Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.15 KB, 34 trang )

MỤC LỤC

1

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội là một hệ thống toàn vẹn có cấu trúc phức tạp với nhiều yếu tố hợp
thành. Với tính cách là một yếu tố của cấu trúc đó, tôn giáo đã có những ảnh
hưởng không nhỏ đến con người và xã hội trên cả hai mặt, tích cực và tiêu cực,
góp phần tạo nên sắc thái đặc biệt cho đời sống nhân loại. Trong lịch sử, vai trò
của tôn giáo được đánh giá hết sức khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Tuy nhiên,
điểm chung có thể rút ra là, tôn giáo vừa có khả năng cản trở sự phát triển của
con người và xã hội song cũng có thể tạo nên những giá trị có tính tích cực. Vì
vậy, việc nghiên cứu phải hướng đến phát hiện những hợp lý và khiếm khuyết
của hiện tượng tôn giáo và những ảnh hưởng của nó đã, đang và sẽ có đối với
lịch sử nhân loại. Và điều này, theo chúng tôi là thực sự cần thiết trong thời đại
ngày nay, khi cùng với sự phát triển của khoa học, của các trào lưu hiện đại hoá,
các tôn giáo trên thế giới đang có xu hướng gắn bó hơn với đời sống thế tục, đặc
biệt là trong lĩnh vực chính trị, văn hoá xã hội và đạo đức, lối sống để tự điều
chỉnh, thích ứng với xu thế của thời đại, mong giữ được thánh địa thiêng liêng
của mình để tiếp tục tồn tại và tồn tại lâu dài.
Thực tế ở Việt Nam, trong quá trình lịch sử lâu dài, bên cạnh những hạn
chế nhất định, tôn giáo đã có những đóng góp tích cực cho nền văn hoá của dân
tộc, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá độc đáo của dân tộc Việt Nam.v.v.. Ngày
nay, trước những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, tôn giáo ở Việt
Nam đang có những biến động phức tạp theo nhiều chiều hướng. Vì vậy, nhiều
vấn đề được đặt ra, nhất là xung quanh việc đánh giá ảnh hưởng của tôn giáo
đến lĩnh vực tinh thần của xã hội Việt Nam trong thời hiện tại và tương lai như


vấn đề ảnh hưởng của tôn giáo với chính trị hay rộng lớn hơn là ảnh hưởng của
tôn giáo với văn hoáv.v... Vấn đề xem xét ảnh hưởng của tôn giáo đối với lối
sống, đạo đức cũng được đặt ra và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
Có tình hình đó bởi lẽ, tác động của những mặt trái của kinh tế thị trường hiện
nay đã làm nảy sinh những hành vi lối sống không phù hợp truyền thống tốt đẹp
2

2


của dân tộc và tiến bộ xã hội. Những hành vi lối sống ấy đã và đang làm xói
mòn giá trị văn hoá truyền thống mà dân tộc ta đã phải mất hàng ngàn năm mới
có thể hình thành được.
2. Tổng quan nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Qua nghiên cứu đề tài giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của Phật giáo, sự
ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Phật giáo tới đời sống tinh thần của người
Việt Nam. Vấn đề nghiên cứu ảnh hưởng của triết học phật giáo đối với đời sống
tinh thần người Việt từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
trong nước và ngoài nước nhưng vẫn chưa đi sâu được vào những mặt ảnh
hưởng tiêu cực của Phật giáo tới đời sống tinh thần của người Việt.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài trên dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp logic về lịch sử, phương pháp diễn dịch
và quy nạp và phương pháp so sánh đối chiếu...Đồng thời kết hợp sử dụng
phương pháp toạn đàm, trao đổi ý kiến để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu đề tài nghiên
cứu được chia làm 2 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về triết học Phật giáo
Chương 2: Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đối với đời sống tinh thần

người Việt

3

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1.1 Lịch sử triết học Phật giáo
Phật giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên do
Siddhartha Gautama (563-483 TCN) sáng lập. Siddhartha Gautama là con của
vua Suddhodana thuộc bộ tộc Shakya của nước Capilavaxtu, mộtnước nhỏ ở
miền Đông Bắc Ấn Độ nằm dưới chân dãy Himalaya, nay thuộc Nepan. Nhìn
thấy những khổ đau bất hạnh của chúng sanh, năm 29 tuổi, thái tử Siddhartha
xuất gia đi tu để tìm con đường cứu vớt nỗi khổ loài người. Sau 7 năm theo các
bậc chân tu khổ hạnh của truyền thống tu luyện Ấn Độ, Người vẫn chưa tìm ra
chân lý. Cuối cùng, Người lang thang đến cánh rừng thiêng Uravela và ngồi
thiền dưới gốc cây bồ đề. Sau 3 ngày đêm suy ngẫm, Người phát hiện ra bản
tính vô ngã, vô thường của thế giới. Tiếp tục ngồi dưới cây bồ đề thêm 49 ngày
nữa để chiêm nghiệm tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất của tồn tại, nguồn
gốc của khổ đau. Từ đó trở đi, người ta gọi ông là Phật (Buddha), nghĩa là người
đã giác ngộ, thấu hiểu chân lý. Ông xây dựng giáo đoàn Phật giáo đểgiảng giáo
lý của mình, đệ tử tôn xưng ông là Thích Ca Mâuni-bậc hiền triết của dòng tộc
Thích Ca.Để chấn chỉnh giáo lý, giáo luật, tổ chức từ thế kỷ V-VIII TCN, Đạo
Phật đã triệu tập 3 cuộc đại hội ở nước Magađa. Nửa sau thế kỷ VIII TCN Đạo
Phật truyềnsang Xrilanca rồi đến Mianma, Thái Lan, Indonexia... Đầu thế kỷ I
SCN, đạo Phật triệu tập đại hội lần thứ 4 ở nước Cusan thông qua giáo lý của
đạo Phật cải cách gọi là Đại thừa (giáo lý của đạo Phật cũ gọi là Tiểu thừa). Đại
thừa được ví như cỗ xe lớn, con đường cứu vớt rộng, cứu vớt toàn bộ chúng
sanh. Tiểu thừa được ví như cỗ xe nhỏ, con đường cứu vớt hẹp, cứu vớt cho

chính mình. Phái tiểu thừa cho rằng chỉ có một Phật duy nhất là Phât Thích Ca,
và chỉ có Phật Thích Ca mới cứu độ được chúng sanh, chỉ có những người xuất
gia đi tu mới được Phật Thích Ca cứu với đưa đến Niết bàn (là cảnh giới yên
tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt, không có phiền não khổ đau). Phái Đại thừa
cho rằng Phật Thích Ca là phật cao nhất, ngoài ra còn có các Phật khác như Phật
A DiĐà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư... Không chỉ có những người tu hành
4

