Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Một số biện pháp giúp học tốt môn toán lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.73 KB, 21 trang )

PHỤ LỤC II:
PHÒNG GD-ĐT TRI TÔN

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG TH A TRI TÔN

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Tri Tôn, ngày 11 tháng 11 năm 2018
BÁO CÁO

Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ
thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật hoặc nghiên cứu khoa học ứng dụng.
I/ Sơ lược lý lịch tác giả:
- Họ và tên: Lâm Thị Tuyệt

Nam, nữ : nữ

- Ngày tháng năm sinh: 25/ 3/ 1985
- Nơi thường trú: Tổ 3, Khóm 3, Tri Tôn, Tri Tôn, An Giang
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học A Tri Tôn
- Chức vụ hiện nay: Dạy lớp 2A
- Lĩnh vực công tác: Giáo viên chủ nhiệm lớp.
II/ Tên đề tài sáng kiến: Một số biện pháp giúp học tốt môn Toán lớp 2.
III/ Lĩnh vực: Phân môn Toán
IV/ Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
1. Mục đích:
-Hướng dẫn giúp đỡ học sinh tiếp thu môn Toán một cách tích cực và đạt kết quả cao,
đây không phải là chuyện nói một sớm một chiều.Trong những năm gần đây do nhu cầu phát
triển của xã hội thì nhu cầu dạy và học đòi hỏi được nâng lên. Những phương pháp dạy học


cũ không còn thích hợp nữa mà thay vào đó là những phương pháp dạy học mới. Người học
không còn thụ động tiếp thu nữa mà trở thành trung tâm, chủ thể của hoạt động dạy học.
Người học không hoạt động bằng cách nghe thầy giảng dạy và truyền đạt kiến thức từ một
Trang 1


phía, mà học tích cực bằng hành động của chính bản thân, tức là người học tự tìm ra “cái
chưa biết”, “ cái cần khám phá”để đi đến tích lũy kiến thức và chân lí.
2.Yêu cầu:
- Đối với bộ môn toán, việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh gắn liền
với việc đổi mới cách học kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực; học sinh sẽ tự so
sánh, đối chiếu và tự rút ra kiến thức mới cho bản thân cụ thể học sinh phải nắm vững kiến
thức lớp 1, tất cả học sinh có sách giáo khoa đầy đủ. Giáo viên nắm vững nội dung chương
trình và giúp tất cả các em thực hiện tốt tiết toán luyện tập vào buổi chiều. Bởi vậy việc thay
đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có thể phát huy tối đa tính tích cực của học
sinh khi học phân môn toán lớp 2. Do đó khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến
mục đích cụ thể như vậy nhằm nâng cao chất lượng học tập của các em.
- Nội dung chương trình toán lớp 2 gồm:
- Ôn tập và bổ sung
- Phép cộng có nhớ trong phạm vi 100
- Phép trừ có nhớ trong phạm vi 100
- Ôn tập
- Phép nhân và phép chia
- Các số trong phạm vi 1000
- Ôn tập cuối năm học
1/ Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
Về nội dung chương trình toán lớp 2: Mỗi chương là một mảng kiến thức. Bên cạnh
việc tìm tòi và sáng tạo phần giảng dạy phù hợp với yêu cầu bài học và đố tượng học sinh.
Mỗi giáo viên phải giúp học sinh có phương pháp lĩnh hội tri thức toán học. Học sinh có
phương pháp học phù hợp với từng dạng bài toán thì việc học mới đạt kết quả cao.

Thuận lợi:
- Giáo viên được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo. Cơ
sở vật chất đầy đủ như trang bị tivi để dạy giáo án điện tử.
- Học sinh được học 2 buổi trên ngày, học sinh có nhiều thời gian ôn tập và thực
hành.
Trang 2


-Bản thân nhiều năm trực tiếp giảng dạy khối 2 nên kinh nghiệm tích lũy được cũng
tương đối nhiều.
-Hội đồng sư phạm trường nhiều đồng chí có nhiều kinh nghiệm và có quyết tâm nhất
quán trong đổi mới phương pháp nên bản thân cũng đã học hỏi được nhiều vấn đề hữu ích.
-Học sinh phần lớn chăm ngoan, rất chịu khó, lại tiếp cận khá nhanh với phương pháp
mới nên việc thử nghiệm đề tài luôn nhận được sự ủng hộ từ các phía các em.
Khó khăn:
- Năng lực và thói quen nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên cho dù đã rất
cố gắng, kết quả thu được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
- Một bộ phận học sinh chây lười trong học tập, gia đình lại không quan tâm nên việc
tự học của các em cho dù đã được giáo viên hướng dẫn rất kĩ nhưng chưa thể đáp ứng được
yêu cầu đề ra.
- Đối tượng học sinh trong lớp không đồng đều còn chênh lệch nhiều em quá yếu
nhiều em quá giỏi. Việc chú ý đến đối tượng đã làm ảnh hưởng nhiều đến quá trình nghiên
cứu.
- Phụ huynh chưa thực sự quan tâm các em, hầu như giao khoán cho giáo viên.
- Phương tiện dạy học vẫn chưa thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu thực tiễn dạy học hiện
đại.
Kết quả khảo sát về mức độ tích cực học tập của học sinh ở tiết học toán đầu năm:
Tổng số học
sinh
30


