Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Quan niệm về nhà nước của ch montesquieu trong tác phẩm “bàn về tinh thần pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

PHẠM THỊ THU PHƢƠNG

QUAN NIỆM VỀ NHÀ NƢỚC CỦA CH.MONTESQUIEU
TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

PHẠM THỊ THU PHƢƠNG

QUAN NIỆM VỀ NHÀ NƢỚC CỦA CH.MONTESQUIEU
TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chủ tịch Hội đồng



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

GS.TS. Nguyễn Vũ Hảo

PGS.TS. Nguyễn Quang Hƣng

Hà Nội - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
NỘI DUNG ................................................................................................... 8
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM VỀ NHÀ NƢỚC CỦA CH. MONTESQUIEU TRONG TÁC
PHẨM BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT ............................................. 8
1.1. Bối cảnh lịch sử Pháp và châu Âu thế kỉ XVII - XVIII ............................ 8
1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành của Ch. Montesquieu về nhà nước ...... 12
1.3. Cuộc đời, sự nghiệp của Ch. Montesquieu và tác phẩm Bàn về tinh thần
pháp luật ....................................................................................................... 26
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................... 36
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ NHÀ
NƢỚC CỦA CH. MONTESQUIEU TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ
TINH THẦN PHÁP LUẬT ....................................................................... 37
2.1. Quan niệm của Ch. Montesquieu về nguồn gốc nhà nước...................... 37
2.2. Quan niệm của Ch. Montesquieu về các hình thức nhà nước ........................ 43
2.3. Quan niệm của Ch.Montesquieu về pháp luật và nhà nước .................... 53
2.4. Quan niệm của Ch. Montesquieu về tam quyền phân lập ....................... 65
2.5. Đánh giá về những đóng góp và hạn chế trong quan niệm của Ch.
Montesquieu về nhà nước trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật.................. 77

Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................... 88
KẾT LUẬN ................................................................................................. 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 92

1


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Nhà nước luôn là một vấn đề nhận được sự quan tâm của nhiều nhà tư
tưởng, chính trị. Hơn nữa trong giai đoạn hiện nay trước những biến đổi lớn
của nền kinh tế thế giới đòi hỏi mọi nhà nước, không phân biệt hình thức cần
phải nhìn lại những vấn đề căn bẳn về tổ chức quyền lực nhà nước, về mối
quan hệ giữa quyền lực nhà nước và xã hội, về vai trò nhà nước trong sự phát
triển kinh tế. Nghiên cứu những tư tưởng triết học chính trị sẽ cho chúng ta
chìa khóa để hiểu sâu sắc hơn vấn đề “nhà nước”, từ đó cho chúng ta những
định hướng về một mô hình nhà nước đúng đắn.
Ch. Montesquieu – Đệ nhất Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, sinh ra trong
dòng dõi quý tộc nhưng suốt cuộc đời Montesquieu đã có những đóng góp
tích cực nhằm chống lại chế độ phong kiến, thiết lập những nguyên tắc căn
bản cho việc xây dựng thể chế chính trị mới. Montesquieu cùng với J.J.
Rousseau đã góp phần tạo nên một thời kỳ Khai sáng huy hoàng trong lịch sử
nhân loại nói chung và lịch sử văn hóa Pháp nói riêng. Là một chính trị gia,
nhà văn, triết học Pháp Montesquieu để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như;
Những lá thư Ba Tư, đặc biệt là tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. Tác
phẩm Bàn về tinh thần pháp luật cũng truyền cảm hứng cho các nhà lập quốc
Hoa Kỳ, yếu tố kỹ trị và tinh thần phân quyền rõ rệt để họ thiết lập nên bản
Hiến pháp. Montesquieu không chỉ là nhà luật học với tư duy sắc sảo, mà còn
để lại dấu ấn sâu sắc trong tư duy nhân loại với tư cách là một triết gia pháp
quyền. Đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống quan niệm về nhà nước trong

tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật góp phần khẳng định giá trị tư tưởng triết
học chính trị của Ch. Montesquieu.
Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dần và vì dân. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta đang đặt ra những vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn xã

2


hội như: tham nhũng, quan liêu…Đó là những biểu hiện của sự tha hóa quyền
lực nhà nước. Việc khắc phục tha hóa quyền lực là vấn đề cấp bách của chế
độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Để thực hiện được nhiệm vụ đó là một
quá trình lâu dài và đòi hỏi có sự nghiêm túc tổng kết cả về lý luận và thực
tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền. Bởi vậy, việc nghiên cứu vấn đế nhà
nước của Montesquieu trên tinh thần tiếp thu có phê phán tinh hoa tư tưởng
nhân loại góp phần nhận thức và tìm phương hướng cho những vấn đề thực
tiễn chính trị, xã hội ở nước ta, cũng như nhận thức những vấn đề học thuật
của triết học chính trị nói chung.
Với những lí do trên người viết đã quyết định chọn “Quan niệm về nhà
nước của Ch.Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật” làm đề
tài luận văn thạc sĩ của mình.
2.Tình hình nghiên cứu
`

Liên quan đến đề tài tác giả luận văn khảo sát nguồn tư liệu trên hai

hình thức:
-Thứ nhất là hình thức nghiên cứu về vấn đề nhà nước từ trước cho đến nay.
- Thứ hai là hình thức nghiên cứu liên quan tới nhà nước pháp quyền của các
triết gia và của Ch. Montesquieu.

Ở hình thức nghiên cứu thứ nhất, các nghiên cứu liên quan đến quan
niệm về nhà nước phải kể đến các công trình của nghiên cứu sau:
Tác phẩm Lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý của Hoàng Thị Kim Quế,
Nguyễn Đăng Dung đồng chủ biên (Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2015).
Trong phần đầu cuốn sách khái quát lịch sử chính trị, pháp lý một cách tổng
quan ở một số nước tiêu biểu từ phương Đông đến phương Tây. Trong phần
hai tác phẩm tập trung đi vào tư tưởng chính trị- pháp lý Việt Nam, từ khi
khai sinh nước Văn Lang- Âu Lạc đến tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.
Ở hình thức nghiên cứu thứ hai là các nghiên cứu liên quan tới nhà
nước pháp quyền của các triết gia trong đó có Ch. Montesquieu.

3


Tác phẩm Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ
máy nhà nước ở một số nước của Nguyễn Thị Hồi (Nxb Tư Pháp Hà Nội
,2005). Tác phẩm trình bày một cách cụ thể và có hệ thống về lịch sử ra đời
và phát triển của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước. Tư tưởng này có tư
thời cổ đại, được thể hiện trong việc tổ chức bộ máy nhà nước Hy Lạp, La Mã
và được thể hiện trong tư tưởng của Aristote và một số tác giả khác. Sau đó
nó được phát triển khá mạnh mẽ trong thời kỳ Cách mạng tư sản bởi John
Locke, Montesquieu, Rousseau và có ảnh hưởng lớn tới việc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước tư sản kể từ ngày đầu của Cách mạng tư sản cho
đến ngày nay, mặc dù sự áp dụng có mức độ khác nhau tùy theo điều kiện
hoàn cảnh của mỗi quốc gia. Cũng như sự thể hiện và áp dụng tư tưởng này
trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước trên thế giới và có sự liên hệ ở mực
độ cần thiết thực tiễn tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam
nhằm tìm ra mô hình nhà nước và cơ chế thực hiện có hiệu quả sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.