4


mà cả những người trần tục quy y Phật giáo cũng đều có thể được cứu vớt đưa
đến Niết Bàn, nghĩa là có thể thành PhậtKinh điển của Phật giáo gồm có khoảng
5000 quyển chia thành Tam tạng (Tạng Kinh, Tạng Luật, Tạng Luận).Tạng Kinh
ghi lại những lời giảng của Phật Thích ca, giúp chúng sanh loại trừ phiền não để
đạt đến niết bàn. Tạng Luật ghi lại những giới luật mà giáo đoàn Phật giáo đề ra
đòi hỏi các đệ tử phải tuân theo để cho thân-tâmthanh tịnh.Tạng Luận ghi lại
những lời luận bàn của các bâc cao tang nhằm làm sáng rõ ý nghĩa của những lời
kinh, giúp người đời phân biệt được phải-trái, chính-tà.Sang đại hội lần thứ 4,
các nhà sư được khuyến khích ra nước ngoài truyền đạo, từ Ấn Độ,Phật giáo
Đại thừa lan truyền vào các nước Trung Á và Đông Á như Tây Tạng, Trung
Hoa, Mông Cổ, Nhật Bản, và cả Bắc Việt Nam. Trong khi đó Phật giáo Tiểu
thừa vẩn tồn tại phổ biến ở các nước Đông Nam Á như Xrilanca, Mianma,
Thái Lan, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam..
Ngày nay, sự chia rẽ của Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa đã được thống
nhất và khắc phục. Tư tưởng Triết học của Phật giáo phát triển mạnh mẽ, từ vấn
đề nhân sinh sang những vấn đền bản thể, từ những vấn đề của đời sống hiện
thực sang những vấn đề siêu hình phức tạp
1.2 Quan điểm triết học Phật giáo nguyên thủy
Tư tưởng Triết học cơ bản của Phật giao nguyên thủy được trình bày trong

Tạng Kinh, chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca.
1.2.1 Thế giới quan
Phật giáo cho rằng Thế giới là thế giới vật chất, sự vật hiện tượng trong vũ
trụ được gọi là vạn phát và không do một đấng linh thiêng nào sinh ra mà được
tạo bởi những phần vật chất nhỏ bé nhất của vũ trụ gọi là Bản thể hay thực
tướng. Đây chính là một điểm tiến bộ của Triết học Phật giáo, thể hiện cái nhìn
duy vật tiến bộ và rất sớm .Các sự vật hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên
mà luôn luôn chuyển động, biến đổi, gọi là vô thường. Vạn vật biến đổi theo
chu trình: sinh-trụ-dị-diệt. Phật giáo cho rằng không phải sự vật hiện tượng sinh
ra mới gọi là sinh, chết đi mới gọi là chết mà trong sự sống có sự chết, chết
5

5


không phải là hết mà là điều kiện để sinh thành cái mới.Sự biến đổi cũa vạn vật
trong vũ trụ bị chi phối bởi quy luật nhân duyên. Trong đó nhân là cái mầm tạo
thành quả, duyên là điều kiện, là phương tiện. Tức là sự vật hiện tượng trong vũ
trụ đều do nhân duyên mà thành, nhân duyê n mà hợp thì sự vật sinh, nhân
duyên tan thì sự vật diệt, tùy theo sự kết hợp của nhân duyên mà tạo thành các
sự vật khác nhau. Sự vật hiên tượng không phải do một nhân duyên mà có thể
do nhiều nhân duyên khác nhau tạo thành. Nhân duyên cũng không phải tự
nhiên mà có mà nó do nhân duyên có trước tạo thành. Hệ thống nhân duyên là
vô tận gọi là trùng trùng duyên khởi => Vạn vật trong vũ trụ có mối quan hệ
mật thiết, nương nhờ, tác động và chi phối lẫn nhau => đây là một quan điểm
triết học duy vật rất tiến bộ, đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật, vô thần
và xuất hiện tư tưởng biện chứng sơ khai.Quan điểm về không gian và thời gian:
không gian và thời gian là vô tận, Phật giáo cho rằng thế giới vô cùng vô tận,
nhiều như cá sông Hằng, nhưng vẫn đưa ra khái niệm để đo lường cụ thể.Về
không gian: đưa ra khái niệm Tam thiên bao gồm: Đại thiên, Trung thiên,

Tiểu thiên. Mỗi Tiểu thiên thế giới có hàng chục ngàn thế giới khác nhau.Về
thời gian: đưa ra khái niệm Tam kiếp bao gồm Đại kiếp, Trung kiếp, Tiểu
kiếp. Mỗi Tiểu kiếp có hàng chục triệu năm.
2.2 Thuyết sắc không
Sắc là cái có hình tướng, con người cảm nhận được, nghĩa là có. Không là
cái khônghình tướng, con người không cảm nhận được, nghĩa là không.Trong
cái có đã chứa cái không, trong cái không đã chứa cái có. Trong ngày đã có đêm,
trong đúng có sai...
1.2.3 Quan điểm về con người
- Quan điểm về sự sinh thành và cái chết:
+ Sự sinh thành: Phật giáo nói rằng con người không phải do thần thánh
sinh ra, mà là bộ phận của giới tự nhiên, là một phần đặc biệt của giới tự nhiên,
bao gồm hai phần:

6

6


Sinh lý: là phần vật chất bao gồm sương, da, lông, tóc,.. do bốn yếu tố vật
chất tạo thành gọi là tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong. (Trong đó: Địa tạo thành phần
cứng như xương, lông, tóc,...; thủy tạo thành chất lỏng trong người như máu, mồ
hôi,...; hỏa tạo thành thân nhiệt, phong tạo thành hơi thở.)
Tâm lý (tinh thần, ý thức) bao gồm thụ (càm giác), tưởng (ảo tưởng),
hành (ý muốn thúc đẩy hoạt động), thức (ý thức) biểu hiện bằng bảy yếu tố tình
cảm gọi là thất tình: ái, ố, nộ, hỷ, lạc, ai, dục.Phần tâm lý dựa vào phần sinh lý
và gắn liền với sinh lý.
+ Cái chết:Chết chưa phải là hết gọi là chấp đoạn mà sao khi chết thì linh
hồn bất tử tiếp tục đầu thai vào kiếp khác gọi là chấp thường. Phật giáo giải
thích con người sau khi chết bằng 2 thuyết: Nghiệp báo và Luân hồi.Trong quá

trình con người tồn tại thì do ngũ uẩn (sinh lý và tâm lý) tạo thành, con người có
những hoạt động thiện và ác, từ đó tạo ra nghiệp và theo luật nhân quả những
việc thiện ác đó tạo nên động lực, nguyên nhân tạo ra sự kết hợp của ngũ uẩn
tiếp theo tức là tạo ra con người mới. Cứ như vậy, con người vào vòng luân hồi
sinh tử không dứt từ kiếp này sang kiếp khác.
- Quan điểm về cái khổ và sự giải thoát:
Mục đích cuối cùng xuyên suốt của tư tưởng Phật giáo là sự giải thoát
chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi. Muốn giải thoát, Phật giáo đã đưa ra thuyết
Tứ diệu đế, tức 4 chân lý vĩ đại bao gồm: Khổ đế, Nhân đế (Tập đế), Diệt đế,
Đại đế.
+ Khổ đế: là chân lý nói về sự khổ của người đời. Phật giáo khái quát
trong thuyết Bát khổ: Sinh lý: sinh, lão, bệnh, tử ; sở cầu bất đắc khổ (điều con
người muốn mà không đạt được), ái biệt ly khổ (xa lìa người mình thương
yêulà khổ), oán tang hội khổ (sống với người mình không thích là khổ), ngũ thụ
uẩn khổ (khổ vì sự hội tụ của ngũ uẩn)
Thuyết Bát khổ của nhà Phật cho ta thấy dường như cuộc đời con người
ngoài cái khổ ra không còn cái gì khác. Đời là bể khổ, dù ở đâu làm gìcũng phải
khổ, nước mắt chúng sinh chứa đầy bể khổ.
7

