ VTN thiếu kiến thức về vấn đề GDGT.
Đề tài đã đưa ra những kết luận sau khi nghiên cứu công trình và có một số
khuyến nghị giúp các bậc phụ huynh có cái nhìn toàn diện cũng như đúng đắn
về việc GDGT cho con cái một cách tốt nhất tránh nhiều trường hợp đáng tiếc
xảy ra.[12]
Cuốn sách “GDGT vì sự phát triển của VTN” của bác sĩ Đào Xuân Dũng
được xuất bản năm 2015 đã cho thấy sự cần thiết của GDGT đối với trẻ ở độ
tuổi VTN. Khi càng ngày, ở độ tuổi vị thành niên càng có nhiều ca phá thai

ngoài ý muốn diễn ra gây ảnh hưởng đến sức khỏe của các em cũng như nòi
giống tương lai của đất nước. Mục đích quan trọng nhất của GDGT là xây
dựng nhân cách tích cực cho tuổi VTN, sao cho nhân cách ấy phát triển phù
hợp với những yêu cầu của xã hội hiện đại: có mối quan hệ giới bình đẳng và
tôn trọng; có trách nhiệm về hành vi tình dục, thay vì hành động theo bản
năng. Cuốn sách giới thiệu về môn học GDGT, vai trò của gia đình, nhà
trường trong việc giáo dục VTN,…[18]
Chuyên đề ngoại khóa “GDGT cho học sinh cơ sở” của tác giả Lê Thế
Nhân là một mô hình GDGT hiện nay tại một số trường THCS, với đề tài này
tác giả đưa ra những nội dung mà mỗi lớp học về vấn đề GDGT. Ví dụ như
đối với lớp 6, lớp 7 học sinh sẽ được học về những hiện tượng về biến đổi tâm
sinh lý, lớp 8, lớp 9 các em được tiếp thu về các mối quan hệ khác giới như
tình bạn, tình yêu,...Tác giả cũng kiến nghị nên đưa GDGT thành một môn
9


học trong trường học để học sinh có thêm nhiều kiến thức, đáp ứng nhu cầu
của các em.[20]
Bác sĩ Nguyễn Duy Tài - Trưởng bộ môn Phụ sản - trường Đại học Y
dược thành phố Hồ Chí Minh với nghiên cứu “ Xác định tuổi VTN có thai và
các yếu tố nguy cơ” tại ba bệnh viện công thuộc thành phố Hồ Chí Minh
(Bệnh viện phụ sản Hùng Vương, bệnh viện Từ Dũ và trung tâm sức khỏe
sinh sản thành phố Hồ Chí Minh) cho thấy tuổi quan hệ tình dục của vị thành
niên ngày càng trẻ hóa. Năm 2005 thì độ tuổi QHTD lần đầu là 19,8 tuổi, cho
đến năm 2010 thì độ tuổi này giảm xuống còn 18 tuổi và đến 2012 khi khảo
sát các em đến khám tại Bệnh viện Từ Dũ, cá biệt có những em có QHTD tự
nguyện trước hôn nhân là 12 tuổi. Trước tình trạng trên, người lớn không khỏi
thắc mắc các em gặp vấn đề về skss cũng như tổn thương về tâm lý vậy các
em giải quyết như thế nào khi có QHTD sớm như vậy? Theo Bác sĩ Nguyễn
Duy Tài, những nghiên cứu này vừa giúp chỉ ra thực trạng về sức khỏe sinh