Một tác phẩm khác đó là Triết học pháp quyền của Montesquieu với
việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của Lê Tuấn Huy (Nxb Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006). Đây là một tác phẩm đã nêu được khá
chi tiết về các quan niệm triết học pháp quyền của Montesquieu. Khi tìm hiểu
các đặc trưng của nhà nước pháp quyền, Lê Tuấn Huy đã soi chiếu từ cấu trúc
của hệ thống quyền lực. Theo đó tác giả đi phân tích tích trên các phương
diện : chủ thể quyền lực chính trị, khách thể quyền lực chính trị và phương
tiện quyền lực chính trị. Tác giả cũng nêu các đặc điểm cốt lõi giữa nhà nước
pháp quyền và nhà nước không pháp quyền (nhà nước vương quyền, giáo
quyền, chuyên quyền). Tác phẩm có nhiều đánh giá mà người viết có thể tiếp
thu trong luận văn của mình như: “dưới nhà nước pháp quyền, quyền lực
chính trị và quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” hay “pháp luật trở thành

4


phương tiện của cả chủ thể và khách thể quyền lực” [39, 89]. Đồng thời, tác
giả Lê Tuấn Huy còn đưa ra nhiều phân tích về nhà nước pháp quyền, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu triết học
pháp quyền của Montesquieu.
Trên tạp chí Khoa học chính trị số 2 năm 2006, tác giả Lê Thị Anh Đào
với bài viết về: Về khái niệm nhà nước pháp quyền.Trong đó, tác giả đã làm
rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn của khái niệm nhà nước pháp quyền, phân
tích những dấu hiệu đặc trưng về nhà nước pháp quyền và từ sự phân tích đó
tác giả đưa ra quan niệm của mình về nhà nước pháp quyền.
Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế (2012) Nhà nước pháp quyền – một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, tác phẩm là tập
hợp những nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về nhà nước pháp
quyền được trình bày trong hội thảo. Giúp cho người đọc có cái nhìn xuyên
suốt lịch sử nhà nước pháp quyền từ phương Đông đến phương Tây, từ lý

luận đến thực tiễn, cũng như các vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Triết học chính trị Jean Jacques Rousseau và ý nghĩa lịch sử của nó là
đề tài luận án tiến sĩ triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009 của Dương Thị Ngọc Dung. Tác giả đã
lấy điểm khởi đầu của triết học Chính trị J.J. Rousseau là phê phán bất bình
đẳng và tha hóa con người. Sau đó đi đến quan niệm thống nhất quyền lực
nhà nước và những tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân trong Bàn
về khế ước xã hội, cũng như triết lý kiến tạo mẫu người công dân tự do cho xã
hội dân chủ lý tưởng trong Emile, hay vấn đề giáo dục. Cuối cùng tác giả luận
án tiến sĩ phân tích giá trị và ảnh hưởng của triết học chính trị J. J. Rousseau
tới sự vận động của cách mạng thế giới và mối liên hệ lịch sử tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với triết học
chính trị J.J. Rousseau.

5


Tác giả Nguyễn Thị Hoàn với Quan niệm về nhà nước pháp quyền của
Montesquieu trong Bàn về tinh thần pháp luật và ý nghĩa của nó với xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, năm 2009.
Luận văn làm rõ quan niệm cơ bản về nhà nước pháp quyền của Montesquieu
trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã bước đầu đưa ra các
cách hiểu khác nhau về nhà nước và nhà nước pháp quyền, cũng như việc ứng
dụng mô hình Nhà nước pháp quyền vào việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên chưa có đề tài nào đi nghiên
cứu chuyên sâu quan niệm chung về Nhà nước của Montesquieu mà người
viết chọn làm đề tài nghiên cứu trong công trình khoa học của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Luận văn làm rõ những quan niệm cơ bản về nhà nước
nước của Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, từ đó chỉ ra
những giá trị và hạn chế của quan niệm đó.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ hoàn cảnh và nội dung chính trong tác phẩm của Montesquieu
- Phân tích những nội dung viết về Nhà nước trong tác phẩm của
Montesquieu
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của Ch. Montesquieu về nhà nước
* Phạm vi nghiên cứu: Với những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
trên, luận văn tập trung nghiên cứu dưới góc độ triết học những nội dung cơ
bản của quan niệm về nhà nước Ch. Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh
thần pháp luật.

6


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở lý luận Marx – Lenin và tư tưởng
của Hồ Chí Minh về nhà nước, xã hội.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử
dụng cá phương pháp nghiên cứu cụ thể như thống nhất lịch sử - logic, phân
tích với tổng hợp, quy nạp với diễn dịch, trừu tượng hóa, đối chiếu, so sánh,
đánh giá…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu chuyên sâu tư tưởng của Ch. Montesquieu về vấn
đề nhà nước, qua đó góp phần khẳng định những giá tị tư tưởng triết học của
Ch. Montesquieu trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập môn lịch sử triết
học phương tây và những ai tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
có 2 chương, 8 tiết. Trong đó:
Chương 1: Bối cảnh, tiền đề cho sự hình thành quan niệm về nhà nước
của Ch. Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật
Chương 2: Nội dung cơ bản của quan niệm về nhà nước của Ch.
Montesquieu trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật

7


NỘI DUNG
Chƣơng 1: BỐI CẢNH, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM VỀ NHÀ NƢỚC CỦA CH. MONTESQUIEU TRONG TÁC
PHẨM BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT
1.1. Bối cảnh lịch sử Pháp và châu Âu thế kỉ XVII - XVIII
Thế kỉ XVII – XVIII ở Châu Âu là thời kỳ hình thành và phát triển
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất, cùng với nó vai trò của giai cấp tư sản cũng được thừa nhận
trong xã hội. Do yêu cầu phát triển công trường thủ công và các ngành công
nghiệp, yêu cầu phát triển kỹ thuật chế tạo tàu biển và kỹ thuật quân sự mà
các ngành như đóng tàu, in ấn, luyện kim… đã ra đời. Đáp ứng nhu cầu phát
triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản, khoa học đặc biệt là khoa học
tự nhiên, với những phát minh về kính hiển vi, kính viễn vọng, máy hút khí…
đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khoa học thực nghiệm. Trong đó
những thành tựu có ảnh hưởng lớn đến tư duy lý luận như thuyết nhật tâm của
Nicolas Copernic được coi là hành vi đầu tiên của con người chống lại uy
quyền của nhà thờ phong kiến, từ đó trở đi khoa học tự nhiên được giải phóng