7


+ Nhân đế: là chân lý nói về nguyên nhân tạo ra sự khổ. Nguyên nhân sâu
sa tạo ra sự khổ là do thập nhị nhân duyên, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình
khép kín của mỗi con người: vô minh, hành, thức, danh-sắc, lục nhập, xuất, thụ,
ái, thủ, hữu, sinh, lão-tử. Trong đó vô minh là căn nguyên, là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân. Vô minh nghĩa là mê hoặc, tối tăm, nhầm lẫn, ngu dốt, đần
độn...là trạng thái trí tuệ không đúng, vi thế sinh ra “vọng tâm chấp ngã” cho
rằng cái ta trường tồn trên hết và vĩnh viễn, từ đó sinh ra vị kỷ, tham lam,

dục vọng và có những hoạt động tương ứng, những hoạt động tương ứng đó đã
tạo ra nghiệp (Tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp). Do đã tạo ra
nghiệp, đặc biệt là nghiệpác mà con người phải chịu đau khổ, không dứt ra khỏi
vòng luân hồi sinh tử được.
+ Diệt đế: là chân lý nói về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi
cuộc sống chúng sinh để đạt đến Niết bàn (Nivana). Niết bàn: Nghĩa rộng là
trạng thái tâm hồn đã đoạn trừ được các rang buộc của trần thế, những đau khổ
phiền não do vô minh, do tham dục gây ra; Nghĩa hẹp: là tâm hồn hoàn toàn
được giải thoát.Niết bàn sẽ giải phóng cho tinh thần.Niết bàn bao gồm hai bộ
phận: hữu dư niết bàn và vô dư niết bàn. Hữu dư niết bàn: là hình thức chỉ đạt
được trong lúc con người đang mang thân ngũ uẩn, niết bàn ngay ở trong tâm
của mình. Vô dư niết bàn: là hình thức chỉ đạt được sau khi lìa bỏ thân xác, niết
bàn ở một thế giới vô tư mà ở đó ngự trị đức Phật, Chúa, Các Mác...
+ Đạo đế: Là chân lý nói về con đường tu tập phải theo.Phật giáo chủ
trương lấy trí tuệ để diệt trừ vô minh phá vòng luân hồi, lại vừa chủ trương lấy
tu tập chuyên nghiệp để đạt đến sự giải thoát. Phép tu tập: bao gồm 6 con
đường:
Tứ niệm xứ: 4 nơi cần hướng sự suy nghĩ vào: thân, tâm, thụ, pháp.
Tứ chính cần: 4 điều siêng năng chân chính trong tu tập để bỏ ác làm điều
thiện.
Tứ thần túc: 4 nơi nương tựa để định tâm (thiền, niệm, tinh tiến, tuệ).Ngũ
căn, ngũ lực.
8

8


Bát chính đạo và tam học.
Trong những con đường tu tập thì bát chính đạo là quan trọn nhất, bao gồm:
Chính ngữ: giữ cho lời nói thanh tịnh, thẳng thắn, không nói hai lời, đơm

đặt, giả dối.
Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính để tam nghiệp (tâm, khẩu,
ý) được trong sạch.
Chính nghiệp: hành động phải chân chính, có lợi cho nhân sinh.
Chính tinh tiến: tiến tới trong con đường tu hành
Chính niệm: luôn suy nghĩ về chính pháp, gạt bỏ những suy nghĩ sai lệch,
hoạt động bất chính.
Chính định: giữ cho thâm tâm vẳng lặng không vọng đông để trí tuệ bừng
sáng.
Chính tri kiến: quan niệm chân chính về đạo, nhất là Tứ Diệu Đế.
Các tư tưởng của Thập bát chính đạo tạo thành tam học: chính ngữ, chính
mệnh, chính nghiệp gói thành tư tưởng về giới: ngũ giới, thập giới. là những
điều răn cấm quy định giùp người tu hành không phạm phải những điều do tam
nghiệp gây ra. Chính tinh tiến, chính niệm, chính định hợp thành tư tưởng về
định, giúp người tu hành không tán đoạn thân tâm, nhờ đó loại trừ được những ý
nghĩ xấu. Chính tri kiến hợp thành tuệ: sự bừng sáng của tư duy.
Trong tư tưởng của tam học thì giới là quan trọng nhất. Có thực hiện giới
thì mới thực hiện định, từ đó tâm mới sáng để diệt trừ vô minh.Quan điểm của
Phật đã tạo ra quan điểm nhân văn và khát vọng giải phóng cho con người ở chỗ
hướng con người đến sự giải thoát, và sự giải thoát này không phải dành riêng
cho giới nào, mà dành cho tất cả mọi người.Tuy nhiên quan điểm của tư tưởng
Phật giáo và quan điểm của Các Mác, đó là:Hồi giáo, Phật giáo, Kitô giáo đều
hướng đến giải thoát cho con người. Nhưng lý thuyết của những Đạo này không
gắn vớit thực tiễn. Còn những quan niệmcủa Các Mác lại gắn liền tới thực
tiễn.Con đường của Phật giáo vẫn theo phương pháp duy tâm, không khoa học;
Mác quan niệm giải phóng là con đường (vừa có cả nhận thức, lý luận mà còn
có cả đấu tranh cách mạng)
9

9



CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN
ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM
2.1 Sự du nhập và quá trình phát triển của Phật giáo vào Việt Nam
Theo chân các nhà buôn, nhà truyền giáo Ấn Độ, Phật giáo vào nước ta vào
khoảng thế kỷ thứ I và thứ II sau công nguyên. Sau đó, nối gót người Ấn Độ các
nhà Phật giáo Bắc tông vào. Rồi những người tìm đường sang Trung Quốc, Ấn
Độ học Phật trở về cũng tiếp tục truyền bá Phật giáo. Bằng những con đường
khác nhau đó, Phật giáo, một tôn giáo chung của nhiều nước Nam Á và Đông
Nam Á lúc bấy giờ cũng tìm được chỗ đứng ở Việt Nam. Nhưng Phật giáo có
nguồn gốc ở xã hội Ấn Độ cổ đại vốn mang trong mình những đặc điểm của tư
tưởng và tôn giáo, của con người và xã hội của quá khứ và hiên tại Ấn Độ lúc
bấy giờ. Có những điều không phù hợp với con người và xã hội Việt Nam đương
thời. Vì vậy để phát triển được ở Việt Nam, Phật giáo phải trải qua một quá trình
thích nghi: Giai đoạn đầu của thời kỳ truyền bá Phật giáo vấp phải sự phản ứng
của các tín ngưỡng cổ truyền của người Việt Nam, của tục thờ phụng tổ tiên, của
lệ cúng bái thổ công và các thói quen thờ cúng .. . Người Việt Nam mang các tín
ngưỡng trên không khỏi ngỡ ngàng trước Phật giáo. Họ đã xa lánh, thậm trí chê
bai, đả kích. Thời kỳ sau của sự truyền bá, lúc Phật giáo đã làm quen với dân tộc
nó vẫn còn liên tục bị sự mổ xẻ của một số người. Người ta đã đặt nó trên bình
diện chính trị - xã hội để khảo nghiệm và thấy rằng ở Phật giáo có những điều
không thích hợp. Do đó, nhiều người Việt Nam trong những thời kỳ khác nhau
đã phê phán, kỳ thị Phật giáo như : Đàm Mĩ Mông (thế kỷ XII); Lê Quát,
Trương Hán Siêu (thế kỷ XIV); Bùi Huy Bích, Phạm Nguyễn Du (thế kỷ
XVIII); Phạm Quý Thích (thế kỷ XIX)... đều xem Phật giáo là điều có hại cho
xã hội. Nhưng ở một phía khác, trên phương diện tín ngưỡng, người Việt Nam
xưa lại tìm đến Phật giáo. Dần dần, họ đi đến tôn sùng và đề cao nó. Các vua Lý,
vua Trần từ các thế kỷ XI đến XIV đều đề cao Phật giáo. Thời Lê, thời Nguyễn
tuy tôn sùng Nho, nhưng vẫn để cho Phật giáo lưu hành. Lê Sát, Lê Ngân là

