Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.45 KB, 12 trang )

Đề bài: Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội
Bài làm
Trong thực thể đẹp nghệ thuật dường như có tất cả mà cũng như không có riêng về một mặt
nào của đời thực: quan hệ kinh tế – xã hội, chính trị, triết học, văn hóa, đạo đức, khoa học,
nhân cách, lối sống và lời ăn tiếng nói, sự nghiệp vĩ đại và đời thường nhỏ nhặt, thế giới bên
trong và mặt cắt bên ngoài, cá nhân và cộng đồng, xưa, nay và mai sau…
Đó là một hiện tượng xã hội sống động, chứa đựng biết bao số phận cụ thể có bản chất “tổng
hòa những quan hệ xã hội” rất chung mà cũng rất riêng, rất quen thuộc mà cũng rất mới lạ.
Chính thể nghệ thuật là "bản sao" sinh động, toàn vẹn cuộc sống xã hội nhưng đã vượt khỏi
nguyên mẫu, lung linh tài năng sáng tạo và thấm đượm "cái tâm” vì con người, vì "người
hơn" của quần chúng lao động mà nghệ sĩ là đại diện trung thực. Một tác phẩm có giá trị
thẩm mỹ cao là kết quả của sự hòa quyện nhuần nhuyễn ba yếu tố cơ bản: phản ánh chân
thực đời sống xã hội, độc đáo, đặc sắc sáng tạo nghệ thuật tình cảm nhân đạo, với ý thức xã
hội tiên tiến.
Nhu cầu hướng tới cái đẹp của con người luôn luôn mang tính khẳng định: con người cần
phải đẹp "cả khuôn mặt, cả quần áo, cả tư tưởng" (Tsêkhôp), và toàn bộ các quan hệ xã hội
với những hoạt động cụ thể của chúng cũng cần phải "theo quy luật của cái đẹp" (Mác). Vì
vậy, cái đẹp có quyền tuyệt đối tồn tại phát triển. Cái đẹp là chuẩn mực, thước đo để định giá
và định hướng, là lý tưởng thẩm mỹ mang tính phổ biến trong mọi lĩnh vực sống của con
người nói riêng, của xã hội nói chung. Chỉ từ cái đẹp người ta mới có thể phủ định cái ác, cái
giả, cái cũ. Trong nghệ thuật cái đẹp càng hiện ra đầy đặn, rực rỡ càng cơ sức lôi cuốn, cổ vũ,
cảm hóa.
Trước cái đẹp của con người và cuộc sống được mô tả trong tác phẩm nghệ thuật, tình cảm,
thị hiếu phán đoán và lý tưởng thẩm mỹ của công chúng được khơi nguồn và rộng mở trực
tiếp, chính diện và có ảnh hướng rõ ràng. Cảm thụ cái đẹp là cảm thụ đặc biệt tích cực, khoái
cảm trước cái đẹp là niềm hân hoan, sự say mê vừa sâu vừa lâu bền. Thật là lạ, các cụ xưa
đắng cay trăm nỗi, thế mà vẫn ngâm ngợi bông sen, con cò, cô Tấm, chàng Thạch Sanh, ông
Bụt. Vào những khi xã hội lắm đảo điên, đời người đầy rẫy tang thương, nhân dân trông đợi


ở nghệ sĩ không chỉ phê phán thực trạng tăm tối, mà chủ yểu là soi tỏ cho họ niềm tin vào