Số học sinh tích cực học tập

Số học sinh chưa tích cực học tập

Số lượng

%

Số lượng

%

6

20%

24

80%

Qua kết quả khảo sát này đã khiến cho bất cứ ai cũng cảm thấy lo ngại, cụ thể:
Tổng số học sinh

30

Hoàn thành tốt

Hoàn thành


Chưa hoàn thành

Số lượng

%

Số lượng

%

Số
lượng

%

2

6,7%

4

13,3%

24

80%
Trang 3


2/ Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

Ở môn Toán nói chung, môn Toán lớp 2 nói riêng là nền tảng cho nền kiến thức sau
này. Các em mà hỏng kiến thức ở bậc Tiểu học thì sau này các em khó có thể giải các bài
toán ở bậc cao hơn. Mà bất cứ một ngành nào hay một lĩnh vực nào thì Toán học cũng giúp
chúng ta thành đạt, giúp mọi nhà doanh nghiệp hay các nhà khoa học thành công trong việc
nghiên cứu. Vậy muốn có được kết quả như mong muốn chúng ta phải gây dựng, kèm cặp
ngay từ bậc Tiểu học là quan trong nhất. Như chúng ta đã biết: Toán là “ sai một li đi một
dặm”, có nghĩa là Toán rất cần sự tuyệt đối, chính xác.
Theo quan điểm chương trình mới hiện nay là chú trọng thực hành, vận dụng, nên nói
chung nội dung chương trình trường tinh giảm, tập chung vào các kiến thức kĩ năng cơ bản,
bám sát thực tế, tích hợp được nhiều mặt giáo dục. Chương trình toán mới đã có những đổi
mới để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức mới nhằm giúp học sinh học tập tích
cực, linh hoạt, sáng tạo theo năng lực của học sinh. Để đạt được mục tiêu chương trình đề
ra, trước hết giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung, khả năng khai thác từng bài. Điều
quan trọng là giáo viên phải xây dựng những phương pháp huy động tính tích cực của học
sinh trong hoạt động học để các em nắm chắc và vận dụng thành thạo các nội dung trong
từng bài, góp phần phát triển năng lực tư duy và năng lực thực hành của học sinh.
Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế, để giúp học sinh
lĩnh hội được đầy đủ các kiến thức từ những phương pháp dạy học. Là một giáo viên dạy
lớp 2 qua tìm hiểu thực tiễn tại Trường Tiểu học “A” Tri Tôn. Bản thân tôi luôn trăn trở
phải làm gì, làm như thế nào để các em có hứng thú trong học tập, nhất là đối với môn toán
lớp 2 kiến thức còn nặng so với các em, lượng kiến thức trong giờ học còn nhiều mà lại
khô khan, không hấp dẫn. Chính vì vậy đã làm cho giờ học toán trở nên nặng nề, không khí
của lớp học căng thẳng. Điều này đã làm thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh
nghiệm “Một số biện pháp giúp học tốt môn Toán lớp 2 tại Trường tiểu học “A” Tri
Tôn”
Ý kiến phụ huynh về việc biện pháp giúp học tốt môn Toán lớp 2
Năm học
2014- 2015
Đồng ý
Chưa đồng ý

2015- 2016
Đồng ý
Chưa đồng ý
2017- 2018
Đồng ý

Lớp 1
Số lượng
Tỉ lệ ( %)
30 phụ huynh
10
33,3
20
66,7
30 phụ huynh
15
50
15
50
30 phụ huynh
17
56,7

Lớp 2
Số lượng
Tỉ lệ ( %)
30 phụ huynh
18
60
12

40
30 phụ huynh
20
66,7
10
33,3
30 phụ huynh
25
83,4

Ghi chú

Trang 4


Chưa đồng ý
2017- 2018
Đồng ý
Chưa đồng ý

13
30 phụ huynh
24
06

43,3
80
20

5

30 phụ huynh
30
0

16,6
100
0

3. Nội dung sáng kiến ( Tiến trình thực hiện, thời gian thực hiện, biện pháp tổ chức..)
3.1 Tiến trình thực hiện
Hàng tuần, lớp 2 có5 tiết toán học chính thức, 3 tiết rèn toán vào buổi chiều, các em
còn được thực hiện toán trong vở bài tập được chỉnh sửa ở mỗi buổi học.
STT
1