khỏi thần học. Isaac Newton là nhà vật lý vĩ đại của thế kỉ XVIII, đóng góp
nổi bật nhất của ông là định luật vạn vật hấp dẫn, qua đó chứng minh mọi sự
vật hiện tượng trên thế giới đều vận động và phát triển theo quy luật cơ học
này. Trong sinh học Wiliam Harvey đã tìm ra sự tuần hoàn của máu trong cơ
thể người, từ đó trong triết học hình thành quan điểm về mối quan hệ chặt chẽ
giữa thể xác và ý thức. Toán học gắn với các phát minh của R. Decesscartes
và Leibniz, các thành tựu khoa học này có ý nghĩa to lớn đối với sản xuất,
đồng thời chúng là cơ sở thực tiễn để triết học duy vật giải thích thế giới,
chống lại những tư tưởng bảo thủ tôn giáo. Cùng với nó những phát hiện địa
lý đã đem lại không gian thương mại mới cho các nước châu Âu trên phạm vi

8


toàn thế giới, khiến cho sự thông thương được tăng cường, tạo điều kiện phát
triển hơn nữa nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Khát khao trở dậy vươn mình trong ánh bình minh của nền văn minh
công nghiệp ấy của người châu Âu cùng với ước muốn giải phóng mình đã
dẫn đến việc nổ ra nhiều cuộc cách mạng tư sản lớn, hình thành nên các quốc
gia tư sản ở Tây Âu với tiềm lực về mọi mặt. Cuộc cách mạng tư sản đầu tiên
nổ ra ở Hà Lan, sau đó cuộc cách mạng tư sản Anh (1642 -1648) báo hiệu giờ
cáo chung của chế độ phong kiến châu Âu đã đến. Tiếp theo, đại cách mạng
Pháp (1789 -1794) nổ ra đã có ảnh hưởng lớn tới lịch sử thế giới nói chung và
lịch sử triết học châu Âu cận đại nói riêng. Các cuộc cách mạng tư sản đã làm
cho giai cấp tư sản chính thức bước lên vũ đài chính trị và giành chính quyền
thống trị ở các nước. Sự mở rộng giao lưu trao đổi hàng hóa góp phần phá vỡ
những quan hệ phong kiến chật hẹp của nền kinh tế tự cung tự cấp. Sự giao
lưu về kinh tế kéo theo sự giao lưu về văn hóa tư tưởng giữa các nước cũng
ngày càng mở rộng. Phong trào văn hóa phục hưng phát triển đến đỉnh cao
vào thế kỉ XVI và lan mạnh ra các nước tạo thành một làn sóng rộng lớn làm

biến đổi xã hội sâu sắc. Một loạt các trào lưu tư tưởng mới ra đời nhằm phản
bác lại thực tiễn xã hội, trong phong trào này những giá trị văn hóa, tinh hoa
của thời kỳ cổ đại ở Tây Âu được khôi phục. Có thể nói, sự quá độ từ chế độ
phong kiến sang chế độ tư sản chủ nghĩa là nền tảng thực tiễn xã hội của triết
học Tây Âu thế kỉ XVII – XVIII. Nền tảng thực tiễn ấy đã đưa tới một thế
giới quan mới cho các nhà triết học thời kỳ này như: F. Becon, T. Hobbes, J.
Locke và sau này là Ch. Montesquieu và J.J. Roussau.
Trước cuộc cách mạng 1789, Pháp là một nước quân chủ phong kiến.
Nhà vua nắm trong tay mọi quyền lực và không chịu bất kỳ sự kiểm soát nào.
Trong suốt thế kỉ XVIII, mặc dù là nước đứng thứ hai ở châu Âu sau Anh,
song nhìn chung Pháp vẫn là nước nông nghiệp lạc hậu với phần đông dân số
là nông dân. Công cụ và phương pháp sản xuất canh tác thô sơ, năng xuất lao

9


động thấp. Đất đai tập trung chủ yếu trong tay các lãnh chúa phong kiến. Các
đời vua Lonis thay thế nhau đều tiếp tục tăng cường cách cai trị độc đoán và
cuộc sống xa hoa lãng phí của các đời vua trước. Triều đình ra sức bóc lột dân
chúng bằng thuế khóa nhằm phục vụ cho cuộc sống xa xỉ của tầng lớp quý tộc
và không hề chú ý tới phát triển sản xuất. Hệ quả tất yếu của tình trạng đó là
nạn mất mùa, đói kém xảy ra hàng năm liên tiếp ở khắp mọi nơi. Cũng trong
thế kỉ XVIII ở Pháp có một số địa chủ đã tổ chức sản xuất theo phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa trên đất đai của mình. Họ tập trung đất đai lại, xua
đuổi những nông dân đang canh tác lâu đời trên mảnh đất đó đi nơi khác. Đồng
thời họ ứng dụng các thành tựu kỹ thuật du nhập từ Anh vào quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, đó là công việc diễn ra hiếm hoi ở một vài nơi và cũng chưa có vai
trò đáng kể trong nền kinh tế - xã hội Pháp. Đại bộ phận người dân Pháp lúc
bầy giờ vẫn canh tác theo phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu.
Do ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp diễn ra sôi nổi ở eo biển

Măng sơ, công nghiệp Pháp đến nửa cuối thế kỉ XVIII đã có sự phát triển. Ở
một số nơi, người ta đã xây dựng nhà máy đường, xưởng đóng tàu, xưởng dệt,
mỏ khai thác kim loại tương đối lớn. Ngoài ra, việc mua bán với nước ngoài
cũng ngày một mở rộng “dọc theo biên giới từ phía bắc xuống đến tây nam,
người ta thấy nhiều trung tâm kinh tế quan trọng: Ruăng và Havrơ, nơi tập
trung công nghiệp vải sợi; hải cảng Năngtơ và Boođô trông ra Đại Tây
Dương, nơi buôn bán hương liệu sầm uất với các đảo phương Đông: phố
Lyông sản xuất hàng tơ lụa và nhung nổi tiếng châu Âu. Về phía đông giáp
giới nước Đức có Anhat và Lôren, trù phú nguyên liệu với những lò luyện
kim lớn.” [43, 64]. Tình hình thương nghiệp cũng khá phát triển, Pháp mở
rộng buôn bán với nhiều nước ở châu Âu, châu Mỹ và phương Đông. Buôn
bán nô lệ da đen đã đem lại lãi xuất lớn cho ngành thương nghiệp Pháp. Tuy
nhiên, chế độ phong kiến áp dụng quy chế khắt khe như thuế nặng, sự kiểm
soát chặt chẽ, sản xuất theo khuôn mẫu bắt buộc đã ngăn cản sự phát triển của