những đại thần thời Lê sở và những hoàng thân, quốc thích thời Nguyễn trong
10

10


nhà đều có chùa thờ Phật. Thậm chí Trương Hán Siêu trước chống Phật giáo sau
lại theo Phật giáo. Còn quần chúng nhân dân thì lẳng lặng đi theo Phật giáo. Hai
khuynh hướng phủ nhận và thừa nhận trên đã đan xen nhau, kế tiếp nhau trong
lịch sử. Nhưng khuynh hướng thừa nhận mạnh hơn khuynh hướng phủ nhận và
là khuynh hướng chung của lịch sử, làm cho Phật giáo trở thành một tôn giáo và
là một hiện tượng triết học lâu dài của dân tộc.
Trở thành một hiện tượng đó, rõ ràng không phải là sự áp đặt, cũng không
phải là sự lầm lỡ nhất thời, mà như là một sự tất yếu, một hiện tượng có tính quy
luật, không thể khác trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Tính tất yếu trên ít nhiều đã có
người đề cập. Một số người có kiến thức lịch sử lại có quan điểm hiện thực chủ
nghĩa, không thể không công khai thừa nhận sự tồn tại hiển nhiên của Phật giáo.
Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích thế kỷ XVIII đều thừa nhận một số
yếu tố của Phật giáo. Thậm chí Lê Quý Đôn còn cho rằng chê bai tiên Phật là
thái độ "hẹp hòi".
2.2 Ảnh hưởng về mặt chính trị xã hội
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã có ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống chính trị xã hội nước ta. Từ thời xax xưa, người ta đã nhấn mạnh vai
trò chính trị của các nhà sư thời Lý, Trần…, nhấn mạnh các hoạt động chính trị
xã hội trong một số hoạt động của phật tử hiện đại. Đạo Phật là tôn giáo thịnh
đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần được coi như một quốcgiáo. Thời Lý Trần có
rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và địa vị chính trị xã hội. Có
thể kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Minh Không, GiácHải,
Pháp Loa, Huyền Quang. Nhà nước Lý ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối
cảnh của sự khoan dung, hoà hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là

sự kết hợp giữa Phật Giáo và Nho giáo, giữa giáo lý và thực tiễn đời sống. Đạo
Phật thời Lý Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của nhà nước, là đối trọng
tư tưởng của Nho giáo. Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã đào tạo ra một tầng
lớp trí thức mang tư tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân tộc và ủ n
g hộ ch o n hà nước p h ong kiến . Tro n g kh i đ ó , cù n g với s ự du n h ập của
11

11


ch ữ Há n , Nh o giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức để làm quan cho chính
quyền đô hộ. Ngày nay các nhà sư giữ chức vụ cao trong giáo hội cũng tham gia
vào hoạt động chính trị càng cho thấy sự ảnh hưởng rõ nét của Phật giáo đến các
hoạt động chính trị xã hội.
2.3 Ảnh hưởng về mặt tư tưởng
Phật giáo ảnh hưởng đến tư tưởng người dân Việt rõ nhất qua hai thuyết
Nghiệp báo và luân hồi. Thông qua hai thuyết này, Phật giáo hướng con người
đến cái thiện, từ bỏ điều ác. Tư tưởng gieo nhân nào sẽ gặp quả ấy từ đó tồn tại
một cách âm thầm trong suy nghĩ, lối sống của người Việt lúc nào không hay,
thậm chí trẻ con chín, mười tuổi cũng biết câu “ác giả ác báo”. Từ đó, con người
tự nhiên biết mình phải s ửa chữa tính ác, tu tập tính thiện. Rồi khi tai ương ập
đến thì họ lại cho rằng kiếp trước mình đã làm ác nên mới gặp khổ nạn kiếp này.
Không than trời trách đất mà cố gắng sống thiện để chuyển hóa nghiệp trên Cho
hay muôn sự tại trời Trời kia đã bắt làm người có thân, Bắt phong trần phải
phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao (Truyện Kiều_Nguyễn Du)
Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng người Việt Nam, khuyên răng con
người tránh xa cái ác để có được cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau.
2.4 Ảnh hưởng về mặt đạo lý
Phật giáo ảnh hưởng về mặt đạo lý của người Việt đó là giáo lý từ bi, tinh
thần hiếu hòa, hiếu sinh. Từ xa xưa, Nguyễn trãi đã biết: Lấy đại nghĩa để thắng

hung tàn Quân điếu phạt trước lo trừ bạo (Bình ngô đại cáo_Nguyễn Trãi) Và
khi đại thắng quân Minh xâm lược, chẳng những ta không giết hại mà còn cấp
thuyền bè, lương thực để họ về nước Thần vũ chẳng giết hại Thuận lòng trời ta
mở đất hiếu sinh (Bình ngô đại cáo_Nguyễn Trãi) Tinh thần thương người của
Phật giáo cũng ảnh hưởng rất sâu sắc trong lối sống người Việt Nam Nhiễu điều
phủ lấy giá gương Người trong một nước thì thương nhau cùng Ngoài từ bi,
người Việt còn chịu ảnh hưởng bởi đạo lý Tứ ân của Phật giáo. Tứ ân bao gồm:
ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân thừa lan truyền vào các nước Trung Á và Đông Á
như Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Nhật Bản, và cả Bắc Việt Nam. Trong khi
12