Nội dung công việc
Đọc tài liệu có liên quan đến đề

Thời gian
25/8/2014

Địa điểm
Trường TH “A” Tri Tôn

2

tài nghiên cứu
Xác định tổng số học sinh hiện có

02/9/ 2015


Trường TH “A” Tri Tôn

3

trong lớp
Chuẩn bị cơ sở vật chất để kiểm

05/9/ 2016

Trường TH “A” Tri Tôn

4

tra khảo sát lần 1
Ứng dụng đề tài vào thực tế

05/9/2016 –

Trường TH “A” Tri Tôn

Kiểm tra khảo sát lần 2
Hoàn chỉnh đề tài

06/10/ 2017
08/10/ 2018
12/ 2018

Trường TH “A” Tri Tôn
Trường TH “A” Tri Tôn


5
6

Thời gian thực hiện: Đối với học sinh lớp 2A ở trường tiểu học TH “ A” Tri Tôn,
thời gian thực hiện trong bốn năm học 2014-2015 ; 2015-2016; 2016- 2017; 2017- 2018
trong công tác giảng dạy cho học sinh ở lĩnh vực Toán học.
3.2 Biện pháp tổ chức:
3.2.1 Thực trạng học toán của học sinh:
- Đơn vị cơ bản của quá trình dạy học là các tiết dạy vì vậy trong quá trình dạy học
giáo viên phải nghĩ đến từng tiết học. Bất cứ tiết học nào cũng có một số bài tập để củng cố,
thực hành trực tiếp các kiến thức mới, giáo viên vừa giúp học sinh nắm chắc kiến thức kĩ
năng cơ bản nhất vừa hình thành được phương pháp học tập cho các em .
- Học sinh lớp 1 mới vừa lên lớp 2 thì việc đổi mới về cấu trúc, nội dung sách giáo
khoa, trong mỗi tiết học giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động học tập giúp các
em nắm được kiến thức cơ bản về phép cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100 là khá mới mẻ,
Trang 5


các em cảm thấy rất khó để hoàn thành tốt môn học này. Bản thân giáo viên khuyến khích
học sinh tìm ra kết quả bằng nhiều cách, đồng thời hình thành và rèn cho học sinh các kĩ
năng thực hành về cộng trừ, đặc biệt là kĩ năng tính và giải quyết vấn đề thông qua cách
cộng trừ nhẩm. Với cách cộng trừ nhẩm giúp học sinh khắc sâu kiến thức thấy được sự đa
dạng và phong phú của các bài tập, từ đó tập cho học sinh thói quen khai thác nội dung tiềm
ẩn trong từng bài tập, lựa chọn cách giải tốt nhất cho bài làm của mình, vận dụng ngay cách
cộng trừ nhẩm của tiết học trước trong các tiết dạy tiếp liền, vận dụng trong đời sống một
cách chủ động, linh hoạt và sáng tạo.
-Khi dạy toán cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100 cho học sinh lớp 2 tôi luôn yêu cầu
học sinh tính bằng nhiều cách trong đó có vận dụng tính nhẩm để tìm nhanh kết quả .
3.2.2 Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp dạy học hợp tác theo

nhóm nhỏ và kết hợp với phương pháp dạy học khác để tổ chức hoạt động dạy học
nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
Xác định phương pháp dạy học từng dạng bài
- Đối với "tiết học bài mới" chúng tôi yêu cầu giáo viên nghiên cứu kĩ để xác định:
Khác với chương trình cũ, phần bài mới trong các tiết dạy bài mới thường không nêu kiến
thức có sẵn mà thường chỉ nêu các tình huống có vấn đề để học sinh hoạt động và tự phát
hiện ra kiến thức mới theo sự hướng dẫn của giáo viên, với sự trợ giúp của các đồ dùng học
tập, Thời lượng thực hành chiếm khoảng 50% - 60% thời lượng của tiết học. Vì vậy tuỳ theo
khả năng của từng học sinh mà tổ chức cho các em thực hiện một số hoặc toàn bộ bài tập
thực hành, trong đó không được bỏ qua các dạng bài tập cơ bản nhất. Đồng thời, trong "Tiết
học bài mới" giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động học tập để giúp học sinh:
Học sinh tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học
Ví dụ: Dạy bài "11 trừ đi một số "
Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng các bó que tính và que tính rời để học sinh tự
nêu được: Có một bó một chục que tính và một que tính, tức là có 11 que tính, lấy bớt đi 5
que tính thì còn lại mấy que tính?( 11- 5 = ?) Tiếp tục hướng dẫn thực hiện các thao tác trên
que tính để học sinh nêu và làm được, để bớt đi 5 que tính lúc đầu ta bớt đi 1que tính rời (111 = 10 ).Sau đó phải tháo bó que tính ra, lấy bớt tiếp 4 que tính nữa còn lại 6 que tính ( 10 - 4
= 6 ). Như vậy: 11 - 5 = 6

Trang 6


Tương tự như trên cho học sinh tự tìm kết quả của các phép tính trừ :
11 - 2 ; 11 -3 ; 11- 4 ; 11- 6 ; 11- 7 ; 11- 8 ; 11- 9
Học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới
Sau khi học sinh tìm được kết quả các phép trừ nêu trên, giáo viên cần tổ chức cho
học sinh ghi nhớ các công thức trong bảng trừ của bài : " 11 trừ đi một số " bằng cách tái
hiện các công thức vừa hấp dẫn vừa khích lệ học sinh thi đua học tập như che lấp hoặc xoá
từng phần rồi toàn bộ công thức và tổ chức cho học sinh thi đua lập lại ( nói, viết ...) các
công thức đã học. Để khẳng định học sinh đã tự chiếm lĩnh kiến thức mới như thế nào thì