10


công thương nghiệp. Và nhìn chung, nửa cuối thế kỉ XVIII những yếu tố tư
bản chủ nghĩa đã nảy sinh và phát triển khá rõ trong lòng chế độ chuyên chế
Pháp. Song với tính chất bảo thủ trì trệ, nhà nước quân chủ phong kiến đã tìm
mọi biện pháp để ngăn cản sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Và do đó, việc
xóa bỏ sợi dây ràng buộc của phong kiến với sự phát triển của lực lượng sản
xuất đang đi lên đã trở thành một yêu cầu khách quan và tất yếu của lịch sử
nước Pháp khi đó.
Xã hội Pháp thế kỉ XVII được chia làm ba đẳng cấp là: tăng lữ, quý tộc
và “đẳng cấp thứ ba” bao gồm tất cả những tầng lớp còn lại: tư sản, nông dân,
bình dân thành thị.... Trong ba đẳng cấp đó, tăng lữ là đẳng cấp trên, được
hưởng mọi đặc quyền đặc lợi của xã hội, và có liên hệ chặt chẽ về dòng họ,
tuy chiếm một số ít trong xã hội nhưng bản thân họ lại giữ vị trí thống trị

nước Pháp phong kiến. Đẳng cấp thứ ba họ là những người chiếm số đông
trong xã hội nhưng lại không có chút quyền lực chính trị nào. Sự phân biệt ba
đẳng cấp trong xã hội Pháp lúc đó được quy định theo công thức: tăng lữ phục
vụ nhà vua bằng lời cầu nguyện, quý tộc bằng lưỡi kiếm, đẳng cấp thứ ba
phục vụ tăng lữ và quý tộc bằng của cải.
Cùng với sự phát triển của công thương nghiệp, bước sang thế kỉ
XVIII, giai cấp tư sản ngày càng có thế lực hơn về kinh tế. Họ nắm trong tay
nhiều xí nghiệp, nhà máy, các ngành nội – ngoại thương, thậm chí cả một số
ruộng đất nhất định. Bọn quý tộc thiếu tiền ăn chơi phải vay nợ của các nhà tư
sản mới. Giai cấp tư sản vừa giàu có lại có tri thức nên họ nhanh chóng trở
thành những người đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ trong xã
hội. Giai cấp tư sản mong muốn tham gia chính quyền, xóa bỏ sự ngặt nghèo
các luật lệ của đất nước chuyên chế để phát triển công thương nghiệp. Những
mong muốn của giai cấp tư sản hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của đa số
nhân dân trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. Vì thế, giai cấp tư sản Pháp nhanh chóng
chiếm đa số dân chúng ủng hộ làm cách mạng chống lại chế độ phong kiến.

11


Có thể thấy khá rõ tình hình xã hội Pháp lúc đó tồn tại những mâu
thuẫn mà tính chất của chúng phức tạp hơn so với các nước khác cùng thời ở
châu Âu. Hầu hết các nhà Khai sáng Pháp như Montesquieu, Vonte, Rousseau
đều sinh thời trong điều kiện lịch sử này. Và chính yếu tố thời đại đó đã ảnh
hưởng không nhỏ tới tư tưởng của các triết gia. Cuộc đại cách mạng năm
1789 là tiếng chuông cáo chung với chế độ phong kiến Pháp và mở ra một
thời đại mới trong lịch sử nước Pháp. Đây là cuộc cách mạng tư sản sâu sắc
và toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại chống lại chế độ phong kiến. Thắng
lợi của cuộc cách mạng đó phải kể tới vai trò tích cực của giai cấp tư sản –
những người đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ khi ấy. Đồng

thời, người ta cũng không quên ơn những nhà triết học Khai sáng. Chính
những tư tưởng của họ đã trở thành tiền đề lý luận mở đường cho cuộc cách
mạng năm 1789 đi tới thắng lợi, đập tan xiềng xích của chế độ phong kiến tồn
tại lâu đời ở Pháp.
1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành của Ch. Montesquieu về nhà nước
Quan niệm về nhà nước của Montesquieu không phải ra đời trên mảnh
đất trống mà nó là sự tiếp nối dòng chảy chung của lịch sử tư tưởng nhân loại.
Ngay từ thời kỳ cổ đại, những mầm mống tư tưởng về nhà nước đã xuất hiện.
Lúc đầu nó chỉ được thể hiện dưới dạng những ý tưởng, những quan niệm còn
đơn giản về vâ đề tổ chức quyền lực nhàn nước và việc giải quyết mối quan
hệ giữa nhà nước và pháp luật. Theo tiến trình lịch sử thì những ý tưởng về
nhà nước ngày càng được các nhà triết học định hình một cách rõ nét.
Khi nói đến hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây, nhiều nhà
khoa học vẫn hay dẫn câu thơ nổi tiếng của Joseph Rudyard Kipling:
“Ô, Đông là Đông, Tây là Tây, Đông và Tây không bao giờ gặp gỡ
Cho đến một khi Đất và Trời chưa về ngày phán xử
Nhưng sẽ chẳng có Đông và Tây, không quê hương, bộ tộc, giống nòi
Khi hai người đàn ông lực lưỡng từ đường biên mặt đối mặt không thôi.”
[Dẫn theo 74]

12


Sự khác biệt Đông – Tây là có thật và nằm ẩn sâu trong truyền thống
văn hóa và văn minh của hai khu vực lớn này. Do quy định bởi những điều
kiện riêng về kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội, nên phương Đông và
phương Tây có những đặc thù khu vực riêng đồng thời qua hàng nghìn năm
lịch sử, do điều kiện cách biệt về chủng tộc và địa lý, giữa phương Đông và
phương Tây đã hình thành những khác biệt không khó nhận ra. Đối với triết
học dù rằng tất cả đều đi đến mục đích là nắm được tri thức về thế giới quan,

nhân sinh quan, thì sự khác biệt về tư duy, khuynh hướng nhận thức cũng tạo
nên sự khác biệt rõ rệt giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây.
Dẫu rằng quan niệm về nhà nước được xuất hiện từ rất sớm có cả ở hai đầu
văn hóa Đông – Tây. Nhưng bởi những khác biệt đã nêu mà người viết chỉ xin
lược khảo một số quan niệm về nhà nước của các tác gia phương Tây, đó
không chỉ là sự đồng điệu trong mạch suy tư mà còn có sự kế thừa nhau một
cách trực tiếp.
1.2.1. Quan niệm của Platon về nhà nước
Platon (427 – 347 TCN) là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng
kiệt xuất nhất thời cổ đại, là người sáng lập chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Ông là học trò nổi tiếng của Socrates, là một trong bảy nhà hiền triết của Hy
Lạp cổ đại. Cũng như Socrates, mối quan tâm hàng đầu của Platon trong triết
học xã hội là vấn đề phẩm hạnh. Bốn phẩm hạnh thường xuyên được nhắc
đến là tiết độ, can đảm, khôn ngoan, công bằng, dựa theo cách phân tầng linh
hồn, phân tầng xã hội và quan hệ giữa người với người. Platon đưa ra các kiểu
thị quốc Hy Lạp cổ đại :
Thứ nhất là quân chủ - sự cai trị của một người tốt, và hình thức xuyên
tạc của nó - bạo chính.
Thứ hai là quý tộc - sự cai trị của một số người tốt, và hình thức xuyên
tạc là - hoạt đầu, hay tập đoàn thống trị bằng những phương tiện không hợp
lòng dân.