sức sống nhân văn. Những "kết thúc có hậu", "đại đoàn viên" trong văn chương ta xưa dường
như là một tất yếu nghệ thuật, một nguyên tắc đạo lý nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội – thẩm
mỹ, mà nếu thiếu vắng chúng người ta sẽ mất đi chỗ dựa vững chãi trong cuộc đời thực.
Ngay cả những nghệ sĩ hiện thực "phê phán nồng nhiệt" vì "nỗi đau về con người"
(Đôbrôliubốp) cũng trăn trở tìm kiếm "con người tốt tuyệt vời" (Dôxtôiepxki), "con người
mới" (Tsecnưsepxki), "niềm tự hào về con người", vì nghệ thuật cần "phù hợp với những
đứa con của cách mạng" (Xtăngđan). Chính những nghệ sĩ đó đã tiếp nhận tự giác hay chưa
thật tự giác tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa của quần chúng lao động, tư tưởng cách
mạng trong xã hội đương thời. Không phải không từng có sự trùng khớp sóng đôi giữa sự
rung chuyển tận gốc rễ xã hội và nghệ thuật sinh ra để đáp ứng yêu cần của sự rung chuyển
đó: Đời sống không hiếm kỳ tích được lập nên do quần chúng tự giác, tự nguyện "gạt phăng
hết đời tư nhỏ hẹp" để vươn tới thế giới mới đại đồng. Nghệ thuật nếu tự hào vào đám đông,
vì đám đông, đương nhiên phải miêu tả "cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn" (Hồ Chí
Minh) cái đẹp – anh hùng, cái đẹp – cao cả trong tầm vĩ mô hơn là dừng lại, đào sâu một bộ
phận vi mô riêng lẻ. Đó là trường hợp văn thơ công xã Pari, nghệ thuật xô viết trong cách
mạng tháng 10 và Chiến tranh vệ quốc, nghệ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa
qua. Khẩu đại bác tương lai bao nhiêu milimet sẽ nhằm vào ta khi hôm nay ta bắn súng lục
vào "thứ văn nghệ ngợi ca" đó.
Giờ đây từ công cuộc đổi mới xã hội sâu sắc và toàn diện những nhân tố mới, những kết quả
bước đầu quan trọng, những con người của CNXH đích thực đã xuất hiện và nhân lên mạnh
mẽ. Quần chúng tin rằng nghệ sĩ và nghệ thuật sẽ đi cùng chiều và đi trước để ghi nhận, gây
men, dự báo, định hướng. Muốn vậy, trước hết, nghệ sĩ phải có con mắt tinh đời nhìn thấy
những cái mới mẻ. Nhưng sẽ không đơn giản một chút nào khi nhận thức và phản ánh cái
mới, cái đẹp trong xã hội. Nhất là con người ngày nay năng động, cởi mở, nhảy vọt về tất cả
mọi phương diện sống của nó, từ hoạt động thực tiễn, lối sống, nhân cách, lời nói đến ý thức,
tư tưởng, tâm lý, tình cảm…
Tất nhiên, những thực thể hiện đại đó cũng phức tạp hơn, đa dạng hơn, nhiều ngõ ngách mê
cung, nhiều nghịch lý “cái không thể trở thành cái có thể". Ở đây, sự hoạt động của cái đẹp,
cái tốt, cái thật, cái mới không đứng ngoài những quy luật phổ biến của sự vận động và sự



phát triển của con người và xã hội. Đó chính là sự vận động của mọi cái đang tồn tại, những
bước nhảy vọt của sự gián đoạn tính tiệm tiến, sự chuyển hoá thành mặt đối lập, sự tiêu diệt
cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới, như Lê nin đã nói. Vì vậy tách rời, cô lập cái mới, cái đẹp,
cái tốt ra khỏi mối liên hệ môi trường khách quan quy định chúng và cơ thể tự vận động,
phát triển chủ quan của chúng thì chúng chỉ là một cái xác thậm chí, một quà tặng vô duyên
đối với công chúng. "Tơ hồng” cũng có nghĩa là “đánh lừa", dù xuất phát từ ý định thành thật
biểu dương, ca ngợi đến mức nào.
Dự cảm, dự báo không phải là độc quyền hay ưu thế tuyệt đối của riêng nghệ thuật. Và cũng
như bất cứ tư tưởng khoa học tiên tiến nào, nó là cái vốn có của ý thức thẩm mỹ chân chính
khi nghệ sĩ nhận thức và phản ánh đúng đần những điều trông thấy trong đời sống xã hội và
xu hướng biến đổi tất yếu khách quan của nó. Nghệ thuật không chỉ tiên đoán, dự báo về sự
nảy sinh, phát triển và chiến thắng của cái mới, cái đẹp mà còn dự đoán quá trình cái cũ, cái
xấu sẽ tàn lụi, mất đi dù hôm nay nó đang hoành hành. Tính đi trước của tư tưởng khoa học
ở chỗ chỉ ra con đường thực tiễn và cái đích, đi tới của sự phát triển xã hội do nắm bắt được
những nhu cầu đã chín muồi của đời sống hiện thực, vì vậy, nó có ý nghĩa lớn lao trong việc
hướng dẫn tổ chức và giáo dục quần chúng lao động và các lực lượng tiến bộ giải quyết
những nhiệm vụ mới do chính đời sống thực tiễn đề ra. Còn nghệ thuật lại hình tượng hóa dự
cảm để bộc lộ cụ thể, sinh động lý tường thẩm mỹ, trong đó cái đẹp cần có sẽ có vai trò trung
tâm, hạt nhân hợp lý, tập trung và chi phối toàn bộ dự cảm nghệ thuật. Trong dự cảm này
chất tư tưởng khoa học tiên tiến về những quan hệ xã hội vừa là cơ sở khách quan trực tiếp
vừa được hoà tan vào chất thẩm mỹ của cái đẹp được diễn tả. Đối với công chúng, dự cảm
nghệ thuật đem lại chân lý, niềm tin của sự vươn tới về cái đẹp, gợi mở và thôi thúc hiện
thực hóa nó thông qua sự tự thanh lọc, tự đồng hóa bằng chất men tình cảm và ý thức xã hội
của chủ thể thường thức.
Xét ở góc độ thẩm mỹ, cái đẹp trong nghĩa đầy đủ và sâu sắc nhất của nó dường như là cái
cốt lõi của nhân bản, gốc rễ của chất người, bởi vì con người sáng tạo thế giới và sáng tạo
mình "theo quy luật của cái đẹp". Những cái đẹp người và cái nhân bản không phải là cái
thuần túy trừu tượng, phi xã hội – lịch sử do bản chất hiện thực của con người là một chỉnh
thể "tổng hòa mọi quan hệ xã hội". Từ đó, cái đẹp nhân bản không thể không gắn bó chặt chẽ