sau khi học sinh tiếp thu bài mới, học sinh phải làm được các bài tập trong SGK.
Quá trình dạy học Toán như vậy sẽ dần dần giúp học sinh biết cách phát hiện, chiếm
lĩnh kiến thức mới và cách giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống.
Học sinh thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới với kiến thức đã học.
Ví dụ: Khi dạy học phép cộng có nhớ trong phạm vi 100. Ở mỗi tiết học này, giáo viên
phải yêu cầu học sinh huy động các kiến thức ở lớp 1 để tự phát hiện ra nội dùng mới.
Chẳng hạn : 9 + 5 = ?
Học sinh phải huy động kiến thức đã học như: 9 + 1 = 10 ; 10 + 4 = 14. Cách viết
theo hàng ngang: 9 + 5 = 14, theo cột dọc +
14
- Đặt kiến thức mới trong mối quan hệ với kiến thức đã học. Nếu thực hiện phương
pháp dạy học bài mới như vậy không những tạo điều kiện ôn tập, cũng cố kiến thức đã học,
giúp học sinh huy động để phát hiện, chiếm lĩnh, vận dụng kiến thức mới, tìm ra những nội
dung còn tiềm ẩn trong từng bài học mà còn góp phần rèn luyện cách diễn đạt thông tin bằng
lời, bằng kí hiệu, phát triển các năng lực tư duy của học sinh.
Đối với tiết "Luyện tập thực hành"
- Nội dung luyện tập, thực hành không chỉ có trong các tiết luyện tập, luyện tập
chung, ... chiếm tỉ lệ khá lớn trong các tiết dạy học bài mới. Học không chỉ để biết mà học
còn để làm, để vận dụng. Vì thế chúng tôi chỉ đạo giáo viên dạy lớp 2 khi dạy dạng bài này
cần:
Các bài dạng trừ 11-5 ; 31- 5 ;51-15
+ Bài 11trừ đi một số 11-5
Trang 7


-Học sinh thực hiện tính 11-5 bằng các thao tác trên que tính, có thể trả lời bằng nhiều
cách để tìm ra kết quả 11-5
đặt tính rồi tính
11


(Học sinh nắm được thuật tính)

-5
6
- Dựa vào hình vẽ SGK trang 48 học sinh tìm ra cách tính nhẩm: 11-5 =11-1-4=104=6
-Hướng dãn thực hiện các thao tác
11-5 =(11+5)-(5+5)
= 16 - 10

= 6

- Phát hiện cách trừ nhẩm : muốn trừ nhẩm ta làm tròn chục số trừ: khi thêm vào số
trừ bao nhiêu đơn vị để số đó tròn chục thì phải thêm vào số bị trừ bấy nhiêu đơn vị.
+ Bài tập 1: Tính nhẩm trang 48
9+2=

8+3=

7+4= 6+5= 2+9= 3+8= 4+7= 5+6=

11-9= 11-2= 11-8= 11-3= 11-7= 11-4= 11-5= 11-6=
- Cách 1 : trên cơ sở thuộc bảng cộng trừ học sinh tự tìm ra kết quả mỗi phép tính
- Cách 2: Dựa vào kiến thức đã học học sinh có thể điền ngay 9 +2 = 11 ; 2 +9 =11
Còn 11-9 ; 11-2, cần được đặt trong mối quan hệ với phép cộng 9 +2=11; 2+9 =11 và cách
tìm một số hạng khi biết số hạng kia và tổng. Các cột còn lại thực hiện tương tự.
Dựa vào cách tính nhẩm bài 11-5, học sinh vận dụng tính nhẩm trong các bài tiếp theo.
+ Bài 31-5
Trang 8



- Cách 1 Đặt tính 31-5 =?

31

*1 không trừ được 5 lấy 11 trừ 5 bằng 6 viết 6 nhớ 1

- 5
26

*3 trừ 1 bằng 2 viết 2

- Cách 2 tính nhẩm
31-5 =(31+5) -(5+5)=
36 -

10 = 26

+ Bài 51-15
-Cách 1 (SGK) 51 -15=?
52

*1 không trừ được 5 lấy 11-5 bằng 6 viết 6 nhớ 1.

-15

*1 thêm 1 bằng 2, 5 trừ 2 bằng 3, viết 3

36
- Cách 2 tính nhẩm:
51-15 =(51+5) -(15+5)=

56 -

20 = 36

* Các bài dạng 12-8;32-8; 52-28;13-5;33-5;53-15;14-8;34-8;54-18
Thực hiện tương tự như trên.
Các bài dạng cộng 9 +5; 29+5;49+25
* Bài 9 cộng với một số : 9+5

Trang 9


- Học sinh thực hiện tính 9+5 bằng các thao tác trên que tính, có thể trả lời theo nhiều cách
để tìm ra kết quả 9+5 = 14

- Đặt tính rồi tính
9
+5
14
- Học sinh nắm được thuật tính
- Dựa vào hình vẽ sgk (trang 15) khuyến khích học sinh tìm ra cách làm nhanh nhất : “tách 1
ở số sau để có 9 cộng với 1 bằng10 , lấy 10 cộng với số còn lại của số sau”. Cách thực hiện
này yêu cầu học sinh phải huy động các kiến thức đã học ở lớp 1 (9+1=10, 5 gồm 1 và 4) để
tự phát hiện nội dung mới và chuẩn bị cơ sở cho việc lập bảng cộng có nhớ.
- Lập bảng cộng dạng 9 cộng với một số và học thuộc chẳng hạn
9+2=
9+3=
9+4=
...
9+9=

+ Cách 1”
Học sinh tự tìm ra kết quả bằng các thao tác trên que tính .
+ Cách 2:

Trang 10


Cho học sinh nhận xét về các phép tính ? ( số hạng thứ nhất của các phép tính đều là
9) khi cộng 9 với một số tách 1 ở số sau để có 9 +1 = 10 cộng với số còn lại của số sau rồi
tính nhẩm . Với cách này học sinh khắc sâu kiến thức, tránh lạm dụng đồ dùng trực quan.
Học thuộc công thức cũng chỉ là bước đầu chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên giúp học
sinh nhận ra: học không phải chỉ để biết mà học còn để làm, để vận dụng. Thông qua hệ
thống bài tập học sinh biết cách vận dụng những kiến thức cơ bản đã học để làm bài, giáo
viên khuyến khích học sinh tìm kết quả bằng nhiều cách , nhận xét đưa ra cách giải nhanh
nhất.
+ Chẳng hạn:
Bài tập 1: Tính nhẩm trang 15
9+3= 9+6= 9+8 =

9+7= 9+4=

3+9= 6+9= 8+9= 7+9= 4+9=

+ Cách 1: Trên cơ sở học thuộc bảng cộng học sinh tự tìm ra kết quả ở mỗi phép tính.
+ Cách 2: Dựa vào cách tính nhẩm học sinh tự nêu kết quả rồi đọc (chẳng hạn : 9+1 =10, 10
+2 =12)
-Điền ngay 9+3=12 (vì khi đổi chỗ các số hạng trong một tổng thì tổng không thay đổi)
-Bài tập: Tính
9+6+3= 9+9+1= 9+4+2=


9+5+3=

- Giáo viên yêu cầu học sinh chọn phương pháp giải, chẳng hạn : 9+9 +1 =18 +1 =19
- Hay 9+9+1=9+10=19
- Bài 29 +5
+ Cách 1 (SGK) 29 +5 =?
29
+ 5

*9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1
*2 thêm 1 bằng 3, viết 3.

34
Trang 11


+ Cách 2 Vận dụng cách tính nhẩm của bài 9+5 các em có thể tính như sau: 29 +5 =
29 +1+4=30+4=34
- Bài 49 +25
+ Cách 1 (SGK) 49 +25 =
49
+25

* 9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1.
*4 cộng 2 bằng 6, thêm 1 bằng 7, viết 7.

74
+ Cách 2 Tính nhẩm: 49+25=49+1+24=50+24=74
*Các bài dạng 8+5;7+5;6+5; 28+5;47+5;26+5; 38+25;47+25;36+15
+ Thực hiện tương tự dạng như trên học sinh ghi nhớ: muốn cộng nhẩm hai số ta làm tròn

chục một số. Khi thêm vào số có hàng đơn vị lớn hơn bao nhiêu đơn vị để số đó tròn chục
thì phải bớt đi ở số hạng kia bấy nhiêu đơn vị
- Giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng
của mình. Tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh.
- Khuyến khích học sinh tự đánh giá kết quả thực hành, luyện tập.
- Giúp học sinh nhận ra kiến thức cơ bản của bài học trong sự đa dạng và phong phú
của các bài thực hành, luyện tập.
- Tập cho học sinh thói quen không thoả mãn bài làm của mình, với các cách giải có
sẵn.
3.2.3 Phát huy tính tích cực của học sinh trong phương pháp gây hứng thú khi hình
thành tri thức mới về hình học.
-Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới ngoài sự hướng dẫn của giáo viên cũng cần có
hoạt động tích tực của học sinh. Riêng tôi, khi dạy tiết toán, thường chọn cho mình một
phương pháp tạo tình huống từ những vấn đề thực tiễn như: đưa ra một tình huống trong
thực tế hoặc kể một câu chuyện…có liên quan mật thiết đến bài toán. Từ đó học sinh tham
Trang 12


gia tiết học tích cực, hào hứng hơn các em không có cảm giác gò ép căng thẳng và chán nản
nữa chẳng hạn: có mấy hình tam giác?

1

2

Ta có:1, 2, (1+2) Vậy có 3 hình tam giác.
Học sinh sẽ ghép hình lại với nhau vì một số em “dấu dốt” mà im lặng không tìm
được hình giáo viên hướng dẫn bằng cách:
- Đánh số thứ tự các hình kể cả các hình không phải hình tam giác
- Đếm các hình tam giác đơn, theo nguyên tắc từ trên xuống dưới, từ trái qua phải và

ghi lại kết quả.
- Đếm các hình là tam giác được ghép lại từ các hình nhỏ, theo nguyên tắc từ trên
xuống dưới, từ trái qua phải và ghi lại kết quả.
Chẳng hạn nâng cao mức độ khó cho các em.
1

2

3

4

Trang 13


3

3

Ta có:1,2, (1+2), (1+3), (2+4), ( 1+2+3+4). Vậy có 6 hình tam giác.
- Đó là hiệu quả cao nhất không ai phủ nhận được. Vì thế, chúng tôi tổ chức nghiêm
túc, đúng quy chế các đợt khảo sát chất lượng để phân tích, đánh giá kết quả qua từng thời
điểm, từ đó điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp kể cả từ đoạn thẳng chuyển sang
đường thẳng ta chỉ kéo về 2 phía. Hai đường gấp khúc gồm 3 đoạn khép kín thành hình tam
giác, rồi tính chu vi hình tam giác bằng tổng độ dài 3 cạnh.
3.2.4 Phát huy tính tích cực của học sinh trong phương pháp gây hứng thú khi hình
thành tri thức mới về đổi đơn vị đo độ dài.
Vấn đề học sinh gặp phải:
- Học sinh không nắm được cách viết tắt của đơn vị đo do giáo viên chưa khắc sâu
kiến thức, chỉ giới thiệu tên đơn vị đo, chưa cho học sinh viết ra nháp, ra bảng con.