12


đó Phật giáo Tiểu thừa vẩn tồn tại phổ biến ở các nước Đông Nam Á như
Xrilanca, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam..
Ngày nay, sự chia rẽ của Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa đã được thống
nhất và khắc phục. Tư tưởng Triết học của Phật giáo phát triển mạnh mẽ, từ vấn
đề nhân sinh sang những vấn đền bản thể, từ những vấn đề của đời sống hiện
thực sang những vấn đề siêu hình phức tạp
1.2 Quan điểm triết học Phật giáo nguyên thủy
Tư tưởng Triết học cơ bản của Phật giao nguyên thủy được trình bày trong
Tạng Kinh, chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca.
1.2.1 Thế giới quan
Phật giáo cho rằng Thế giới là thế giới vật chất, sự vật hiện tượng trong vũ
trụ được gọi là vạn phát và không do một đấng linh thiêng nào sinh ra mà được
tạo bởi những phần vật chất nhỏ bé nhất của vũ trụ gọi là Bản thể hay thực
tướng. Đây chính là một điểm tiến bộ của Triết học Phật giáo, thể hiện cái nhìn
duy vật tiến bộ và rất sớm .Các sự vật hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên
mà luôn luôn chuyển động, biến đổi, gọi là vô thường. Vạn vật biến đổi theo

chu trình: sinh-trụ-dị-diệt. Phật giáo cho rằng không phải sự vật hiện tượng sinh
ra mới gọi là sinh, chết đi mới gọi là chết mà trong sự sống có sự chết, chết
không phải là hết mà là điều kiện để sinh thành cái mới.Sự biến đổi cũa vạn vật
trong vũ trụ bị chi phối bởi quy luật nhân duyên. Trong đó nhân là cái mầm tạo
thành quả, duyên là điều kiện, là phương tiện. Tức là sự vật hiện tượng trong vũ
trụ đều do nhân duyên mà thành, nhân duyê n mà hợp thì sự vật sinh, nhân
duyên tan thì sự vật diệt, tùy theo sự kết hợp của nhân duyên mà tạo thành các
sự vật khác nhau. Sự vật hiên tượng không phải do một nhân duyên mà có thể
do nhiều nhân duyên khác nhau tạo thành. Nhân duyên cũng không phải tự
nhiên mà có mà nó do nhân duyên có trước tạo thành. Hệ thống nhân duyên là
vô tận gọi là trùng trùng duyên khởi => Vạn vật trong vũ trụ có mối quan hệ
mật thiết, nương nhờ, tác động và chi phối lẫn nhau => đây là một quan điểm
triết học duy vật rất tiến bộ, đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật, vô thần
13

13


và xuất hiện tư tưởng biện chứng sơ khai.Quan điểm về không gian và thời gian:
không gian và thời gian là vô tận, Phật giáo cho rằng thế giới vô cùng vô tận,
nhiều như cá sông Hằng, nhưng vẫn đưa ra khái niệm để đo lường cụ thể.Về
không gian: đưa ra khái niệm Tam thiên bao gồm: Đại thiên, Trung thiên,
Tiểu thiên. Mỗi Tiểu thiên thế giới có hàng chục ngàn thế giới khác nhau.Về
thời gian: đưa ra khái niệm Tam kiếp bao gồm Đại kiếp, Trung kiếp, Tiểu
kiếp. Mỗi Tiểu kiếp có hàng chục triệu năm.
2.2 Thuyết sắc không
Sắc là cái có hình tướng, con người cảm nhận được, nghĩa là có. Không là
cái khônghình tướng, con người không cảm nhận được, nghĩa là không.Trong
cái có đã chứa cái không, trong cái không đã chứa cái có. Trong ngày đã có đêm,
trong đúng có sai...

1.2.3 Quan điểm về con người
- Quan điểm về sự sinh thành và cái chết:
+ Sự sinh thành: Phật giáo nói rằng con người không phải do thần thánh
sinh ra, mà là bộ phận của giới tự nhiên, là một phần đặc biệt của giới tự nhiên,
bao gồm hai phần:
Sinh lý: là phần vật chất bao gồm sương, da, lông, tóc,.. do bốn yếu tố vật
chất tạo thành gọi là tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong. (Trong đó: Địa tạo thành phần
cứng như xương, lông, tóc,...; thủy tạo thành chất lỏng trong người như máu, mồ
hôi,...; hỏa tạo thành thân nhiệt, phong tạo thành hơi thở.)
Tâm lý (tinh thần, ý thức) bao gồm thụ (càm giác), tưởng (ảo tưởng),
hành (ý muốn thúc đẩy hoạt động), thức (ý thức) biểu hiện bằng bảy yếu tố tình
cảm gọi là thất tình: ái, ố, nộ, hỷ, lạc, ai, dục.Phần tâm lý dựa vào phần sinh lý
và gắn liền với sinh lý.
+ Cái chết:Chết chưa phải là hết gọi là chấp đoạn mà sao khi chết thì linh
hồn bất tử tiếp tục đầu thai vào kiếp khác gọi là chấp thường. Phật giáo giải
thích con người sau khi chết bằng 2 thuyết: Nghiệp báo và Luân hồi.Trong quá
trình con người tồn tại thì do ngũ uẩn (sinh lý và tâm lý) tạo thành, con người có
14

14


những hoạt động thiện và ác, từ đó tạo ra nghiệp và theo luật nhân quả những
việc thiện ác đó tạo nên động lực, nguyên nhân tạo ra sự kết hợp của ngũ uẩn
tiếp theo tức là tạo ra con người mới. Cứ như vậy, con người vào vòng luân hồi
sinh tử không dứt từ kiếp này sang kiếp khác.
- Quan điểm về cái khổ và sự giải thoát:
Mục đích cuối cùng xuyên suốt của tư tưởng Phật giáo là sự giải thoát
chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi. Muốn giải thoát, Phật giáo đã đưa ra thuyết
Tứ diệu đế, tức 4 chân lý vĩ đại bao gồm: Khổ đế, Nhân đế (Tập đế), Diệt đế,

Đại đế.
+ Khổ đế: là chân lý nói về sự khổ của người đời. Phật giáo khái quát
trong thuyết Bát khổ: Sinh lý: sinh, lão, bệnh, tử ; sở cầu bất đắc khổ (điều con
người muốn mà không đạt được), ái biệt ly khổ (xa lìa người mình thương
yêulà khổ), oán tang hội khổ (sống với người mình không thích là khổ), ngũ thụ
uẩn khổ (khổ vì sự hội tụ của ngũ uẩn)
Thuyết Bát khổ của nhà Phật cho ta thấy dường như cuộc đời con người
ngoài cái khổ ra không còn cái gì khác. Đời là bể khổ, dù ở đâu làm gìcũng phải
khổ, nước mắt chúng sinh chứa đầy bể khổ.
+ Nhân đế: là chân lý nói về nguyên nhân tạo ra sự khổ. Nguyên nhân sâu
sa tạo ra sự khổ là do thập nhị nhân duyên, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình
khép kín của mỗi con người: vô minh, hành, thức, danh-sắc, lục nhập, xuất, thụ,
ái, thủ, hữu, sinh, lão-tử. Trong đó vô minh là căn nguyên, là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân. Vô minh nghĩa là mê hoặc, tối tăm, nhầm lẫn, ngu dốt, đần
độn...là trạng thái trí tuệ không đúng, vi thế sinh ra “vọng tâm chấp ngã” cho
rằng cái ta trường tồn trên hết và vĩnh viễn, từ đó sinh ra vị kỷ, tham lam,
dục vọng và có những hoạt động tương ứng, những hoạt động tương ứng đó đã
tạo ra nghiệp (Tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp). Do đã tạo ra
nghiệp, đặc biệt là nghiệpác mà con người phải chịu đau khổ, không dứt ra khỏi
vòng luân hồi sinh tử được.

