Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Biện chứng về cái đẹp trong Ngũ luân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.82 KB, 22 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Biện chứng về cái đẹp trong Ngũ luân
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi con người quan tâm đến thẩm mỹ, cái đẹp là một phạm trù được
quan tâm nhiều nhất so với các phạm trù thuộc hệ thống khách thể thẩm mỹ. Nó
chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư duy lí luận mỹ học trong quá khứ
và hiện tại. Thực tế, cái đẹp giữ vị trí lớn lao trong sự đồng hoá thực tại trên
phương diện thẩm mỹ. Phạm trù cái đẹp có nội hàm lớn, biên độ rộng, nó thẩm
thấu vào tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, các ngõ ngách của tâm hồn, vì thế cái
đẹp là đối tượng khám phá của muôn đời. L.Tônxtôi đã từng thốt lên: “Sách viết
về cái đẹp đã chất lên thành núi. Cái đẹp vẫn còn là một câu đố giữa cuộc đời”
1
.
Cái đẹp tồn tại dưới ba hình thức đó là cái đẹp trong tự nhiên, trong xã hội và
trong nghệ thuật.
Cái đẹp trong xã hội do con người tạo ra mà thường gọi là văn hoá ứng
xử. Cái đẹp này thể hiện rõ nhất qua những luân thường đạo lý mà người đời gọi
là NGŨ LUÂN. Sau đây là một số biện chứng về cái đẹp trong NGŨ LUÂN.
Theo đạo đức và luân lý của Nho giáo thì cái đạo làm người thông thường
trong thiên hạ có năm bậc. Nó phản ánh năm mối quan hệ phổ biến trong xã hội
loài người. Luân là thứ bậc ứng xử, là con đường, là những mối quan hệ mà con
người phải biết ứng xử. Ngũ luân có năm đạo: vua - tôi; thầy - trò; cha mẹ - con
cái; vợ - chồng; anh em, bạn bè, láng giềng. Phương châm ứng xử là trung dung.
Trung dung có nghĩa là ở mức vừa phải. Chưa cần xét đến những ý nghĩa
cao xa ta cũng nhận thấy đây là chủ trương của nhà Nho rất thực tiễn; khuyên
người ta tránh chỗ cực đoan, chớ thái quá cũng đừng bất cập. Quả thật, bất cứ
điều gì dù tốt đẹp đến đâu mà đi đến chỗ thái quá cũng đành dở cả. Khổng Tử đã
đem điều đó dạy cho các môn đệ mà Tăng Tử là người học được tâm đắc nhất
Website: Email : Tel : 0918.775.368
rồi thầy lại truyền cho các học trò của mình. Để có thể xử lý tôt năm mối quan hệ
đó con người cần phải có năm cái đức thông thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.


Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN I: BIỆN CHỨNG CÁI ĐẸP TRONG QUAN HỆ VUA- TÔI
Trong mối quan hệ vua- tôi, đạo đức và luân lý Nho giáo đòi hỏi phải có
sự ứng xử qua lại của ca hai bên. Đó là Vua phải biết đối xử với bề tôi, tôn trọng
và quí mến bề tôi; còn bề tôi phải biết giữ đạo trung khi thờ Vua. Nếu không làm
được điều đó thì hậu quả tất yếu là bề tôi giết Vua. Bởi lẽ nếu “Vua mà coi bề tôi
như tay chân, ắt bề tôi sẽ coi vua như bụng dạ. Vua mà coi bề tôi như chó ngựa,