Ví dụ:5dm, 6dm, 28 dm..
- Học sinh không tìm được độ dài của số đo trên thước do chưa nhận đạng đơn vị đo.
Ví dụ: Cho học sinh đo chiều dài quyển sách, quyển vở…
- Nắm mối quan hệ giữa các đơn vị còn nhiều hạn chế do học sinh dễ quên
Ví dụ: Đề - xi- mét, Mét, Xăng- ti - mét chuẩn bị thước dây, học sinh tự đo độ dài, rộng
chiếc bàn của mình theo hai đơn vị đo m và dm, sau đó tự đọc và viết kết quả.Cụ thể chiều
dài bàn là: 1m1dm = 11dm. Giáo viên cho học sinh tập ước lượng bằng mắt các vật thể như:
bảng, lớp học, bút chì…
Trang 14


- Nếu muốn đổi 1dm = …..cm. Ta thực hiện như sau: viết số 1 vào cột dm. Đơn vị cần
đổi là cm, ta viết số 0 vào cột cm. Nhìn vào nháp ta thấy : 1 dm = 10 cm
Hay nâng cao hơn: 1m 2 cm =…cm. Hướng dẫn học sinh: 1m = 100cm, lấy 100 cm +
2 cm =102 cm
- Khi đổi các đơn vị và giải toán có các đơn vị đo độ dài học sinh hay đổi sai hoặc còn
lúng túng túng.
Ví dụ: Bài 3 trang 150; Cây dừa cao 8m, cây thông cao hơn cây dừa 5m. Hỏi cây thông cao
bao nhiêu mét?
- Khi thực hiện bài giải giáo viên nhắc học sinh cách viết tắt ở kết quả của phép tính
và cho vào trong ngoặc đơn (8 + 5 = 13 (m))
- Chất lượng tiết dạy được nâng lên rõ rệt. Có thể nói, công tác chỉ đạo đổi mới
phương pháp dạy học môn Toán đã đạt được kết quả được phấn khởi, còn ý nghĩa quyết định
chất lượng của nhà trường.
3.2.5 Phát huy tính tích cực của học sinh trong phương pháp gây hứng thú khi hình
thành tri thức mới về đơn vị đo đại lượng:
Về khối lượng:
Ví dụ: 23 km +21 km = 44 km
18kg – 8 kg = 10 kg
Về đơn vị đo là lít: phải biết làm tính cộng trừ với đơn vị đo là lít.

Ví dụ: 12 lít + 5 lít = 17 lít
28 lít – 18 lít = 10 lít
Giáo viên hướng dẫn học sinh biết đong đầy nước, rượu, dầu can này đổ sang can kia.
Về ngày giờ: xem đơn giản và biết đổi đơn vị đo thời gian chẳng hạn: 18 giờ là 6 giờ chiều
24 giờ là 12 giờ đêm. Khuyến khích học sinh nói các buổi sáng, trưa, chiều, tối, đêm.
Sáng: 1 giờ đến 10 giờ;
Trưa: 11 giờ đến 12 giờ
Đặc biệt việc đổi mới phương pháp dạy học môn Toán 2 đã tạo sự chuyển biến sâu
rộng trong tập thể sư phạm nhà trường, giúp giáo viên nhận thức đúng đắn sự cần thiết phải
Trang 15


đổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn Toán nói riêng, tạo niềm tin, sự hứng khởi
và ý thức sáng tạo ở mỗi giáo viên. Đây cũng là cơ sở cho mỗi giáo viên phát huy tốt tính
tích cực, tự giác từng bước thiết lập sự tự động hoá ở tất cả cá bước lên lớp của từng giáo
viên.
Như vậy chất lượng môn Toán lớp 2 đã có sự chuyển biến rõ nét, số lượng học sinh
xếp loại khá giỏi cao, không có học sinh yếu. Điều này đã khẳng định rằng: đổi mới phương
pháp dạy học là một trong những yếu tố quyết định nâng cao chất lượng giáo dục.
3.2.6 Phát huy tính tích cực của học sinh trong phương pháp gây hứng thú khi hình
thành tri thức mới về giải toán có lời văn:
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc đề, tìm hiểu đề để phân tích rồi tóm tắt.Giáo viên
đặt câu hỏi:
Bài toán cho biết gì? Bài toán thuộc dạng gì?( nhiều hơn hay ít hơn..) Bài toán hỏi gì?
Ví dụ: Lan hái được 24 bông hoa, Liên hái được nhiều hơn Lan 16 bông hoa. Hỏi Liên hái
được bao nhiêu bông hoa?
Thực hiện hướng dẫn như sau:
+ Bài toán hỏi gì ? (Hỏi Liên hái được bao nhiêu bông hoa?)
+ Có thể biết ngay chưa ? ( chưa)
+ Việc đầu tiên là phải làm gì ? ( tìm số bông hoa Liên hái được)