13


Thứ ba là dân chủ - sự cai trị của nhiều người, hay của toàn thể dân
chúng. Tất cả những hình thức nhà nước tốt đẹp nhất trong lịch sử vẫn chưa
phải là nhà nước công bằng lý tưởng. Vậy thế nào là một nhà nước công bằng
lý tưởng? Thì theo Platon, trước hết nhà nước đó phải được xây dựng từ
những thành tố công dân khác nhau, chiếm những địa vị xã hội khác nhau,

thực hiện đúng những chức phận của mình tùy theo năng lực cá nhân. Công
bằng không có nghĩa là cào bằng, mà “phù hợp với trật tự tự nhiên” của sự
vật. Sự xác định các đẳng cấp của xã hội dựa trên sự phân chia cơ cấu linh
hồn: a) các triết gia - cai trị gia, hay đẳng cấp vàng, tương ứng với phần lý trí
của linh hồn; b) các chiến binh, hay đẳng cấp bạc, tương ứng với phần ý chí
của linh hồn; c) những người lao động chân tay và buôn bán, hay đẳng cấp
đồng và sắt, tương ứng với phần dục vọng của linh hồn. Tiếp theo, nhà nước
lý tưởng là nhà nước mà trong đó mọi người luôn được sống êm đềm, hạnh
phúc, đầy đủ và thỏa mãn bởi những gì họ đã tạo ra. Ông viết: “họ sẽ sản xuất
thóc lúa và rượu, dệt may quần áo và giày dép. Về lương thực, họ sẽ chuẩn bị
bột mì và lúa mạch để làm bột và bánh, có những chiếc bánh nướng to và
ngon…, rồi họ sẽ ngả mình trên những chiếc giường bằng gỗ hương, vui đùa
với vợ con họ, uống rượu sau bữa tiệc với những chiếc vương miện bằng hoa
trên đầu và ca hát tán dương các thần.” [27, 78]. Nhà nước lý tưởng của
Platon là một chế độ cộng đồng khắt khe không những cho các nhà cầm
quyền mà còn cho cả binh lính. Tất cả mọi thứ đều là của chung, tất cả nhà
cầm quyền và binh lính đều ăn chung, sống chung trong những doanh trại,
không có tư hữu ngoài những gì thiết yêu nhất cho cuộc sống. Tuy không giàu
có, nhưng không phải vì vậy mà họ không hạnh phúc, vì mục đích của cộng
đồng là hạnh phúc cho toàn dân chứ không phải cho riêng một giai cấp nào.
Chế độ cộng đồng không những được áp dụng trong khuôn khổ kinh tế, mà
còn được áp dụng cả trong khuôn khổ nhân sự, gia đình. Platon viết: “đàn bà
là của chung mọi người, không một đàn bà nào sống riêng tư với một đàn ông

14


nào riêng tư cả” và “con cái phải là của chung, không người cha nào được biết
đến con đẻ của mình, cũng như không đứa con nào được biết đến cha đẻ của
mình” [27, 138]. Sau khi những đứa trẻ được sinh ra, chúng sẽ được giao cho

những người có chuyên môn trông coi, những người này có thể là nam hay
nữ. Những người này sẽ chăm sóc chúng và “sẽ đưa các bà mẹ của chúng đến
cho chúng bú vào lúc căng sữa, nhưng không được cho những bà mẹ biết đứa
con nào là của họ”.
Platon gắn liền nhà nước lý tưởng với quyền tối thượng của luật pháp.
Mọi công dân của nhà nước, không phụ thuộc vào địa vị của họ, đều phải
phục tùng pháp luật như nhau. Trong tác phẩm Luật pháp Platon đã xây dựng
một hệ thống luật pháp chặt chẽ chưa từng có, với sự cấm đoán mọi tự do, với
sự tôn vinh thực tiễn Ai Cập dường như bất động trong suốt mười nghìn năm.
Tính hà khắc của những hình phạt vì những tội lỗi nhỏ nhất vốn đặc trưng cho
toàn bộ thực tiễn lập pháp và hành pháp của nhà nước lý tưởng mà Platon
nghĩ ra đã vượt quá tất cả các chế độ hà khắc nhất trong lịch sử nhân loại. Để
bảo vệ pháp luật, Platon đòi hỏi tất cả mọi người phải thường xuyên hát ca và
nhảy múa. Nội dung duy nhất của các bài hát và điệu múa cần phải là những
lời ngợi ca hệ thống pháp luật, những lời tán dương pháp luật, những người
làm luật và các nhà sách lược. Thực chất, các bài hát và điệu nhảy toàn nhân loại
kiểu đó được Platon đưa vào chỉ để che dấu sự hà khắc dã man của nhà nước mà
ông muốn xây dựng. Như vậy, Platon đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối của cá nhân
đối với nhà nước. Sự phục tùng như vậy thực sự “tước mất quyền có cuộc sống
riêng tư của công dân trong nhà nước mà ông phác họa ra, tự do cá nhân chỉ
được thừa nhận ở mức độ cần thiết cho nhà nước” [22, 150].
Như vậy nhà nước lý tưởng mà Platon hình dung là một tổ chức đạo đức
– chính trị hoàn hảo, giải quyết các nhiệm vụ cơ bản như đảm bảo an ninh xã
hội và chủ quyền thị quốc, các nhu cầu vật chất thiết yếu và phúc lợi cho xã
hội, định hướng hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học. Nguyên lý của