với tất cả những gì tác động qua lại với con người: đời sống kinh tế – xã hội, chính trị, văn


hóa, tư tưởng,… của một giai đoạn và thời đại của từng cộng đồng và tập đoàn xã hội nhất
định và cả những điều kiện sống riêng của từng cá nhân, cá thể nào đó. Xét cho cùng, cái
nhân bản, cái đẹp xã hội luôn mang tính cụ thể “chịu nhiều sự quy định" rất cụ thể, rất lịch
sử và do đó chúng cũng biến đổi, phát triển trong sự phát triển chung toàn xã hội. Một xã hội
thực sự cố tính loài, có nhân bản chỉ có thể tìm thấy ở xã hội cộng sản chủ nghĩa với bước đi
ban đầu của nó là xã hội chủ nghĩa. Do chính là thế giới của chủ nghĩa nhân đạo, nhân bàn
thực sự, của "chủ nghĩa cộng sản” với tính cách là sự xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu
như là sự tự tha hóa của con người, và do đó coi như sự chiếm hữu một cách thực sự bản
chất con người bởi con người và vì con người do đó, coi như việc con người xã hội, nghĩa là
có tính chất người – sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự
phong phú của sự phát triển đã đạt được" (C.Mác). Prômêtê và Sơn Tinh, Anna Karenina và
Thúy Kiều là nhân loại đang đi tìm cái toàn nhân loại trong từng nấc thang nghiệt ngã của sự
tiến triển lịch sử – cụ thể. Những Sêchxpia, Huy gô, Bandăc, Lêôna đơ Vanhxi, Beethoven,
Tônxtôi, Goriki, Nguyễn Du không phải là những nhà nhân đạo chủ nghĩa của thế kỷ XXI,
mà là những đại biểu khổng lồ đấu tranh cho lý tưởng nhân bản trong những không gian và
thời gian đương đại của họ, và chính vì vậy họ trở thành bất tử, vĩnh hằng trong dòng đời vô
tận. Gần đây, người ta đã đội đánh "chất người muôn thuở" đứng trên mọi xung đột xã hội để
đánh đồng, đánh lộn, xóa sạch những cái vốn có ranh giới rõ ràng và đối lập trong mọi mặt
của đời sống hiện thực. Người ta cũng treo biển "xem xét lại số phận và thiên chức con
người" để mơn trớn, kích động những cái thấp hèn mà con người đích thực đang loại trừ
hoặc co rút vào "bí ẩn vũ trụ riêng" để nhấm nháp, vuốt ve những mảnh tâm hồn tủn mủn,
lạc lõng, thiếu hẳn một giá trị xã hội – thẩm mỹ cần thiết. Rút cục lại tất cả những cái mà
người ta mệnh danh là "phát hiện", trở lại mình và "sáng tạo mới" trên đầy thực ra chỉ là sự
vơ vào và nhai lại những "của nợ" mả cả lịch sử xã hội lẫn lịch sử nghệ thuật đã thải bỏ.
Trên tinh thần nghệ thuật hướng tới cái đẹp, cái nhân bản giá trị nhận thức – cảm hóa thẩm
mỹ của nghệ thuật không loại trừ yêu cầu mô tả cái xấu, cái không nhân bản cái đối lập với
cái đẹp và cái chất người. Trong những hoàn cảnh lịch sử nhất đinh và do yêu cầu phê phán

xã hội, đối với một số nghệ sĩ nào đó, cái xấu được phản ánh, mô tả trực tiếp và gần như là
duy.nhất (như Gôgôn, Vũ Trọng Phụng đã làm). Ở đây, cái xấu, cái ác được mô tả là cái
chướng ngại của sự phát triển con người, thù địch với những gì là chất người dù ở một phạm