+ Thực hiện phép tính gì ? ( cộng)
+ Kết quả cuối cùng có phải là kết quả của bài toán không ? ( thử lại)
VI. Mức độ khả thi
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp trên, tôi nhận thấy học sinh
lớp tôi hứng thú học tập. Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, tính toán nhanh,
chính xác. Học sinh ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong
quá trình học Toán, học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần
gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau:
Cuối học kỳ I điều tra mức độ tích cực của học sinh khi học phân môn toán lớp 2A là:
Tổng số học sinh

Số học sinh tích cực học tập

Số học sinh chưa tích cực học
Trang 16


tập
Số lượng
%
30
23
76,7%
So với đầu học kỳ I số học sinh hoạt động tích cực hơn

Số lượng
7

%
23,3%


Kết quả kiểm tra cuối học kì I cũng đạt được kết quả như sau:
Hoàn thành tốt
Tổng số học sinh
30

Số lượng
14

Chưa hoàn

Hoàn thành
%

Số

46,7 %

lượng
15

thành
%

Số

%

50 %


lượng
1

3,3 %

-Với cách dạy cộng trừ nhẩm lồng vào từng bài học phần cộng trừ có nhớ , học sinh
hứng thú học tập, tích cực chủ động học tập theo năng lực cá nhân, học sinh biết vận dụng
các kiến thức đã học để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt sáng tạo.
-Học sinh có thói quen lựa chọn cách giải tốt nhất cho bài làm của mình, tạo điều
kiện phát triển tư duy, năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng.

VI/ Hiệu quả đạt được
Ở cuối học kì một chất lượng cả khối đạt như sau:
Kết quả
Thời gian

Tổng số học

kiểm tra

sinh khối 2

Hoàn thành tốt
SL

Đầu năm

151

65


%
43

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

%

SL

%

80

52,9

6

4,1
Trang 17


Giữa kỳ I

151


81

53,6

65

43

5

3,4

Cuối kỳ I

151

106

70,1

43

28,5

2

1,4

Qua thực nghiệm dạy tính nhẩm ta thấy hiệu quả rất khả quan, số học sinh hoàn
thành tốt được tăng lên đáng kể, số học sinh chưa hoàn thành không còn.

VII. Mức độ ảnh hưởng
1/ Đối với bản thân:
Đúc kết cho bản thân có nhiều kinh nghiệm, làm việc nghiêm túc, có khoa học, tính
cẩn thận, sáng tạo, tìm tòi trong công tác giảng dạy học sinh với nội dung “Giúp học sinh
học tốt môn toán lớp 2”, giảm bớt căng thẳng trong quá trình giảng dạy. Nghiên cứu kĩ nội
dung bài dạy làm sao cho phù hợp với khả năng của học sinh mình, nhân rộng hơn nữa để
từng bước tất cả các em đều có thể ham học hỏi môn toán để bồi dưỡng kịp thời cho các em.
Đảm bảo kiến thức cơ bản chính xác và có hệ thống mà còn mở rộng tầm hiểu biếtcủa học
sinh vào thực tế. Hoạt động dạy học diễn ra đảm bảo tính khoa học, kích thích được tư duy
độc lập, phát huy năng lực của mỗi học sinh. Cuối buổi thảo luận 100% giáo viên đều khẳng
định tiết học thành công và nhất trí rằng: Dạy học theo hướng tiếp cận vào học sinh hoàn
toàn áp dụng được vào thực tiễn dạy học Toán 2 ở đơn vị.
2/ Đối với học sinh:
Học sinh tham gia đầy đủ, tích cực và thích thú các hoạt động học tập tích cực, tự
giác. Mỗi vấn đề, tình huống giáo viên đưa ra học sinh hứng thú, sôi nổi trao đổi, tranh luận
đưa ra ý kiến của bản thân, nhóm mình. Các em thực hiện yêu cầu của giáo viên một cách tự
tin, đặc biệt là các em được tạo điều kiện để thể hiện mình trước tập thể lớp. Học sinh nắm
chắc kiến thức, vận dụng làm bài tập nhanh, chính xác.
3/ Đối với Giáo viên:
- Bồi dưỡng về nhận thức cho đội ngũ giáo viên có kiến thức, xác định mục tiêu tiết
dạy, rèn lyện kĩ nămg thực hiện các phép tính chu đáo. Tiến trình dạy học hợp lí, phối hợp
nhịp nhàng các hoạt động của giáo viên và học sinh. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học truyền thống và tích cực trong dạy học Toán như: Phương pháp gợi mở vấn đề, phương
pháp trực quan, thực hành luyện tập, dạy học theo nhóm, dạy học phát hiện vấn đề, trò chơi
học tập để nâng cao hiệu quả môn toán.
-Bản thân tôi xác định rằng : Đổi mới phương dạy học ở Tiểu học chỉ thành công khi
toàn thể giáo viên nhà trường nhận thức rõ về vị trí, mục tiêu, quan điểm cũng như xu thế
Trang 18