15

15


+ Diệt đế: là chân lý nói về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi
cuộc sống chúng sinh để đạt đến Niết bàn (Nivana). Niết bàn: Nghĩa rộng là
trạng thái tâm hồn đã đoạn trừ được các rang buộc của trần thế, những đau khổ
phiền não do vô minh, do tham dục gây ra; Nghĩa hẹp: là tâm hồn hoàn toàn

được giải thoát.Niết bàn sẽ giải phóng cho tinh thần.Niết bàn bao gồm hai bộ
phận: hữu dư niết bàn và vô dư niết bàn. Hữu dư niết bàn: là hình thức chỉ đạt
được trong lúc con người đang mang thân ngũ uẩn, niết bàn ngay ở trong tâm
của mình. Vô dư niết bàn: là hình thức chỉ đạt được sau khi lìa bỏ thân xác, niết
bàn ở một thế giới vô tư mà ở đó ngự trị đức Phật, Chúa, Các Mác...
+ Đạo đế: Là chân lý nói về con đường tu tập phải theo.Phật giáo chủ
trương lấy trí tuệ để diệt trừ vô minh phá vòng luân hồi, lại vừa chủ trương lấy
tu tập chuyên nghiệp để đạt đến sự giải thoát. Phép tu tập: bao gồm 6 con
đường:
Tứ niệm xứ: 4 nơi cần hướng sự suy nghĩ vào: thân, tâm, thụ, pháp.
Tứ chính cần: 4 điều siêng năng chân chính trong tu tập để bỏ ác làm điều
thiện.
Tứ thần túc: 4 nơi nương tựa để định tâm (thiền, niệm, tinh tiến, tuệ).Ngũ
căn, ngũ lực.
Bát chính đạo và tam học.
quốc gia và ân chúng sanh. Trong đó, ân cha mẹ được đề cao trên hết. Phật
giáo rất coi trọng hiếu đạo. Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn công
ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt) hay kinh Nhẫn Nhục dạy:
"cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất hiếu".
Vì chú trọng chữ hiếu nên Phật giáo phù hợp với nếp sống đạo lý truyền thống
của dân tôc Việt.

16

16


2.5 Ảnh hưởng về mặt tư duy
Tiếp thu Phật giáo, tư duy người Việt Nam có thêm một số khái niệm và
phạm trù bản thể luận và những vấn đề cơ bản của triết học.Trong thế giới quan

phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là có ý nghĩa nhiều
nhất. Hơn tất cả các học thuyết khác của phương đông, Phật giáo chú ý đến mặt
phát triển tự nhiên của con người, đó là sinh, lão, bệnh, tử.Bốn giai đoạn của
cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con người mà nếu ai đó nhận thức
được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm chí sống lạc quan bình
thản trước cái chết. Nhiều nhà sư trong thời Lý đã có quan niệm như thế. Phật
giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, thành, thức là những vấn đề
có ý thức luận sâu xa. Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng
trong quá trình ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức hợp lý. Từ sự vật
khánh quan (Sắc),con ngườicảm thụ được (Thụ), suy nghĩ (Tưởng), rồi thực hiện
(Hành), và cuối cùng là biết (Thức). Ở đây nếu đem bóc cái thần bí ra ta thấy có
những hạt nhân hợp lý. Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những qua
niệm biện chứng với các khái niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy Phật giáo
nhìn sự vật trong sự vận động biến đổi lien tục không có gì là trụ lại mãi, không
có ai là tồn tại mãi. Tuy nhận thức đó chỉ nhìn thấy cáibiến đổi mà không nhìn
thấy cái ổn định tương đối. Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan
hệ nhân quả, đến việc xét sự vật phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết
quả này là nguyên nhân kết quả khác và trong mối quan hệ khác.
2.6 Ảnh hưởng vế mặt văn hóa
Đời sống của con người nước Việt có những nét mang đậm chất văn hóa,
và văn hóa hay nói cho rõ hơn văn hóa Phật giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh
thần người Việt.
2.6.1 Ca dao
Ca dao, dân ca là những tác phẩm truyền miệng thể hiện suy nghĩ và cuộc
sống của người dân. Ca dao đi vào lòng mỗi người qua câu hát ru, qua những
câu hò hay hát đối. Có thể nhận thấy Phật giáo gắn liền với con người nước
17

17



Nam. Hình ảnh chùa xuất hiện ở nhiều câu ca dao: Tây Ninh có núi Bà Đen Có
sông Vàm Cỏ có tòa Cao Sơn Ngôi chùa gắn liền với hình ảnh đất nước: Bao giờ
cạn nước Đồng Nai Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền Hay cả âm thanh của
Phật giáo cũng luôn gắn với cuộc sông người dân: Gió đưa cành trúc la đà Tiếng
chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương Con người Việt Nam xưa tới nay coi chữ
Hiếu làm đầu, đây cũng chính là ảnh hưởng tốt mà tư tưởng Phật giáo khi du
nhập vào Việt Nam mang lại: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo
con. Hay: Vô chùa thấy Phật muốn tu Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành Sự
ảnh hưởng của thuyết nhân quả trong sách Phật cũng gắn liền với ca dao dân ca
Việt Nam: Ai ơi hãy ở cho lành Kiếp này chẳn gặp để dành kiếp sau Hay Cây
xanh thì lá cũng xanh Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Qua những lời ca dao
của Việt Nam về hình ảnh ngôi chùa, về quan niệm chữ Hiếu hay về quy luật
nhân quả, có thể nhận thấy sự ảnh hưởng của Phật giáo đã ăn sâu vào đời sống
của dân tộc Việt Nam.
2.6.2 Phong tục tập quán
Người Việt thờ Phật và những tập tục gắn liền với cuộc sống cũng thể hiện
điều đó. Tập tục thờ Phật, ăn chay, phóng sanh, bố thí: Hầu hết trong mỗi ngôi
nhà người Việt bên cạnh bàn thờ tổ tiên luôn có bàn thờ Phật. Người Việt quan
niệm Phật pháp linh thiêng, có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Nhiều gia đình
còn có thói quen ăn chay vào rằm và mùng 1 hay ăn chay nguyên tháng. Điều
này xuất phát từ quan niệm coi mọi sinh vật đều có linh hồn của nhà Phật. Cứ
đến ngày cuối tháng hay rằm, các quán ăn chay rất đông người, thời đại ngày
càng phát triển, tục ăn chay phát triển lên một tầm mới, các nhà hàng chay sang
trọng xuất hiện và trở thành địa điểm quen thuộc của nhiều gia đình vào các
ngày rằm. Qua đó có thể thấy Phật giáo đã ngày một đi sâu vào cuộc sống của
người dân Việt Nam. Ngoài ra vào ngày rằm mùng 1, người Việt đi chùa phóng
sanh và bố thí cho người ngèo. Quan niệm đó trong xã hội hiện đại đã được thay
bằng những tấm lòng hảo tâm giúp người khổ, những người có cuộc sống khó