vi sinh hoạt nhỏ nhất của nó. Những cái xấu, cái ác, dù ma quái "hấp dẫn", hoành hành
ngang nhiên hay ẩn náu giấu mặt đến thế nào chăng nữa rút cục cũng không thoát khỏi định
mệnh sòng phẳng là bị tiêu diệt, do mâu thuẫn bên trong của nó, do áp lực và sự trừng phạt
của cái đẹp, cái tốt, cái mới. Chính nghệ thuật quá khứ, từ bi kịch cổ đại đến chủ nghĩa hiện
thực phê phán đã thấm đượm tinh thần nhân đạo chiến đấu đến cách nhìn mang những nhân
tố phủ định biện chứng nhất định.
Mô tả, phản ánh cái " không phải là chết người", nếu chỉ dừng lại ở hiện tượng bên ngoài,
đơn giản, hoặc thổi phồng quá khích, tuyệt đối hoá như một tai họa vĩnh cửu, một bản chất
duy nhất của xã hội với cái tâm thương vay hoặc thù hận, thì chỉ đem lại cho công chúng sự
nhận biết hời hợt vô bổ, "lo âu" buồn nôn và “tuyệt vọng" trước cuộc sống đang cần phải
vượt lên. Bôi đen thực chất là vi phạm tính chân thực nghệ thuật và tính chân thành của nghệ
sĩ. Gốc rễ của thứ "sáng tạo bóng tối" này là cách nhìn đời qua tấm kính của một "linh hồn
chết" không mảy may niềm tin vào con người với tư cách là chủ thể quyết định vận mệnh
của chính nó và vì nó. Cơn khủng hoảng hiện nay của không ít khuynh hướng nghệ thuật tư
sản là sự chối bỏ chúng của đông đảo quần chúng Phương Tây là một điều có thể cắt nghĩa
được.
Quan điểm phê phán của chủ nghĩa nhân đạo đích thực bao giờ cũng gắn liền với sự xem xét
thế giới trong tính cụ thể lịch sử, trong tính phát triển, đổi mới và cách mạng. Việc định rõ
bản chất, cấp độ và phạm vi của cái xấu, cái ác cái giả có ý nghĩa nhận biết và cảm hóa rất cụ
thể, rất thực tiễn đối với quần chúng. Một sự mô tả và phê phán cái xấu bằng cặp mắt tùy
tiện, trùm lấp hay mơ hồ sẽ không ra khỏi tầm nhìn của anh chàng Chí Phèo chửi cả làng Vũ
Đại nhưng ai cũng nghĩ "nó chừa mình ra". Có hành động dại dột, lỗi thời vì chúng sinh đau
khổ của hiệp sĩ Đôn Kihôtê, có bệnh tâm thần của giai cấp cầm quyền lây lan đến tận tâm
não anh cùng đinh A.Q có thời Ôblômôp và nhân cách cửa những linh hồn chết, có lão keo
kiệt Grăngđê và người hùng hãnh tiến Saclơ, có Nghị Quế và có Xuân tóc đỏ, có Quỷ

Mephixto và có bệnh sĩ của cậu giáo Thứ… Sự đa dạng, phong phú, phức tạp trong mô tả cái
xấu cũng từ bản chất và cấp độ, phạm vi và vị trí của chính nó trong cuộc sống mà ra. Trước
cái xấu được nghệ thuật trình diễn, quần chúng sẽ có được những gam cảm xúc tương ứng,
hoặc căm giận, hoặc "vui vẻ tiễn biệt quá khứ" (Mác) hoặc “buồn bực đức hạnh" (Hêghen).
Cuối cùng là, khi cảm nhận cái xấu, nhân dân ta nên cao hơn cái xấu và hướng tới cái tốt, cái


đẹp. Nghệ thuật phán xét cái xấu một cách đúng đắn chính là "bông hoa của văn minh, rau
quả của tinh thần xã hội phát triển" (Biêlinxki).
Con đường nghệ sĩ tiếp cận cái đẹp trong đời thực và đưa nó vào nghệ thuật là không đơn
giản. Điều đó đòi hỏi năng lực toàn diện của nghệ sĩ. Vấn đề là ở chỗ: Công chúng khi tiếp
nhận tác phẩm nghệ thuật không thể "chỉ thấy tối sầm” mà phải có được ánh sáng để "nhảy
qua bóng tối" đi tới cuộc sống cần có. Thật là buồn phiền, mấy năm trở lại đầy, nền nghệ
thuật của chúng ta lặn ngập quá sâu vào đời thường mà hiệu quả xã hội của nó thật ít ỏi.
Những bông hoa nghệ thuật chưa mọc lên rực rỡ, tác giả có tầm cỡ chưa xuất hiện. Công
chúng nghệ thuật vẫn chờ đợi và vẫn tin rằng xã hội của chúng ta, với những xúc cảm lớn
nhất định sẽ kết tinh được các giá trị nghệ thuật xứng đáng với cuộc đời.
Bài số 2
Loài người chúng ta, từ thời “ăn lông ở lỗ” đến xã hội văn minh ngày nay, lúc nào cũng được
sự che chở của “mái nhà thiên nhiên” mà sống vui, sống khỏe và phát triển không ngừng.
Cho nên nói đến thiên nhiên ta cảm thấy nó rất gần gũi thân thương. Bởi “thiên nhiên là
người bạn tốt của con người. Con người cần yêu mến và bảo vệ thiên nhiên”.
Chân lý ấy đã được khẳng định hùng hồn qua thực tế cuộc sống của con người chúng ta.
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu thiên nhiên là gì? Thiên nhiên là tất cả những gì ở bên ngoài
con người, xung quanh con người, không do bàn tay của con người làm nên. Thiên nhiên còn
là bầu trời, là rừng, là biển, là sông, là suối, là cây cỏ, chim muông… Tất cả những thứ đó
luôn luôn ở bên cạnh con người để bảo vệ và giúp ích cho con người.
Từ bao đời nay, thiên nhiên là nguồn sống vô tận của con người: cơm, gạo, thịt, cá, cây trái,
nhà để ở, nước để uống, quần áo để mặc, khí trời để thở… đều do thiên nhiên cung cấp. Con
người càng lúc càng văn minh, càng tiến bộ đã tự mình tạo nên nhiều sản phẩm. Muốn làm