đổi mới phương dạy học. Khi vấn đề được sáng tỏ, thấm nhuần nó sẽ tạo động cơ hành động
đúng đắn ở mỗi con người. Vì vậy, chúng tôi đã tổ chức cho đội ngũ giáo viên học tập nắm
chắc các nội dung: Mục tiêu giáo dục Tiểu học, định hướng phát triển giáo dục giai đoạn
2001 - 2010 đã được xác định rõ trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, các tài
liệu liên quan đến đổi mới phương pháp dạy học, bồi dưỡng thường xuyên chu kì III,...
-Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của mỗi người giáo viên trong việc đổi
mới phương pháp dạy học, từng bước khắc phục tư tưởng ỷ lại, ngại khó, chờ đợi những gì
có sẵn để thực hiện theo một cách rập khuôn, máy móc. Động viên khích lệ tinh thần sáng
tạo, khả năng tiếp cận, sử dụng các phương pháp dạy học một cách linh hoạt, ý chí quyết
tâm khẳng định mình của giáo viên.
-Thường xuyên học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp, nghiên cứu trao đổi kiến thức
nâng cao kỹ năng, phương pháp dạy học môn rèn viết đặc biệt là phương pháp huấn luyện
học sinh viết chữ đẹp. Vì vậy muốn cho các em học tốt mônToán, tôi đề nghị với các cấp
lãnh đạo ở trường và phòng giáo dục và đào tạo đã tạo điều kiện nhiều hơn nữa để các em
tập luyện và có hướng phấn đấu đạt được thành tích cao hơn nữa.
-Việc áp dụng một số phương pháp tích cực vào dạy học nhằm phát huy vai trò của
học sinh trong tiết luyện tập thực hành không những giúp cho học sinh tự giác chiếm lĩnh
những kiến thức, kĩ năng mà từ hình thành cho học sinh tính tự giác trong học tập, biết sai và
tự sửa sai. Qua giảng dạy thực tế ở trường và quan sát một số tiết dạy của đồng nghiệp và
của chính bản thân tôi thấy việc phát huy vai trò của môn toán cho học sinh tiểu học là rất
quan trọng.
4/ Đối với tổ, khối:
Áp dụng cho các lớp trong khối một vài biện pháp và đã có hiệu quả tích cực.
-Chúng tôi tổ chức cho giáo viên toàn trường dự giờ, sau khi dự giờ, tất cả giáo viên
phải có ý kiến nhận xét, góp ý trên tinh thần cởi mở, nhằm phân tích, trao đổi để tìm ra
những dấu hiệu bản chất của đổi mới phương pháp dạy học Toán phù hợp với nội dung
chương trình - SGK Toán 2. Qua ý kiến của các thành viên trong hội đồng sư phạm, chúng
tôi rút ra kết luận như sau: Hệ thống câu hỏi, bài tập phù hợp đối tượng học sinh trong lớp,
đã tạo điều kiện, tình huống để học sinh phát huy được tính độc lập, sáng tạo.
-Đóng góp một phần cho tổ, khối về kinh nghiệm giảng dạy và chia sẻ một số phương

pháp tập luyện học sinh .

Trang 19


-Đề tài ngoài việc chia sẻ kinh nghiệm còn có thể kích thích sự tìm tòi, xây dựng
thêm một số phương pháp mới cho các thành viên trong tổ, khối để cùng đưa ra và thảo luận
trong các buổi họp về việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh thành nhân tố cho trường tham
gia các cuộc thi cấp huyện.
-Giúp đồng nghiệp có những phương pháp đổi mới trong công tác giảng dạy môn rèn
viết nhằm thực hiện giảng dạy nội dung này tốt hơn. Ngoài ra còn giúp cho học sinh thích
thú, hưng phấn hơn trong quá trình tập luyện ở trường cũng như ở nhà để nâng cao tính kiên
trì, tỉ mĩ, tìm tòi, ham thích tính toán.
5/ Đối với Nhà trường:
- Kiến thức lớp 2 là nền tảng để học sinh học tốt môn toán lớp 3. Để phục vụ một
cách trọn vẹn cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Ngoài việc tìm tòi, nghiên cứu của giáo
viên trực tiếp giảng dạy thì việc quan tâm hỗ trợ của Nhà trường cũng góp phần không kém
quyết định kết quả cả về số lượng và chất lượng học sinh giỏi hàng năm. Đối với ngành thì
có thể áp dụng tùy trường có điều kiện tương thích với trường A.
VIII. Kết luận
- Đề tài được ứng dụng cho việc giảng dạy nội dung “Giúp học sinh học tốt môn
toán lớp 2 ” của học sinh lớp 2ATrường tiểu học ATri Tôn, đồng thời triển khai đến tổ,
khối, hội đồng trường cùng hỗ trợ góp ý, bổ sung các thiếu sót, sửa chữa một số điểm để
từng bước tương đối hoàn thiện, từ đó đề tài có thể đóng góp một phần nhỏ phục vụ cho giáo
viên làm công tác giảng dạy môn Toán.
- Học sinh có thể tự tập, tự hoàn thiện từng bước trở thành học sinh có năng tính toán
tốt.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đã rút ra trong quá trình công tác
giảng dạy. Tôi hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ vào công tác giảng dạy môn Toán cho
học sinh có hiệu quả tốt hơn .

Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.
Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến

Tri Tôn,ngày 12 tháng 12 năm 2018
Người viết

Trang 20


Lâm Thị Tuyệt

Trang 21



×