ắt bề tôi sẽ coi Vua như kẻ qua đường. Vua mà coi bề tôi như bùn rác, ắt bề tôi sẽ
coi Vua như kẻ cướp người thù” (Mạnh Tử, Ly hậu tạ, tiết 3).”Trung” theo nho
giáo đó là phải biết giúp cho Vua đi vào con đường đạo đức dồn hết tâm trí để
làm việc nhân. “Trung” là không được dối gạt Vua và cũng không sợ làm mất
lòng Vua.’ Trung” cũng tức là phải biết đặt lợi ích của đất nước (cũng có nghĩa
là của nhà Vua) lên trên hết, phải biết đem đạo lý mà thờ Vua, việc gì có ích cho
nước, có lợi cho dân thì giúp cho Vua làm. “Trung” còn có nghĩa là, một mặt
phải biết can gián Vua khi Vua làm những việc tráI với đạo lý; mặt khác, không
được vào hùa theo vua khi vua lầm lỗi, không được đón trước ý xấu của Vua rồi
khêu gợi cho Vua lầm lỗi. Vào hùa với Vua khi Vua lầm lỗi hoặc khêu gợi cho
Vua khi Vua lầm lỗi là bất trung. “Trung” cũng có nghĩa là cung và kính. “
Người nào nhắc nhở những việc khó để Vua làm, thì người ấy có nếp cung, người
nào bày tỏ điều thiện đức, ngăn cản việc tà khuất thì đối với Vua người ấy có đức
kính. Còn kẻ nào nói Vua ta chẳng có sức làm thiện làm nhân kẻ ấy làm hại Vua
vậy” (Mạnh Tử, Ly lâu thượng, tiết 1).
Như vậy để Vua tôi hoà thuận, bề tôi cần phải có đức Trung trong mọi
công việc được Vua giao. Ngược lại Vua cần phải giữ lễ trong việc sai xử bề tôi,
nghĩa là không được dựa vào quyền hành và thân thế mà đối xử với bể tôi. Lễ ở
đây còn có nghĩa là Vua tôn trọng người hiền tài, phải biết lắng nghe lời can gián
của bề tôi. “Bề tôi can gián thì Vua theo, nói phải thì Vua nghe, ơn huệ thấm
xuống dân. Bề tôi vì một lẽ gí đó phải bỏ nước ra đi, ắt Vua sai người hộ tống đến
Website: Email : Tel : 0918.775.368
miền biên giới. Trước đó Vua còn có lời gửi gắm người quan cũ của mình đến vị

Vua trong nước mà người sắp đến. Quá 3 năm mà người chẳng trở về, lấy lại
ruộng đất và dinh thự của người. Đó gọi là 3 việc có lễ của nhà Vua đối với bề
tôi” ( Mạnh Tử, Ly hậu tạ, tiết 3).
Trong lịch sử của dân tộc ta đã có không biết bao nhiêu ông vua, những
bậc hiền tài như vậy: Trần Quốc Tuấn (1226- 1300) dân gian gọi là đức thánh
Trần; cháu gọi Trần Cảnh (tức Trần Thái Tông) là chú, có tài quân sự được Trần
Khâm (tức Nhân Tông) cử làm Tiết chế các đạo quân thuỷ bộ đánh tan giặc
Nguyên- Mông 3 lần ( các năm 1257, 1284, 1288) sang xâm lược nước ta, giành
nhiều chiến thằng vang dội ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng
được nhà Trần phong tước Hưng Đạo Đại Vương. Theo phong tục thờ thần
thánh, nhân dân các đời sau lập đền thờ ở rất nhiều nơI sùng báI ông như một vị
thánh, thường gọi là “Đức thánh Trần” không chỉ lập chiến công bảo vệ đất
nước mà còn trấn trị ma quỉ, giữ yên cuộc sống đem lại cuộc sống hạnh phúc và
thanh bình.