được những điều ấy, con người rất cần sự giúp đỡ của thiên nhiên, từ đó ta lại càng thấy sự
ích lợi của thiên nhiên nhiều hơn. Xưa kia con người cần mặt trời chỉ để sưởi ấm và chiếu
sáng nay con người cần mặt trời để làm nguồn năng lượng quan trọng trong sản xuất và đời
sống. Rừng xanh giờ đây không chỉ là nguồn lâm sản dồi dào với những cây gỗ quý, những
cây thuốc chữa bệnh mà còn là nguồn điều hòa lũ lụt, là lá phổi khổng lồ để cho con người


hít thở. Những dòng thác gầm réo, những con suối trong mát, những dòng sông cuồn cuộn
chảy không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là con đường giao lưu, nguồn thủy sản,
hơn thế nó còn là nguồn cung cấp điện năng khổng lồ.
Hơn nữa, thiên nhiên còn rất cần cho đời sống tinh thần của con người. Sau những ngày
tháng làm việc vất vả cực nhọc trong phòng làm việc, trong nhà máy, ở trong thành phố chật
hẹp đầy khói bụi, con người đến với thiên nhiên sẽ cảm thấy vô cùng sảng khoái, thiên nhiên
sẽ giúp con người tái tạo lại sức khỏe, niềm vui sống và nhiệt tình lao động. Đôi khi được
nhìn ngắm màu xanh của lá, nghe tiếng suối róc rách bên rừng, vui đùa trên bãi biển cũng đã
khiến cho tâm hồn con người lấy được sự thư thái và thanh thản. Nhìn đóa hoa nở, ngắm
cảnh chân trời, con người cũng có thể cảm nhận một niềm vui lớn quên hết những phiền
muộn ưu tư. Chính thiên nhiên đã làm cho tâm hồn con người trở nên cao rộng mênh mông
như trời như biển.
Vẻ đẹp của thiên nhiên còn đem đến cho con người khát vọng suy nghĩ về cái đẹp và sáng
tạo nên cái đẹp cho mình. Cái đẹp của một cảnh bình minh, một cảnh hoàng hôn… làm xao
xuyến bao nghệ sĩ để tạo nên thơ, ca, nhạc, họa. Nhà khoa học từ thiên nhiên mà rút ra những
quy luật của sự sống để từ đó mà sáng tạo nên những công trình phục vụ cho cuộc sống con
người. Thiên nhiên quả là nguồn sáng tạo của thơ ca nghệ thuật, là nguồn nghiên cứu phát
minh của khoa học kĩ thuật.
Thiên nhiên có ích như thế, cần thiết với con người là thế. Cho nên từ xưa con người đã yêu
mến và bảo vệ thiên nhiên như người bạn quý. Văn chương nghệ thuật bao giờ cũng trân
trọng yêu quý thiên nhiên. Các nhà hội họa, nhà văn, nhà thơ, các nhạc sĩ đều dành cho thiên
nhiên một tình cảm đặc biệt… Những bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đã nâng giá trị vốn
có của thiên nhiên lên một bậc. Đọc thơ của các thi sĩ ta càng thấy thiên nhiên muôn màu,

muôn vẻ. Nguyễn Trãi thì:
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến im nặng vạy then”
Còn Nguyễn Du lại là:


“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng."
Đọc thơ Hồ Chí Minh ta lại thấy thiên nhiên thực sự là con người, là bạn đồng tâm, đồng chí,
từ ánh trăng qua cửa sổ phòng giam hay núi rừng Việt Bắc, đến bóng cây cổ thụ, nhành hoa,
tiếng suối giữa rừng đêm.
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Mỗi chúng ta ai cũng hiểu được sự cần thiết của thiên nhiên trong cuộc sống của con người,
thì phải có ý thức bảo vệ, giữ gìn thiên nhiên như một người bạn quý. Cho nên hơn lúc nào
hết, chúng ta hãy thực hiện cấp bách nhiệm vụ “Hãy bảo vệ thiên nhiên” để tạo cho mình
một cuộc sống tốt đẹp trong bầu không khí trong lành của thiên nhiên.
Bài số 3
Tsernushevski đã từng nói rằng: "Những khái niệm của người nông dân bình thường về cái
đẹp có nhiều phần không giống những khái niệm của những giai cấp có học vấn trong xã
hội". Như vậy, chúng ta có thể phần nào hiểu được, đối với mỗi người, cái đẹp không hoàn
toàn giống nhau. Sự mâu thuẫn ấy tồn tại như một lẽ dĩ nhiên. Điều này được thể hiện rõ nét
trong câu chuyện sau đây: "Nhà nọ có ba chị em nghèo. Chị Kiều Diễm làm người mẫu khỏa
thân cho họa sĩ vẽ. Anh Tài Tử rất thích bức tranh nên ăn cắp mang về nhà treo. Anh Chính
Trực tố giác anh mình nhưng lại hiểu sai sự việc. Họa sĩ tặng luôn bức tranh. Chị Kiều Diễm
về nhà thấy bức họa vẽ thân thể mình, xấu hổ nên đốt bức tranh." Các bạn nghĩ trong câu
chuyện này thì ai là người có lỗi? Và cái đẹp ở đây có thật sự đẹp không?
Nhà nghèo…Lại là chị cả nên chị Kiều Diễm bươn chải kiếm tiền là một hành động đẹp.
Hành động kiếm tiền của chị xuất phát từ tình thương dành cho 2 người em và muốn đỡ đần,
phụ giúp bố mẹ. Mục đích của chị cao quý vô cùng! Tuy nhiên, chị đã chọn nghề làm người

mẫu khỏa thân – cái nghề trong sạch nhưng vẫn bị mang nhiều điều tiếng. Vì sao chị không
chọn một nghề nào khác? Có thể vì công việc này phù hợp với chị, cũng có thể là vì nó giúp
chị kiếm được nhiều tiền… Nhưng trên hết, khi đã chấp nhận làm một người mẫu khỏa thân,


là chấp nhận phơi bày nét đẹp của cơ thể cho hàng ngàn, hàng vạn người cùng chiêm ngưỡng.
Liệu chị Kiều Diễm có hiểu điều này khi chấp nhận làm người mẫu khỏa thân? Ở chị có cái
đẹp trong trẻo – là sự hiếu thảo đáng trân trọng, là tình thương dành cho gia đình – nhưng
dường như, chị chưa hiểu hết cái nghề chị đang làm.
H.de Balzac đã gọi nghệ sĩ là " Người thư ký của thời đại". Vì vậy, chúng ta có thể hiểu đơn
giản rằng, nghệ sĩ là người đem cái đẹp của hiện tại trở thành cái đẹp vĩnh cửu. Ở câu chuyện
của chúng ta, người họa sĩ đó cũng là một nghệ sĩ. Nếu thế, ắt hẳn ông ấy rất yêu cái đẹp,
muốn cái đẹp trở nên trường tồn? Có thể, nhưng chỉ là một phần. Vì cuộc sống thực tại với
cơm áo gạo tiền, với những lo toan đời thường đã một phần nào níu giữ người nghệ sĩ không
thể sống phiêu bồng cùng những giấc mơ, bay bổng theo như vốn dĩ được. Vậy nên, có thể
họa sĩ vẽ cô Kiều Diễm vì ông yêu cái đẹp, yêu đường cong mượt mà của người phụ nữ –
hoặc chỉ là vì tiền. Dù sao đi nữa, họa sĩ cũng đã làm cái công việc của một nghệ sĩ: tôn tạo
vẻ đẹp nghệ thuật.
Vẻ đẹp của cô Kiều Diễm đã được họa sĩ thể hiện lên tranh, vẻ đẹp ấy cuốn hút, hấp dẫn anh
Tài Tử. Cái đẹp khiến anh si mê, khao khát được sở hữu cái đẹp. Khát vọng thường tình của
con người là chiếm giữ cái đẹp. Sự ích kỉ ấy là một phần của bản năng sau cả một hành trình
dài tiến hóa. Muốn hái một cành hoa khi thấy đẹp, muốn nghe mãi một bài hát khi thấy hay,
muốn nhìn ngắm mãi nụ cười đẹp mê mẩn của người yêu… Cái khát vọng chiếm hữu cái đẹp
đã lột tả rất rõ trong cách ứng xử, mong muốn của mỗi chúng ta. Vì con người luôn yêu cái
đẹp, hiển nhiên là vậy. Anh Tài Tử cũng không ngoại lệ khi muốn giữ bức tranh vẽ cô Kiều
Diễm cho riêng mình. Nhưng hành động của anh thật không đẹp: ăn cắp. Anh có cảm thấy
bản thân mình tồi tệ? Anh có thấy sợ hãi khi bị phát giác không? Liệu anh có yên bình, thoải
mái nhìn ngắm cái đẹp khi mà bản thân đã làm một hành động đáng xấu hổ như vậy? Mục
đích của anh thì không xấu nhưng cái cách anh hành động để đạt được mục đích ấy thì thật
đáng lên án. Và lí do chính đáng nhất ở đây có thể thanh minh cho hành động của anh Tài Tử