15


nhà nước lý tưởng là công bằng, mục tiêu của nó - cái thiện, phương tiện của

nó – giáo dục. Platon chủ trương một nền văn hóa đề cao cái đẹp tinh thần, lý
tưởng. Có thể nhận thấy trong nhà nước lý tưởng của Platon tư tưởng nhân
văn – khai sáng đan xen với một số yếu tố của chủ nghĩa cộng sản không
tưởng thô thiển và chủ nghĩa quý tộc thượng lưu. Platon phê phán nền dân
chủ trong thời kỳ khủng hoảng của nó, với bốn biểu hiện là tính mâu thuẫn,
tính man rợ hóa, tính thiếu quyết đoán và tính thái quá, đồng nhất bản chất
của dân chủ với những biểu hiện nhất thời, đối lập dân chủ với mô hình nhà
nước lý tưởng mà thực chất là sự dung hợp tinh thần Hy Lạp thời đại anh
hùng ca với chế độ quả đầu quân sự hóa tại Xpacto. Với những hạn chế của
nhà nước không tưởng đó, sau này đã được chính học trò của ông là
Aristotle phê phán. Tuy vậy, Platon đã đưa ra quan niệm chính trị pháp lý
đại diện cho lý tưởng cao đẹp với sự gắn kết của hai yếu tố nhà nước và
pháp luật. Bên cạnh đó, Platon cũng cảnh báo về nguy cơ lạm dụng quyền
lực của các chế độ nhà nước như: Chế độ quân chủ, chế độ quý tộc. Sự biến
chất này diễn ra vì các nhà cầm quyền có xu hướng quan tâm đến lợi ích vị
kỷ nhiều hơn là vì nhân dân. Chính những điểm này làm cơ sở cho các triết
gia về sau, cũng như Montesquieu trong việc xây dựng các học thuyết về
nhà nước và sự cần thiết của pháp luật trong đời sống chính trị.
1.2.2. Quan niệm của Aristotle về nhà nước
Aristotle (384 – 322 TCN), một trong những nhà triết học vĩ đại nhất
thời cổ Hy Lạp. Ông là nhà triết học có kiến thức uyên thâm trong nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là lĩnh vực chính trị. Trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp của 158
nhà nước đơn nhất và liên bang, Aristotle đã viết hai tác phẩm Chính trị hay
Luận về chính quyền.
Ông là học trò của Platon, tuy vậy ông có nhiều điểm không nhất trí với
người thầy của mình. Với phương châm “Platon là người thầy nhưng chân lý
quý hơn” [Dẫn theo 71, 195]. Aristotle phê phán quan niệm về nhà nước lý

16



tưởng của Platon. Ông cho rằng “có rất nhiều khó khăn trong một cộng đồng
mà mọi người đều chung vợ con” và đó là một mô hình không thực tế. Vì
theo Aristotle, nếu một quốc gia có chung vợ con, nghĩa là quốc gia đó sẽ tiến
tới sự đồng nhất, và nếu để quốc gia đạt đến sự đồng nhất như vậy thì sẽ phá
hoại quốc gia. Aristotle đã đưa ra quan niệm của mình về nhà nước. Theo
ông, con người là “một động vật chính trị” thì nhu cầu quần tụ gắn bó với
nhau nhằm hướng đến những cái tốt là điều rất tự nhiên. Con người khác
động vật ở chỗ có ngôn ngữ, có giao tiếp và có nhu cầu muốn gắn bó, đoàn
kết với nhau. Đó là nhu cầu chính đáng, nó cũng thể hiện một quy luật rất tự
nhiên từ khi con người sinh ra. Quy luật đó là con người sinh ra tất yếu phải
tụ họp nhau lại. Kết quả của quy luật này chính là việc con người xây dựng
nên cho mình những cộng đồng chung. Những hình thức cộng đồng ban sơ rồi
đến cao hơn, hoàn thiện hơn đó chính là Nhà nước. Nhà nước đem lại sinh
khí cho mỗi gia đình, mỗi quần cư và từng con người trong xã hội.
Aristotle coi hình thức tổ chức gia đình kiểu chiếm hữu nô lệ - trong đó
mối quan hệ giữa chồng và vợ, bố và con tựa như quan hệ giữa ông chủ và
nô lệ, là hình thức sống cộng đồng tự nhiên và vĩnh viễn. Nhà nước ra đời
trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước là sự tiếp tục chính quyền trong
gia đình. Thể chế chính trị là trật tự làm cơ sở để phân bố chính quyền nhà
nước. Thể chế chính trị điều hành và quản lý xã hội về ba phương diện: lập
pháp, hành chính và phân xử.
Aristotle xem khả năng phụng sự lợi ích chung là tiêu chuẩn xác định
nhà nước kiểu mẫu. Theo ông, ba hình thức cai trị đúng đắn là : 1. Quân chủ,
nơi mà quyền lực trong tay một người nhưng không bị lạm dụng, 2. Quý tộc,
quyền lực thuộc về một số người ưu tú, được xã hội thừa nhận và 3. Cộng
hòa, nơi quyền lực thuộc về số đông. Tương ứng với ba hình thức này, khi đã
biến chất, là ba hình thức cai trị lệch lạc: 1. Nền bạo chính, độc tài, 2. Nền
chính trị hoạt đầu, quyền lực nắm trong tay một tập đoàn thiếu tư cách, trọng


17


sức mạnh và tiền bạc, và 3. Dân chủ, một chế độ mà quyền lực trong tay số
đông dốt nát, nghèo khổ. Aristotle ca ngợi nền quân chủ như hình thức nhà
nước hoàn thiện nhưng cũng dành nhiều thiện cảm cho hình thức cộng hòa, và
ông cũng khao khát một nhà nước mà trong đó mọi người có thể làm chủ.
Ông muốn hướng tới một nhà nước thống nhất trong sự uyển chuyển. Sau khi
tìm ra được đâu là mô hình nhà nước lý tưởng, tác giả đã nghiên cứu thêm các
vấn đề liên quan đến nhà nước lý tưởng từ đặc điểm cơ cấu bộ máy, cơ chế
vận hành và những biện pháp để xây dựng nhà nước đó. Về cơ cấu bộ máy
nhà nước, theo Aristotle “Sau khi đã đặt được căn bản vững chắc để thảo
luận, ta sẽ bàn về những điểm kế tiếp trong chương này. Ta sẽ xem xét vấn đề
không những một cách tổng quát mà còn đi vào từng loại hiến pháp đặc thù.
Mọi hiến pháp đều có ba phần tử, nhà lập pháp giỏi phải là người biết lợi thế
của mỗi loại hiến pháp là gì. Khi ba phần tử này được sắp xếp khéo léo, thì
hiến pháp cũng được thiết lập đúng đắn, còn nếu có sự khác biệt giữa các
phần tử này thì hiến pháp cũng sẽ khác nhau. Phần tử thứ nhất chịu trách
nhiệm nghiên cứu, thảo luận và quyết nghị về những vấn đề công cộng chung
cho cả nước; thứ hai, là phần tử chịu trách nhiệm về hệ thống viên chức chính
quyền – những ai đủ tiêu chuẩn, những giới hạn của thẩm quyền chính trị, và
cách thức bổ nhiệm viên chức chính quyền; cuối cùng là bộ phận chịu trách
nhiệm về quyền tư pháp” [1, 246 – 247].
Những điều kiện để xây dựng nhà nước lý tưởng, theo Aritotle đó là:
dân số, lãnh thổ, cảng biển, đường biên giới, thành phần xã hội và mối quan
hệ giữa các giai cấp… Về dân số, Aristotle cho rằng không nên quá ít cũng
không nên quá đông, mà tốt nhất là số dân vừa đủ lớn. Tuy nhiên, ông lại
chưa chỉ ra được bao nhiêu số dân là vừa, và dựa vào đâu để xác định được
con số đó. Về lãnh thổ, theo Aristotle một đất nước nên xây dựng trên những
khu vực như, “địa thế phải đủ hiểm trở để ngăn cản quân giặc, nhưng cũng