sản, sức khỏe tình dục của vị thành niên, thanh niên Việt Nam mà còn đưa ra
những đánh giá, kiến nghị nhằm giảm tỉ lệ có thai ngoài ý muốn của tuổi vị
thành niên.[22]
Nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Viện Nghiên cứu phát triển TP Hồ chí
Minh về “ Thực trạng giáo dục và trang bị kỹ năng sống về SKSS và sức khỏe
tình dục cho vị thành niên” tại thành phố Hồ Chí Minh cũng cho kết quả
tương đồng. Đó là có 12,6% vị thành niên có quan hệ bạn bè khác giới, trong
đó khoảng 1/4 là có người yêu và 3,2% từng có QHTD với tuổi trung bình là
14. Số ca nạo phá thai tuổi vị thành niên đang tăng lên với hơn 40% số ca.[23]
Bài viết “ Tại sao cần GDGT cho lứa tuổi vị thành niên” của trang Nhật
ký bé - Mạng xã hội dành cho mẹ và bé, nơi chia sẻ những điều cần biết về
chăm sóc sức khỏe mẹ và bé. Website được sở hữu và điều hành bởi NKB
Technology, cũng đã có bài viết nêu rõ một số nguyên nhân để chứng minh
10


rằng việc giáo dục kiến thức giới tính ở độ tuổi vị thành niên là rất quan trọng.
Trong bài viết này tác giả cũng đưa những con số cụ thể của việc trẻ không
được GDGT như: “ Việt Nam là nƣớc đứng thứ 5 thế giới về tình trạng nạo
phá thai ở tuổi vị thành niên. Theo số liệu của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, tỷ
lệ trẻ vị thành niên có thai trong tổng số ngƣời mang thai tăng lên liên tục
qua các năm: Năm 2010 là 2,9; 2011 là 3,1% và đến năm 2012 là 3,2% tƣơng
ứng với tỷ lệ phá thai ở lứa tuổi này là 2,2% năm 2010; 2,4% năm 2011 và
2,3% năm 2012.” Những số liệu cụ thể cũng đã phần nào minh chứng cho
việc GDGT ở trẻ VTN là rất quan trọng và cần thiết. Giúp các me trang bị đầy
đủ kiến thức cơ bản nhất về vấn đề giới tính chính là phòng tránh cho các em
những trường hợp đáng tiếc xảy ra.
Tác giả Đào Thị Vân Anh thuộc trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Phổ
thông cũng đã có bài viết “Cha mẹ với việc GDGT trong gia đình”. Tác giả đã
đưa ra những dẫn chứng cụ thể cần thiết về việc GDGT cho trẻ, những

nguyên nhân khách quan và chủ quan, hậu quả của việc GDGT không đúng
cách. Tác giả cũng đã nói rằng: “Giáo dục tình dục thật ra có mục đích duy
nhất là chuẩn bị cho con cái một tâm lý phù hợp nhất trong cuộc sống yêu
đƣơng để rồi có một đời sống tình dục thực sự hài lòng, thực sự hạnh phúc
trong quan hệ vợ chồng sau này.” Việc cha mẹ GDGT hay không GDGT cho
con cái và giáo dục thế nào cho đúng và hiệu quả sẽ ảnh hưởng rất lớn tới
việc phát triển tâm lý cũng như tình dục của trẻ bị sai lệch, hiểu sai về vấn đề
giới tính thì sẽ rất dễ mắc phải những hậu quả khôn lường. Tác giả cũng đã
kết luận rằng cần giáo dục giới tính cho trẻ tự nhiên, bình thường như các
chương trình giáo dục khác và phải có sự nối kết chặt chẽ hai chiều giữa cha
mẹ và con cái. Những phân tích cụ thể của tác giả Đào Thị Vân Anh đã cho
ta thấy tầm quan trọng của cha mẹ về vấn đề giáo dục giới tính đã viết cho trẻ,