là cái nghèo. Không phải ai cũng có đủ tiền để mua tranh. Chẳng thế mà người đời hay đùa:
nghệ thuật là phù phiếm.
Khi nhận thấy hành động sai trái của anh mình, người em – anh Chính Trực – đã tố giác
chính anh ruột của mình. Theo các bạn đây có phải là một hành động đúng không? Theo như


bản thân tôi, tôi cho rằng hành động này sai nhiều hơn đúng. Vì sao? Vì tình nghĩa anh em ở
đâu rồi? Anh Chính Trực thấy anh mình bị mất danh dự khi tội ăn cắp bị phanh phui thì có
thấy xót xa cho người anh của mình không? Tình nghĩa anh em, huynh đệ là thiêng liêng, tố
giác anh mình phũ phàng như vậy thì tình cảm gắn bó còn là bao?
Tận sâu thâm tâm mỗi con người luôn tự cho rằng mình đúng – đúng ở một khía cạnh nào đó.
Vì vậy, khi bị chính em trai mình tố cáo, bản thân anh Tài Tử ắt hẳn sẽ bị tổn thương, sau đó
là hàng ngàn lý lẽ bao biện cho hành động ăn cắp của mình thay vì ăn năn và nhận ra lỗi lầm.
Anh Chính Trực có ý tốt, là một người ngay thẳng, dám lên án cái xấu – dù là người thân của
mình. Một vẻ đẹp chính trực không phải ai cũng có được. Tuy nhiên anh đã không đặt bản
thân vào vị trí của anh trai – anh Tài Tử – để suy nghĩ. Có thể khi thấy anh mình ăn cắp, anh
Chính Trực đã cho rằng anh mình là một kẻ đốn mạt, và phản ứng ngay mà không suy nghĩ:
vì sao anh tài tử phải ăn cắp? Vì điều gì?
Khi nhìn thấy một cô gái làm mẹ ở tuổi 17, người đời chê cười cô hư hỏng. Khi nghe đến
một cậu trai chết vì HIV/AIDS, người ta ngay lập tức cho là anh ăn chơi sa đọa. Nhưng
người ta có biết, cô gái bị xâm hại tình dục và cậu trai đã mang trong mình căn bệnh thế kỷ
từ khi vừa sinh ra. Đôi khi, chúng ta không thể hiểu được tất cả khi chỉ nhìn bằng mắt. Anh
Chính Trực cũng như vậy, anh không hiểu nhưng đã vội vàng phán xét anh Tài Tử và tố giác.
Điều đó có phải quá sai lầm không? Và hơn thế nữa, đó còn là anh ruột của mình. Nếu anh
chịu suy xét, chịu hỏi han và lắng nghe, khuyên can anh tài tử nên trả lại bức tranh cho họa
sĩ… Thì sự việc có thể sẽ khác, tình anh em càng thêm vững bền.
Tìm hiểu nguyên nhân, khuyên nhủ và tố giác. Như vậy chúng ta có thể thấy, tố cáo sai phạm
của một ai đó luôn là hành động cuối cùng, khi người ta không chịu nhận lỗi và sửa sai. Vì
lòng tự tôn và tự trọng của con người rất lớn. Khi bị hàm oan, khi bị mất thể diện con người
sẽ phản ứng tiêu cực như một lẽ tự nhiên.

Sự việc vỡ lở… Họa sĩ không những không trách móc nổi giận mà còn "tặng luôn bức tranh".
Chứng tỏ họa sĩ là một người yêu nghệ thuật chân chính và hào phóng, ông hiểu tấm lòng
anh tài tử yêu cái đẹp, ông sẵn sàng tặng bức tranh cho người yêu mến và biết thưởng thức
nghệ thuật. Quả thật đây là hành động cao đẹp vô cùng, chính hành động này cũng đã giải
tỏa nỗi băn khoăn của tôi nêu ở trên: "Có thể họa sĩ vẽ cô Kiều Diễm vì ông yêu cái đẹp, yêu