phải thuận tiện cho dân cư đi lại. Thứ hai, như đã bàn ở trên là vấn đề kiểm kê

18


dân số phải dễ dàng, thì vấn đề lãnh thổ cũng vậy, phải dễ quan sát mới dễ
bảo vệ. Về vị trí của thủ đô quốc gia, nếu ta có thể chọn lựa được, nên chọn ở
chỗ thuận đường giao thông, đường bộ cũng như đường thủy. Điều này liên
quan đến hai nguyên tắc. Thứ nhất, vị trí của thủ đô cũng là trung tâm quân
sự của cả nước phải thuận lợi cho việc điều quân bảo vệ toàn lãnh thổ; thứ
hai, phải thuận lợi cho việc thương mại, vận chuyển cùng phân phối lương
thực cũng như sản vật của cả nước.” [1, 367]. Về công dân của quốc gia thì
tính chất mà người dân của một nhà nước lý tưởng phải có đó là tính chất
“trung dung”, vừa có sự hăng hái nhiệt tình, vừa có sự khôn ngoan, vừa can
đảm. Những người dân này sẽ dễ dàng được nhà lập pháp hướng tới đời
sống hạnh phúc nhất.
Như vậy, Aristotle là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập tới
vân đề phân chia quyền lực. Tuy nhiên, ông chưa xây dựng được thành hệ
thống lý thuyết phân quyền mà chỉ là ý tưởng phân công quyền lực trong nhà
nước, cũng như chưa chỉ được ra nguyên nhân phải chia quyền lực thành các
nhánh quyền lực như vậy. Đây cũng chính là tiền đề để các nhà tư tưởng về
sau hoàn thiện những khúc mắc đó.
1.2.3. Quan niệm của Thomas Hobbes về nhà nước
Thomas Hobbes (1588 – 1679), là một nhà triết học duy vật tiêu biểu ở
Anh thế kỉ XVII, ông đã khẳng định mạnh mẽ quyền tự nhiên của con người,
với hai tác phẩm tiêu biểu Công dân và Leviathan. Xuất phát từ quan niệm
nền tảng, quan niệm về con người và bản tính con người mà các nhà triết học
phương Tây cận đại đã có các cách luận giải khác nhau về nhà nước và quyền
lực nhà nước. Hobbes xây dựng học thuyết chính trị của mình xuất phát từ
việc xem xét bản tính con người. Hobbes khẳng định: trong trạng thái tự

nhiên con người tự do và bình đẳng. Con người có nhu cầu được bảo vệ và
sống trong trạng thái hòa bình, đó là cơ sở để khẳng định quyền tự nhiên của
con người. Con người sinh ra vốn tự do và về bản tính con người là độc ác vì

19


ban đầu ai cũng có nhu cầu, ước vọng, dẫn tới tự do của người này xâm phạm
tự do của người khác, nên họ có thể vì quyền lợi của mình mà chà đạp lên
quyền của người khác: “con người là một động vật độc ác và ranh ma hơn cả
chó sói, gấu và rắn” [Dẫn theo 61, 35].
Theo Hobbes, con người luôn muốn thỏa mãn lợi ích cá nhân của mình
hơn là lợi ích của xã hội. Do đó, bản tính con người theo ông là ích kỷ, khi
tính ích kỷ ấy của con người phát triển mà không có sự kiểm soát thì hậu quả
sẽ như thế nào? Hobbes cho rằng chính sự ích kỷ, tư lợi ấy của con người đẩy
họ vào một trạng thái chiến tranh hỗn loạn, làm cho luật tự nhiên của con
người bị phá vỡ, xã hội là “cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”. Viết
về trạng thái xã hội này, trong tác phẩm Leviathan ông khẳng định: Trong
một môi trường như thế, cuộc sống quả là cô độc, nghèo nàn, ghê tởm, tàn
bạo và ngắn ngủi. Về sau Montesqueiu đã phê phán quan điểm này của
Hobbes: “Hobbes cho rằng, ngay từ đầu con người đã kẻ này chinh phạt
người khác. Nói thế là không đúng. Tư tưởng về đế quốc và sự thống trị là
một tư tưởng phức tạp, phụ thuộc vào nhiều tư tưởng khác chứ không phải là
tư tưởng phát sinh ban đầu” [Dẫn theo 40, 42]. Từ bản tính của con người và
từ trong chính cuộc đấu tranh của con người, để bảo vệ tính mạng và cuộc
sống của mình, con người thỏa mãn với nhau và đi đến kí kết khế ước xã hội,
kết quả là nhà nước xuất hiện. Khế ước xã hội đã đưa xã hội chuyển từ giai
đoạn tự nhiên sang giai đoạn xã hội công dân (trạng thái có nhà nước). Nhà
nước là sự thỏa mãn chung theo khế ước do bản thân nhân dân sáng tạo ra.
Nhà nước – con quái vật khổng lồ Leviathan nắm trọn quyền lực tối cao có

được từ sự chuyển nhượng của nhân dân. Nhân dân nhượng lại một phần
quyền tự do của mình và nhà nước sẽ làm giảm những khát vọng tự nhiên thái
quá của con người nhằm đưa đến một trật tự xã hội ổn định.
Với tư cách là một tổ chức chính trị xã hội đặc biệt, nhà nước đóng vai trò
quan trọng đối với sự phát triển xã hội, thậm chí còn can thiệp sâu vào mọi