Thiền sư Vạn Hạnh là người họ Nguyễn, người hương cổ Pháp. Gia đình
đã mấy đời thờ Phật, thưở nhỏ đã thông minh khác thường, học thông ba giáo,
đọc kĩ trăm nhà nhưng coi khinh công danh phú quí. Năm 21 tuổi xuất gia cùng
Đinh Huệ theo học Đạo với Thiền Ông đạo giá ở chùa Lục Tổ những khi công
việc rỗi rãi sư chăm chỉ học hỏi không biết mệt. Sau khi Thiền Ông tịch diệt, sư
bèn chuyên tâm tu tập kinh “Thống trí tam ma địa” lấy đó làm sự nghiệp bấy giờ
sư nói ra điều gì thiên hạ đều coi như sấm ngữ. Vua Lê Đại Hành đặc biệt tôn
kính sư. Năm Thiên Phúc thứ nhất (980), nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân
sang xâm lược nước ta, đóng quân ở gò Từ Thương núi Giáp Lăng, Vua mời sư
đến hỏi tình thế thắng bại thế nào, sư đáp:
- Chỉ trong ba ngày, bảy ngày giặc tất phải lui.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sau quả đúng thế. Vua muốn quân đi đánh Chiêm Thành, cùng bàn bạc
với triều thần nhưng chưa quyết. Sư tâu xin cấp tốc tiến quân, nếu không sẽ lỡ
dịp. Vua bèn đem quân đi đánh quả nhiên thu được toàn thắng.
Đến khi Lê Ngoạ lên ngôi, tàn ngược độc ác trời người đều oán giận. Lý

Công Uốn lúc bấy giờ còn giữ Thân vệ chưa được nhường ngôI hoàng đế. Bấy
giờ điềm lạ xuất hiện ở nhiều nơi: Chân Cổ Pháp có hình chữ Thiên Tử, cây gạo
bị sét đánh để lại vết tích chữ viết, xung quanh mộ Hiển Khánh đại vương ban
đêm nghe tiếng tụng kinh râm ran…Sư đều biện giảI được vì thế khi Lý Thái Tổ
lên ngôi sư đang ở chùa Lục Tổ mà biết trước sự việc.
Ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) sư không bệnh gọi tăng
chúng đến đọc bài kệ:
“Thân như bóng chớp có rời không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kia kìa ngọn cỏ giọt sương đông”
Một lát sau sư qua đời. Vua cùng các quan, dân làm lễ hoả táng, rồi xây
tháp chứa xa ly để đến hương phụng thờ. Vua Lý Thái Tông có làm bài kệ truy
tán thiền sư như sau:
“ Vạn Hạnh thông ba cõi
Lời sư nghiệm sấm thi
Từ làng quê Cổ Pháp
Chống gậy chốn kinh kì”
(Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại- NXBGD)
Lê Lai danh tướng có sách chép là Nguyễn Thân sau theo phò Lê Lợi đổi
tên là Lê Lai quê thông Giang Ta, huyện Thuỵ Nguyên, tỉnh Thanh Hoá. Thân
phụ ông tên Kiều, làm phụ đạo đất Lam Sơn, sinh 2 trai trưởng tên Lan, thứ là
ông. Ông theo dưới cờ Bình Định Vương Lê Lợi, dũng liệt kháng Minh cứu
nước. Năm Bính Thân 1416 tại Lũng Nhai, ông cùng Bình Định Vương và 17
tướng lãnh tâm phúc thề sống chết có nhau được Lê Lợi trao chức Đô Tổng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quản, tước quan nội hầu. Năm Mậu Tuất 1418 khoảng cuối năm bị quân Minh
vây chặt ở vùng Chí Linh, Bình Định Vương hỏi các tướng:
-“Ai khứng giả dạng ta cầm quân chống nhau với giặc, noi gương Kỉ Tín
ngày xưa chết thay cho Hán Cao Tổ. Để ta náu dấu nghỉ binh góp nhặt tướng sĩ

mà lo nổi dậy phục quốc về sau”.
Lê Lai tình nguyện xin đi. Bình Định Vương cảm khái, khấn với trời đất:
-“Lê Lai vì đại nghĩa xả thân, tôi thề sau này chẳng quên ơn ấy, nếu nuốt
lời thề thì cung điện thành từng núi, ẩn báu thành đồng, gươm thần thành đao”.