đường cong mượt mà của người phụ nữ – hoặc chỉ là vì tiền". Có thể nhiều người cho rằng
họa sĩ phản ứng thật kì lạ khi vui vẻ đem tặng đứa con tinh thần cho một kẻ ăn cắp – ăn cắp
chính tài sản của mình. Nhưng ông có lý lẽ riêng của ông. Đứng trên khía cạnh là một nghệ
sĩ, có lẽ họa sĩ cần một người yêu tác phẩm của ông, biết thưởng thức say mê hơn là một
người chỉ biết vung tiền mua tranh rồi không trân trọng, chỉ mượn tiền để lòe thiên hạ, để
chứng tỏ bản thân cũng là người hiểu biết nghệ thuật mà thực sự là chẳng biết gì. Từ hành
động này, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra những tình huống tương tự trong cuộc sống thường
nhật. Người ta vẫn hay hô hào "Coi trọng tấm lòng", "Tiền không phải là tất cả" nhưng
dường như con người đang đi ngược lại điều họ nói. Chúng ta thường quan tâm tới hình thức,
sĩ diện hão hoặc đánh giá ẩu một con người ngay khi có cơ hội; Người ta bị đồng tiền làm
lóa mắt và bất chấp tất cả để sở hữu nó – khi đã có nhiều tiền, người ta mới ngỡ ngàng nhìn
lại, nhận ra bản thân đánh mất đi quá nhiều thứ. Đích đến cuối cùng của mọi cố gắng, nỗ lực
trong cuộc sống đều hướng về cái gọi là "Hạnh phúc". Nhưng quá trình đạt được điều đó
khiến người ta mờ mắt bởi bao điều phù phiếm, mộng mị mà quên đi mục tiêu ban đầu, để
rồi lạc lối trong u mê, biến chất, mục ruỗng tâm hồn. Một điều ai cũng biết nhưng họ thường
quên đi: Đồng tiền chỉ góp phần xây dựng chứ không thể tạo ra hạnh phúc; Quay trở lại với
họa sĩ, hành động của ông đã khiến tôi bất ngờ và suy nghĩ, vì đôi khi tôi cũng để đồng tiền
chi phối bản thân mình.
"Những khái niệm của người nông dân bình thường về cái đẹp có nhiều phần không giống
những khái niệm của những giai cấp có học vấn trong xã hội". Lập lại một lần nữa, vì như tôi
nhận thấy, câu nói này phản ánh khá chính xác mâu thuẫn mấu chốt của câu chuyện. Tại sao
ư? Vì khi chị Kiều Diễm về nhà và thấy bức họa vẽ thân thể mình, sự xấu hổ, nhục nhã cuộn
trào đã khiến chị không giữ được bình tĩnh mà xé nát bức tranh. Cái đẹp đối với họa sĩ, trong

mắt anh Tài Tử khác với cái đẹp của chị Kiều Diễm – vì hoàn cảnh khác nhau. Có lẽ chị
Kiều Diễm khi quyết định làm người mẫu khỏa thân đã không hiểu hết được đặc điểm của
cái nghề chị đang làm, nên khi rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, chị hoàn toàn không giữ được bình
tĩnh.
Chị Kiều Diễm xé tranh, hành động xuất phát từ sự xấu hổ và không kìm chế được xúc cảm.
Và hành động đó của chị đã tác động mạnh tới các nhân vật còn lại trong câu chuyện: họa sĩ,
anh Tài Tử, anh Chính Trực.


Họa sĩ đã bỏ công sức, tiền bạc để tạo ra bức tranh; Anh Tài Tử yêu mến cái đẹp của tranh
mà liều lĩnh ăn cắp tranh; Anh Chính Trực cũng vì bức tranh mà có cái nhìn khác về anh
mình và làm tình cảm anh em rạn nứt… Cuối cùng chị Kiều Diễm xé nát tranh, chị là người
tổn thương nhiều nhất nhưng những người xung quanh chị cũng loay hoay với nhiều cảm
xúc khác nhau… Tùy vào tính cách từng người, cách cảm nhận của từng nhân vật mà họ có
những suy nghĩ khác biệt. Nhưng dù sao thì hành động của chị Kiều Diễm cũng là một hành
động tồi tệ. Hủy hoại cái đẹp thì đáng lên án quá chứ? Trong hoàn cảnh của chị, không nhất
thiết phải xé tranh; Chị có nhiều hơn một sự chọn lựa hành xử sao cho đẹp.
Đó là những điều tôi cảm nhận được trong câu chuyện trên, có thể đúng, có thể sai… Mỹ học
dạy cho chúng ta biết cái gì đẹp, cái gì xấu, cái đẹp có giá trị như thế nào… Giúp chúng ta tự
ý thức sống tốt hơn. Xuất phát từ mục đích, động cơ, tùy vào cách cư xử mà mỗi người sẽ tự
làm cho bản thân đẹp hơn hoặc xấu đi. Hầu như ai cũng yêu cái đẹp nhưng không phải ai
cũng biết cách hành xử sao cho đẹp mà cuộc sống thì luôn chứa đựng nhiều điều bất ngờ và
oái ăm.



×