20


lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy hay cản trở quyền tự do bình đẳng của
xã hội bằng một hệ thống luật lệ gọi là luật pháp. Hobbes quan niệm về các
hình thức nhà nước: chính thể quân chủ, chính thể cộng hòa và chính thể quý
tộc, trong đó ông ủng hộ chính thể quân chủ.
Hobbes cũng là một trong những người đầu tiên đề cập đến tư tưởng về
chủ quyền nhân dân. Ở trong tác phẩm Leviathan, Hobbes cho rằng một khi
nhà nước không đảm bảo được an ninh cho công dân – nguyên nhân duy nhất
cho sự tồn tại của nó, thì người dân có quyền tách ra khỏi sự ràng buộc bởi
khế ước xã hội, giành lại quyền tự nhiên cho mình, đó chính là sự giành lại
chủ quyền của mình. Để được bảo vệ, người dân có quyền tìm kiếm một hình
thức nhà nước khác có khả năng đáp ứng độ tin cậy của họ. Có thể nói công
lao to lớn của Hobbes là ông đã đưa ra quan điểm về “khế ước xã hội”. Theo
Hobbes, việc con người biết sử dụng luật pháp và cơ quan quyền lực công
cộng là nhà nước để kìm nén thú tính cá nhân, nhờ vậy có được một đời sống
tốt đẹp hơn, thật sự là một bước chuyển của lịch sử nhân loại từ trạng thái
sống theo bản năng thành sống theo lý trí, từ cộng đồng thành xã hội công
dân. Quan niệm về nhà nước của Hobbes đã kéo nhà nước từ trên thượng giới
xuống trần gian, nhà nước là sản phẩm của con người “khế ước xã hội”, phê
phán mạnh mẽ quan niệm của nhà thờ tôn giáo. Theo ông, nhà nước có quyền
lực tối thượng và khi nhà nước đảm bảo được trật tự, an ninh xã hội thì mọi
người đều phải tuân lệnh không ai được chống lại cho dù có thấy bị đối xử bất

công. Kẻ cầm quyền có thể trấn át, kết án, bỏ tù, thậm chí xử tử người vô tội
nếu thấy có lợi cho việc trị an. Nghĩa vụ vâng lời của người dân chỉ kết thúc
khi nhà nước không làm tròn nhiệm vụ của mình. Như vậy, Hobbes chủ
trương tập trung quyền lực tối cao và bất khả phân chia vào nhà nước, hay nói
theo cách khác ông đã ủng hộ cho chế độ quân chủ chuyên chế. Loại hình
chính thể này là một giải pháp chính trị của Hobbes để kiểm soát bản tính ác
của con người. Hạn chế của Hobbes được khắc phục ở các nhà triết học về

21


sau. Các nhà triết học từ Locke, đến Montesquieu đã đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi làm thế nào để tránh sự lạm dụng quyền lực từ phía nhà nước.
1.2.4. Quan niệm của John Locke về nhà nước
John Locke (1632 – 1704) là một trong các nhà triết học vĩ đại nhất ở
châu Âu vào cuối thế kỉ XVII. Locke lớn lên và sống qua một thế kỉ đầy
biến động trong lịch sử nước Anh. Đó là một thế kỉ đầy rẫy các cuộc xung
đột giữa Vua và Nghị viện và các cuộc xung đột chồng chéo giữa người
Tin Lành, Anh giáo và Công giáo hòa quyện vào cuộc nội chiến trong thập
niên 40 của thế kỉ XVII.
Locke cho rằng lịch sử phát triển của con người trải qua từ trạng thái tự
nhiên tiến lên trạng thái xã hội công dân, trong mỗi trạng thái đó lại có những
đặc trưng riêng và một trong những đặc trưng quan trọng nhất để phân biệt
giữa chúng là sự hiện hữu của nhà nước. Như vậy, theo Locke sự hình thành
nhà nước không đồng nhất với sự xuất hiện của xã hội loài người.
Ở trạng thái tự nhiên – giai đoạn đầu tiên của xã hội loài người với
những đặc trưng cơ bản là chưa có sự khác biệt rõ rệt giữa mọi người về kinh
tế, địa vị xã hội và đẳng cấp, con người được hưởng một cuộc sống bình yên
và hạnh phúc trong một thời gian dài. Con người ở trong trạng thái này có
quyền tự do và bình đẳng một cách hoàn hảo. Sự tự do và bình đẳng này là

những quyền được tất cả mọi người thừa nhận, nó giống như một bản năng tự
nhiên để mọi người tự giác thực hiện. Theo Locke, trạng thái tự nhiên “… là
một trạng thái bình đẳng khi mà tất cả quyền lực và quyền thực thi công lý có
tính hỗ tương, không một ai có nhiều hơn người khác. Không có gì hiển nhiên
hơn là những sinh vật của cùng một loài và một hạng, được sinh ra một cách
ngẫu nhiên với cùng những thuận lợi tự nhiên, sử dụng cùng những năng lực,
cũng phải là những sinh vật bình đẳng với nhau mà không có sự lệ thuộc hay
khuất phục” [31, 33]. Locke cho rằng, mỗi người với tư cách là một cá nhân
riêng lẻ có được sự bình đẳng mà không phải do ưu thế quyền lực hay tài sản

22


do đó tất cả mọi người đều phải tôn trọng quyền bình đẳng của nhau. Con
người sinh ra có quyền tự do vô hạn có quyền làm bất kỳ điều mình muốn
nhưng vẫn phải nằm trong khuôn khổ của luật tự nhiên. Chính luật tự nhiên
đã có tác dụng kiểm soát hành động của con người không đi quá giới hạn tự
do cho phép. Điều này khiến cho trạng thái tự nhiên dù là rất tự do nhưng vẫn
có quy tắc và trật tự nhất định chứ không phải là trạng thái thù địch, “chiến
tranh của tất cả chống lại tất cả” như Th. Hobbes quan niệm bởi nó luôn được
những quyền hạn và nghĩa vụ tự nhiên điều chỉnh.
Như vậy, theo Locke trong trạng thái tự nhiên con người có đầy đủ các
quyền tự nhiên căn bản, có cuộc sống tự do và hạnh phúc. Tuy nhiên trạng
thái tự nhiên của con người không thể tồn tại lâu dài và xã hội loài người cần
tiến tới trạng thái xã hội thứ hai – trạng thái xã hội công dân, sự ra đời của
nhà nước cũng nằm trong trạng thái này. Khi lí giải mục đích của việc hình
thành nhà nước, J. Locke khẳng định, mục đích cao quý và chủ yếu trong việc
hợp nhất của con người thành cộng đồng quốc gia và đặt chính họ dưới một
chính quyền, là sự bảo toàn đối với sở hữu của họ. Ông đã giải thích rõ, mục
đích con người chuyển sang xã hội dân sự là để tránh những phiền phức mà

trạng thái tự nhiên gây ra cho con người và vì “cuộc sống tiện lợi, an toàn
và thanh bình… trong sự thụ hưởng một cách đảm bảo với sở hữu của họ,
và một sự an ninh lớn hơn” [31, 137]. Và mục đích cao quý, chủ yếu nhất
của việc hợp thành cộng đồng và đặt dưới một chính quyền sự bảo toàn đối
với sở hữu của họ. Như vậy theo Locke, mục đích của việc thiết lập nhà
nước đó là hướng tới hạnh phúc của nhân dân hay hạnh phúc của nhân dân
là luật tối cao của mọi chính quyền.
Trong Khảo luận thứ hai về chính quyền, John Locke đã dành một nội
dung lớn để biện luận cho sự phát triển của nhà nước như là một hình thái
khác của gia đình và quyền lực chính trị của vua hay người lãnh đạo cao nhất
của chính quyền được ông gán với quyền lực gia trưởng của người cha. Trách

23


×