18

18


khan hay giúp đỡ đồng bào bão lụt. Đây chính là ảnh hưởng từ quan niệm sống
có tâm có đức của nhà Phật. Tập tục cúng rằm mùng một: Cứ đên dịp này, người
người nhà nhà mua trái cây hoa tươi về thắp nhang cầu mong những điều tốt đẹp
cho gia đình. Tục này thể hiện mong muốn được tu tập, tu tâm dưỡng tánh để
tâm hồn thanh tịnh. Ngoài ra, các tập tục khác của người Việt cũng ảnh hưởng từ
Phật giáo như tục đốt vàng mã, người dân quan niệm cuộc sống con người trải
từ kiếp sống này qua kiếp khác nên đốt vàng mã cho người cõi âm chính là giao
lưu giữa hai thế giới. Tục cúng sao hạn, cứ đầu mỗi năm mới, người dân lên
chùa nhờ các tăng sư cúng sao giải hạn. Các tập tục trên khi vào Việt Nam có
những điều tốt như ăn chay, thờ Phật, đóng góp hảo tâm,… nó gíup tinh thần
tĩnh lặng, đề cao tinh thần hướng thiện, giúp đõ mọi người. Tuy nhiên cũng có
nhửng tục lệ khi vào nước ta đã bị bọn xấu làm biến tướng như bói toán, xin
xăm, giải hạn cúng sao. Từ đó nhận thấy, người dân cần phải sáng suốt tiếp thu
những tục lệ tốt và bài trừ những biến tướng thì Phật giáo mới luôn là chổ đứng
tinh thần cho người dân Việt Nam.
- Ảnh hưởng phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí:
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống
văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của phật giáo. Vì
khi đã trở về với phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó
giới căn bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài.
Trong hành động lời nói và ý nghĩa, người phật tử phải thể hiện lòng từ bi. Điều
không thể có được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu chúng sanh. Để đạt
được mục đích đó, người phật tử phải dùng đến phương pháp ăn chay. Cố nhiên
người xuất gia ăn chay trường, còn phật tử tại gia còn nhiều trở ngại nên chỉ ăn
chay kỳ. Thông thường người Việt Nam, cả phật tử lẫn người không phải phật tử

cũng theo tục lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng một
và ngày rằm mỗi tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và
30, nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 29, có người ăn mỗi tháng sáu ngày là
những ngày mùng 8,14, 15, 23, 29 và 30 (nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 28,
19

19


29), có người phát tâm ăn chay mỗi tháng mười ngày là ngày
1,8,14,15,18,23,24, 28 và 30 và mùng 1 (nếu tháng thiếu thì ăn vào ngày
27,28,29) cũng có nhiều người phát nguyện ăn chay suốt cả tháng (thường là
tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng giêng, tháng bảy và tháng mười) hay cả
năm, đôi khi có một số người đi phát nguyện ăn trường trai giống như những
người xuất gia.
Về mặt ăn uống, ăn chay rất phù hợp với phong cách ăn uống Á Đông, chú
trọng ăn ngũ cốc nhiều hơn thực phẩm động vật, vả lại ăn chay giúp cho cơ thể
được nhẹ nhàng, trí óc được minh mẫn sáng suốt. Gần đây các bác sĩ Soteylo, và
bác sĩ Varia Kiplami cho biết trong các thứ thịt có nhiều chất độc, rất nguy hiểm
cho sức khoẻ con người. Và các nhà khoa học đều cho rằng ăn chay rất hợp vệ
sinh và không kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó, nên nguời việt nam dù
không phải là Phật Tử cũng thích ăn chay, và tập tục này đã ảnh hưởng sâu rộng
trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến nay.
Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc thờ
phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị. Người phật tử, người mộ đạo thờ
phật đã đành, nhiều người không phải là phật tử cũng dùng tượng phật hay tranh
ảnh có yếu tố phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và
trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, phật giáo là một thành tựu
về tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo phật tục lệ bố thí và phóng sanh

đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và mùng một,
người Việt thường hay mua chim, cá, rùa..để đem về chùa chú nguyện rồi đi
phóng sanh. Người Việt cũng thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ
nghèo khó, hoạn nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa. Tuy nhiên,
trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên này càng bị
thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho
các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảng sống gặp khó khăn đúng với
truyền thống đạo lý của dân tộc lá làng đùm lá rách.
20

20


- Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc
vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên
có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng
với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các
vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối, người
tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân
tâm. Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là
xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở
nhà vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng
Tam Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người
quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tánh của họ.
Bên cạnh việc đi chùa sám hối vào ngày rằm, mùng một , người Việt Nam
còn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày
rằm tháng giêng, rằm tháng tư (Phật Đản) và rằm tháng bảy (lễ vu lan). Đây là
một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt. Tuy
nhiên, đi viếng chùa cũng tùy thuộc vào mục đích và quan niệm của mỗi người.

Cánh cửa chùa bao giờ cũng rộng mở đối với thập phương bá tánh, nhất là các
ngày hội lớn của Phật giáo, của dân gian (tết Nguyên Đán) hoặc những ngày kỷ
niệm lớn của lịch sử dân tộc, (giổ tổ Hùng Vương). Vào những ngày này, đông
đảo các tầng lớp nhân dân, các giới trong xã hội đều qui tụ về đây. Trước cánh
cửa thiền môn, những khuôn mặt trang nghiêm, vẻ đẹp thanh thoát của hoa huệ,
hoa cúc chen lẫn với hương trầm quyện tỏa tạo nên bầu không khí ấm cúng, linh
thiêng, thể hiện tấm lòng thành kính của họ đối với Đức Phật và các bậc Thánh
Hiền. Những hình ảnh đó đã góp phần tạo nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của
dân tộc Việt. Trong dòng người tấp nập, đông đảo đó không phải ai cũng đến
đây vì lý do tín ngưỡng thuần túy. Một số đông người chỉ đơn giản muốn đi xem
lễ hội hoặc thích chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa chiền nhưng khi đã hội nhập

21

21


vào bầu không khí trang nghiêm họ cũng thấy mình trở nên đỉnh đạc và trầm
tỉnh hơn, đây là cơ hội giúp họ quay về với Đạo Phật.
- Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi
Đây cũng là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt. Về ma
chay, theo phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước đây rất là phiền
phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn ra
đơn giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo Đạo Phật) có người qua
đời, thân quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường
gọi là làm ma chay). Thông thường các nghi thức trong tang lễ được diễn ra tuần
tự như sau : (1) Nghi thức nhập liệm người chết; (2) lễ phát tang; (3) lễ tiến linh
(cúng cơm); (4) khóa lễ kỳ siêu cho hương linh; (5) lễ cáo Triều Tổ (cáo tổ tiên
ông Bà trước giờ di quan); (6) lễ di quan và hạ huyệt; (7) Đưa lư hương, long vị,
hình vong về nhà hoặc chùa; (8) lễ an sàng; (9) cúng thất (tụng kinh cầu siêu và

cúng cơm cho hương linh trong bảy tuần gồm 49 ngày, mỗi tuần cúng một lần);
(10) lễ tiểu tường (giáp năm, sau ngày hương linh mất một năm); (11) lễ đại
tường (lễ xã tang, sau ngày hương linh qua đời hai năm).
Ở những gia đình không theo Đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia
chủ mến chuộng Đạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho
hương linh và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ theo Đạo Phật. Nhìn
chung, tập tục ma chay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi
thức của Phật giáo.
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so với
Thiên Chúa giáo, khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều
đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư
Phật phù hộ cho mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày
cưới hỏi, họ được hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ "hằng thuận quy y"
trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và được chư tăng khuyên
dạy một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để làm kim chỉ nam cho cuộc sống
mới.
22