11


giúp trẻ hoàn thiện hơn về việc định hướng và nhìn nhận, suy nghĩ đúng đắn
của kến thức về giới.[24]
Bài viết “GDGT và thái độ của ngƣời lớn” của tác giả Thụy Anh đăng
trên wedsite Tuoitre.vn. Bài viết đã cho chúng ta thấy, ngay từ khi còn rất nhỏ
trẻ đã có những thắc mắc, tò mò về vấn đề giới tính thông qua các câu được
đặt ra cho bố mẹ. Đó chính là những tìm hiểu đầu tiên về giới tính chính đáng
cần được bố mẹ giải đáp rõ ràng, khéo léo, dễ hiểu chứ không phải lảng tránh
hoặc lờ đi. Bắt đầu từ những hỏi - đáp như thế, bố mẹ có thể giáo dục giới
tính cho con rất nhẹ nhàng và tự nhiên. Nếu bố mẹ có thói quen bỏ qua không
đối mặt với những câu hỏi hóc búa của con hoặc những câu hỏi liên quan đến
các vấn đề tế nhị, không sớm thì muộn đứa trẻ sẽ tiếp cận nguồn thông tin
khác để thỏa mãn tò mò của mình. Vô hình chung, đây chính là bước đầu tiên
cho việc chính các phụ huynh bị sốc sau này khi bé con khoe những kiến thức
thu nhặt được bên ngoài, từ các nguồn đáng tin hoặc chưa được kiểm chứng.

Cũng theo tác giả vai trò của bố mẹ hoặc giáo viên rất quan trọng. Họ phải
vượt qua được cảm giác ngại ngùng khi bàn vấn đề này với trẻ và tỏ ra rất
bình thản, đúng mực, không hoảng hốt. Thái độ đó khiến trẻ nhìn vấn đề một
cách khoa học hơn và cũng không quá lo sợ khi nhìn ra thế giới. Thêm vào
đó, người lớn phải có thái độ chấp nhận và đối mặt với bất kỳ vấn đề gì trẻ
nêu ra, cũng lại một cách bình thản, để giữa trẻ và người lớn có thể có những
thảo luận thật sự, chân thành, không e ngại, cũng không tự đánh lừa mình
rằng “con/học trò của mình còn quá bé, chưa biết đến điều này đâu” Thái độ
tôn trọng, bình tĩnh, tiếp nhận vấn đề và sẵn sàng cùng giải quyết bất kỳ vấn
đề nào của trẻ là thái độ cần có trong GDGT.
Thực tế cho thấy, từ trước tới nay có rất nhiều các đề tài nghiên cứu về
thực trạng việc GDGT hiện nay, những sai lầm trong quan niệm của người
lớn, những thiếu hụt trong việc thực hiện chương trình GDGT... Các mảng
12


vấn đề liên quan tới kiến thức và kỹ năng của trẻ, đặc biệt là trẻ khuyết tật vẫn
còn bỏ ngỏ, chưa có nhiều nghiên cứu quan tâm, vì thế đây cũng chính là điều
mà Luận văn của tôi mong muốn hướng đến tìm hiểu nhằm giúp trẻ, đặc biệt
trẻ khuyết tật sống trong các Trung tâm nuôi dưỡng nâng cao hơn nữa kiến
thức về GDGT cho chúng trong điều kiện Việt Nam và đặc thù của địa
phương hiện nay.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần luận giải, sáng tỏ và làm
phong phú thêm lý luận cơ bản về một số khái niệm, một số lý thuyết trong
khoa học Xã hội học và tâm lý học như: Thuyết nhu cầu, thuyết hệ thống,
thuyết nhận thức hành vi và thuyết phân tâm và phương pháp trong làm việc
với nhóm
Đồng thời, kết quả nghiên cứu còn góp phần giúp mọi người trong xã hội

có cái nhìn khoa học hơn về vấn đề giáo dục giới tính, bởi trên thực tế không
ít người còn nhìn nhận sai lầm khi cho rằng trẻ em vẫn còn quá nhỏ để đề cập
tới vấn đề giáo dục giới tính và việc giáo dục giới tính là vai trò và trách
nhiệm của gia đình chứ không phải ai khác.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu giúp những người quản lý có cái nhìn khách quan và
vận dụng có hiệu quả kiến thức CTXH để xây dựng mô hình phù hợp với đối
tượng cụ thể.
Kết quả nghiên cứu cũng giúp NVCTXH- những người chăm sóc và trợ
giúp, cũng như nhà trường – nơi trẻ đang theo học văn hóa... có cái nhìn rõ
ràng hơn để có những quan tâm thấu đáo hơn tới tâm sinh lý của trẻ, từ đó để
có những trợ giúp cho trẻ được đúng và trúng hơn.

13


4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng kiến thức, kỹ năng GDGT của trẻ
em khuyết tật; Thực trạng hoạt động giảng dạy GDGT của Trung tâm cho trẻ
khuyết tật sống trong Trung tâm; Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới tình
trạng này ở trẻ. Từ đó áp dụng phương pháp CTXH nhóm vào quá trình hỗ trợ
nâng cao kiến thức, kỹ năng giáo dục giới tính cho trẻ khuyết tật sống trong
Trung tâm nuôi dưỡng Người có công và Bảo trợ xã hội Tỉnh Bắc Ninh được
hiệu quả hơn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Điều tra xã hội học qua các phương pháp định lượng, định tính để trình
bày một cách khoa học đánh giá các vấn đề giảng dạy GDGT của Trung tâm
và Kiến thức, kỹ năng GDGT của trẻ khuyết tật hiện đang sống trong Trung

tâm nuôi dưỡng Người có công và Bảo trợ xã hội Tỉnh Bắc Ninh.
- Phân tích các yếu tố nguyên nhân dẫn tới tình trạng hạn chế trong kiến
thức, kỹ năng GDGT ở trẻ khuyết tật hiện đang sống trong Trung tâm nuôi
dương Người có công và Bảo trợ xã hội Tỉnh Bắc Ninh.
- Tìm hiểu những Những vấn đề đặt ra từ kiến thức, kỹ năng về GDGT
của trẻ khuyết tật trong Trung tâm và những vấn đề đặt ra từ hoạt động giảng
dạy của giáo viên dạy về GDGT.
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao những kiến thức
và kỹ năng GDGT cho trẻ khuyết tật và thực nghiệm mô hình CTXH nhóm
trong nâng cao kiến thức và kỹ năng GDGT cho TKT hiện đang sống trong
Trung tâm nuôi dương Người có công và Bảo trợ xã hội Tỉnh Bắc Ninh.

14


5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội nhóm trong nâng cao kiến thức và kỹ năng GDGT cho
trẻ khuyết tật
5.2. Khách thể nghiên cứu
- Trẻ khuyết tật sống trong Trung tâm nuôi dưỡng Người có công và Bảo
trợ xã hội Tỉnh Bắc Ninh
- Giáo viên dạy trẻ khuyết tật tại Trung tâm Nuôi dưỡng người có công
và bảo trợ xã hội Bắc Ninh
- Nhà quản lý và người chăm sóc
5.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
- Thời gian nghiên cứu: Tháng 9/2017 - hết tháng 12/2017.
- Địa bàn nghiên cứu: Trung tâm Nuôi dưỡng người có công và bảo trợ
xã hội Bắc Ninh
- Giới hạn về nội dung nghiên cứu:

Nghiên cứu chỉ tập trung vào tìm hiểu một vài nhân tố cơ bản nhất dẫn
tới tình trạng hạn chế trong kiến thức và kỹ năng GDGT của trẻ khuyết tật
sống trong Trung tâm, tới tình trạng giảng dạy GDGT của Trung tâm và
nghiên cứu tập trung vào mô hình CTXH nhóm nhằm nâng cao kiến thức và
kỹ năng GDGT cho trẻ khuyết tật sống tại trung tâm.
7. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng kiến thức và kỹ năng GDGT của trẻ khuyết tật sống trong
Trung tâm Nuôi dưỡng người có công và bảo trợ xã hội Bắc Ninh hiện nay
như thế nào?
- Vai trò của nhân viên xã hội trong chương trình GDGT tại Trung tâm
Nuôi dưỡng người có công và bảo trợ xã hội Bắc Ninh hiện nay ra sao?