22


Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo đã
được kể trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ biến và
có ít nhiều liên quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận.
- Các phong tục tạp quán khác
+ Tập tục đốt vàng mã:
Đây là tập tục rất phổ biến ở Việt Nam mà người Việt đã tiếp nhận từ Phật
giáo Trung Quốc. Nhiều người ngộ nhận rằng tập tục này xuất gia từ quan điểm
nhân quả luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã tồn tại trong Phật giáo từ xưa cho
tới ngày nay. Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng tánh thì đời sau sẽ tái

sinh trở lại làm người hạnh phúc, sung sướng giàu sang hoặc vãng sanh về thế
giới cực lạc. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ bạc, làm nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị
đọa xuống địa ngục cõi âm ti chịu nhiều đau khổ. Người nhiều tội lỗi hay không
có ai thờ cúng, cầu siêu thì ở nơi địa ngục bị oan ức, đói lạnh, không thể siêu
thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên những người thân ở nơi dương thế phải
thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để người thân của mình dưới cõi âm ti bớt đi phần
tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát kiếp. Sau khi cúng giỗ, ngày vọng người chết
sẽ nhận được những vật dụng, tiền bạc đã cúng và đốt đó. Trong các đồ mã và
giấy tiền vàng bạc để cúng thường có hình ảnh (Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan
Âm) hoặc chữ nghĩa (chú vãng sanh, chữ triện) có yếu tố của Phật giáo với ý đồ
mong sự cứu độ của Chư Phật đối với người đã khuất.
Ở đây xin nói rõ, tập tục đốt vàng mã là một "hủ tục" mang tính mê tín dị
đoan và vô lý, người Phật tử chân chính không bao giờ chấp nhận. Chính trên
thế gian này, đồng tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được chấp
nhận, huống hố từ nhơn gian, đốt gởi xuống âm phủ xài, là chuyện không có cơ
sở để tin cậy được. Theo Phật dạy chúng sanh tùy nghiệp thiện ác theo đó mà
thác sanh nơi cõi lành, cõi dữ. Thân nhân chúng ta chết cũng theo nghiệp thiện
ác mà thọ sanh vào sáu cõi chứ không ngồi chờ việc đốt vàng mã của người
thân, vừa trái với đạo lý, vừa phí tổn tiền bạc vô ích. Theo Phật giáo thì có rất
nhiều cách để thể hiện lòng thương và lòng chung thủy của người sống đối với
23

23


người chết bằng cách khi có người sắp chết, thân quyến phải phát tâm bố thí,
cúng dường, phóng sanh và điều quan trọng là phải thông tin cho người đó biết
việc làm của gia đình mà hướng tâm đến con người thiện, nhờ đó mà họ sẽ thọ
sanh vào cảnh giới an lành
+ Tập tục coi ngày giờ :

Đây là một tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt nói riêng và cả Châu
Á nói chung. Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà cửa,
đám chết, đám cưới, xuất hành đầu năm... người ta thường về chùa để nhờ các
thầy coi giúp giùm ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Thông thường
người ta hay tránh ba ngày: mùng 05, 14, 23, họ cho ba ngày này là xuôi xẻo, là
bất hạnh, cần phải tránh.
Theo cái nhìn của Phật giáo thì đây cũng là một loại hình mê tín, người
Phật tử không nên chạy theo. Đức Phật dạy rằng với người làm điều lành, ngày
nào cũng là ngày tốt với người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày lành. Năm
tháng đối với người làm thiện đều là ngày tốt cả, gieo nhân thiện thì sẽ gặt quả
lành. Giáo lý nhân quả của Đạo Phật là cán cân công bằng với khổ đau và hạnh
phúc của con người chứ không phải là sự phân định của hên xuôi.
+ Tập tục cúng sao hạn :
Tập tục này rất phổ biến và ăn sâu vào tập quán của người Việt và lại có sự
tham gia của Phật giáo. Nguyên nhân cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, sau truyền
qua Việt Nam rồi vào trong Phật giáo. Thời xưa ta có Tam giáo đồng nguyên;
Phật, Lão và Khổng giáo, đồng quy về mặt nguồn. Chủ trương như nhau, cùng
một thiện chí để đóng góp cho xã hội, phục hưng đạo đức, đưa đời sống của con
người đến ấm no hạnh phúc.
Trong bối cảnh Tam giáo đó, các thầy Phật giáo phải linh động, phải tìm
hiểu, học hỏi những cái lưu truyền của đạo bạn để có một cái nhìn hòa đồng,
cảm thông và nhất là để kéo Phật tử trở về với bói quẻ, xem tướng, thì các thầy
cũng cúng sao, bói quẻm xin xăm, để cho người Phật tử quay về chùa, thay vì để
họ lạy thần linh thì lạy Phật tốt hơn. Bước thứ hai là giảng đạo lý nhân quả, Bát
24

24


chánh đạo, tạo chánh kiến cho người Phật tử xóa bỏ tà kiến trước đây của họ.

Trong phương tiện này đã có một số người lạm dụng và dần dà nó trở thành một
loại hình sinh hoạt của Phật giáo. Hiểu rõ điều này, người Phật tử nên loại bỏ tập
tục mê tín này.
|+ Tập tục xin xăm, bỏi quẻ :
Xin xăm bói quẻ là một việc cầu may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, một
loại hình sinh hoạt khá rầm rộ tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm mới
hoặc các ngày lễ lớn. Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường có đi
đôi với việc xin xăm. Người xin xăm trước hết đến lạy Phật rồi sang bàn thờ
Quan Thánh, khấn nguyện xin một quẻ xăm, rồi họ lắc ống xăm có 100 thẻ đê
lấy một thẻ rớt ra, sau đó họ cầm quẻ xăm đến nhờ thầy trù trì giải đáp giùm vận
mạng của mình. Mỗi thẻ ứng với một lá xăm có ghi sẵn trong những điều tiên
đoán về công việc làm ăn, học tập, hôn nhân, gia đình... của mỗi người bốc được
quẻ xăm đó. Đây là một tập tục không lành mạnh do tin tưởng vào sự may rủi
của số phận đã được sắp đặt, an bài từ trước. Như sách xưa co câu "phước chí
tâm linh, hoa lai thần ám". Nghĩa là người gặp lúc phước đến thì giở quẻ ra đều
tốt, khi họa lại thi rút lá xăm nào cũng xấu. Thế là tốt xấu tại mình, không phải
tại xăm quẻ. Người Phật tử chân chính cần phải loại bỏ những loại hình mê tín
này.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã
chịu nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung Quốc.
Trong đó Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không
ít các tập tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy
nhiên, không phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt tất cả, mà
trong đó có tập tục cần phải chắc lọc lại để phù hợp với chánh pháp. Đó là
nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời hiện đại. Bên cạnh sự ảnh
hưởng trong các phong tục tập quán của dân tộc. PG còn ảnh hưởng qua các loại
hình nghệ thuật như, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sân khấu cải lương..
2.7 Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến các loại hình nghệ thuật
25


25


×