15


- Những nguyên nhân nào là cơ bản dẫn tới tình trạng kiến thức và kỹ
năng GDGT của trẻ khuyết tật sống trong Trung tâm Nuôi dưỡng người có
công và bảo trợ xã hội Bắc Ninh có được như hiện nay?
- Có thể áp dụng CTXH nhóm trong nâng cao kiến thức và kỹ năng
GDGT cho TKT sống tại Trung tâm Nuôi dưỡng người có công và bảo trợ xã
hội Bắc Ninh?
8. Giả thuyết nghiên cứu
- Trẻ khuyết tật sống trong Trung tâm Nuôi dưỡng người có công và bảo
trợ xã hội Bắc Ninh hiện nay chưa có nhận thức đầy đủ về tuổi dậy thì và
những biểu hiện của tuổi dậy thì, sức khỏe sinh sản vị thành niên, các khía
cạnh của quấy rối tình dục.
- Giáo viên với tư cách là Nhân viên CTXH ở trung tâm cũng đã tham
gia vào các chương trình GDGT nhưng chưa thực sự sát sao và vai trò của họ
chưa được đánh giá đúng nghĩa.
- Có nhiều nguyên nhân, nhưng nhận thức của trẻ khuyết tật và sự không

phong phú trong truyền tải kiến thức, trong rèn luyện kỹ năng của giáo viên
chính là những nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự thiếu hụt trong kiến thức và kỹ
năng GDGT của trẻ khuyết tật sống trong Trung tâm Nuôi dưỡng người có
công và bảo trợ xã hội Bắc Ninh hiện nay.
- Để nâng cao kiến thức và kỹ năng GDGT cho trẻ khuyết tật sống trong
Trung tâm Nuôi dưỡng người có công và bảo trợ xã hội Bắc Ninh, cần tăng
cường các hoạt động nhằm trang bị đầy đủ kiến thức về GDGT cho giáo viên,
hình thức truyền đạt phong phú, hấp dẫn cho Trẻ khuyết tật thông qua các
Câu lạc bộ giao lưu giữa các lớp trong Trung tâm, giữa Trung tâm với các
Trường học trong khu vực; kết hợp GDGT trong các môn học chính khóa…

16


- Nếu dùng CTXH nhóm có thể nâng cao kiến thức và kỹ năng GDGT
cho TKT để các em có thể tránh được những bệnh lây lan qua đường tình dục
và tránh bị xâm hại tình dục.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
9.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phân tích tài liệu chính là quá trình phân tích, phân chia, chia nhỏ những
số liệu, dữ liệu thành từng cụm, từng lĩnh vực, từng chi tiết cụ thể để tìm ra
những ý nghĩa của số liệu đó; sau đó lại tổng hợp lại, đưa ra nhận định và
những bình luận, làm sáng tỏ các quan điểm cần chứng minh. Phương pháp
này hết sức quan trọng trong nghiên cứu, bởi việc thu thập số liệu chưa có
tính quyết định, mà điều cốt lõi chính là những số liệu đó phản ánh điều gì.
Chính việc phân tích tài liệu sẽ cung cấp những cơ sở và luận cứ khoa học
cho nghiên cứu đang tiến hành.
Có rất nhiều nguồn dữ liệu chúng tôi tham khảo và tìm kiếm và tổng hợp
tài liệu. Các nguồn như thư viện Quốc gia Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội
Nhân văn, thư viện Viện Xã hội học, tư liệu, tài liệu của Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Cục Bảo vệ trẻ em và của các cơ quan, tổ chức hành

chính Nhà nước khác.... Bên cạnh đó, để phục vụ công tác nghiên cứu, chúng
tôi còn khai thác thông tin thu thập các văn bản, chính sách, chiến lược phát
triển và kế hoạch hằng năm liên quan tới Trẻ khuyết tật, tới hoạt động GDGT
cho trẻ em khuyết tật sống trong Trung tâm.... Báo cáo thống kê của Trung
tâm Nuôi dưỡng người có công và bảo trợ xã hội Bắc Ninh, các ban ngành
liên quan của địa bàn nghiên cứu. Tìm hiểu qua tư liệu về các chính sách,
quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự phát triển của trẻ em, đặc biệt là trẻ
khuyết tật- những trẻ dễ bị tổn thương.
Thu thập các số liệu về các thông tin cơ bản về điều kiện kinh tế xã hội,

17


×