Lê Lai bèn ăn mặc giả vua đem 500 quân, 2 thớt voi, thẳng tới trại giặc
khêu chiến, quân Minh vây đánh ông chiến đấu đên lúc kiệt sức để cho giặc bắt
và cho chúng giết. Nhớ ơn Lê Lai, Vua Lê đã tìm thấy ông từ trước, chôn ở Lam
Sơn, khi lên ngôI truy tặng ông là đệ nhất công thần. Năm Kỉ Dởu 1429 trung
phong là Thái Uý. Đến thời Nhân Tông, Quí Hợi 1449 truy tặng là Bình Chương
quân quốc trọng sư, cho Kìm ngù đại kim phù, tước là Huyện Thượng Hầu. Đời
Thánh Tông được tặng Thái phó, tước Diên phúc hầu, truy phong là Trung Túc
Vương. Đến đời nhà Nguyễn- Gia Long liệt kê ông vào hàng khai quốc công
thần đệ nhất triều Lê cho tìm con cháu ông coi giữ đền thờ. Bình Định Vương
thường nói:” Sau này ta mất đi khi đến lễ giổ ta, thì một ngày trược đó phải cúng
tế Lê Lai”. Ca dao ta còn truyền tụng:” Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”
Quan hệ vua- tôi theo Nho giáo, ngoàI chiều thuận còn có triều nghịch.
Đức trung ở Nho giáo cũng có sự quyền biến. Nho giáo đòi hỏi người quân tử
cần biết mình đang phục vụ ông vua nào. Nếu là phục vụ một ông vua mà kẻ bề
tôi can gián không nghe, nói phải không theo và ơn huệ thì không thấm được
xuống dân, một ông vua mà vì một lẽ gí đó, bề tôi phải bỏ nước ra đi thì bị bắt
giữ lại nếu đi thoát được thì tìm mọi cách gây khó khăn làm cho bề tôi phải khốn
khổ ở nơi mới đến, một ông vua mà ngay trong ngày bề tôi ra đi mà thu hết
ruộng nương nhà cửa một ông vua như thế, đối với bề tôi chỉ còn là giặc cướp,
cừu thù. Đã là giặc cướp, cừu thù mà còn trung thì đó là ngu trung. Do đó, nếu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vua bạo ngược, sẵn sàng ra lệnh giết kẻ sĩ vô tội, thì quan đại ngu nên bỏ nước
mà đi; giết dân vô tội thì kẻ sĩ nên liệu mà dời chân. Ông vua nước Tề là Tề
Cảnh Công rất giàu có nhưng lại không có ân đức gì với dân, đến khi chết vẫn
không được ai nhắc tới, còn hai anh em Bá Di, Thúc Tề nước Cô Trúc được xem
là có đức hạnh, muốn ngăn cản Chu Văn Vương trừng phạt vua Trụ khi Văn

Vương thành công, hai ông quyết không chịu ăn gạo của Văn Vương mà lên núi
Thủ Dương ở ẩn hái rau mà ăn. Điều đó được Khổng Tử nhắc lại trong Luận ngữ
của mình như sau:” Cảnh Công nước Tề có ngàn cỗ xe bốn ngựa, ngày mất đi,
dân chúng chẳng chịu ơn để ca tụng. Bá Di, Thúc Tế chịu chết đói ở dưới núi Thủ
Dương đến nay dân còn ca tụng. Câu Kinh Thi thật tình chăng phải vì giầu có chỉ
vì đức hạnh để đời đấy thôi.”
Như vậy ,trong mối quan hệ Vua –tôi vẻ đẹp thẩm mỹ được thể hiện đó
là:Vua phải giữ lễ trong viêc sai xử bề tôi , không được dựa vào quyền lực của
mình để đối xử với bề tôi còn bề tôi cần phải có đức trung trong mọi công việc
được Vua giao. Vua – tôi hoà thuận trên dưới một lòng là yếu tố rất quan trọng
để nước ta có thể đánh bại được quân xâm lược, bảo vệ tổ quốc làm nên đất nước
với 4000 năm lịch sử.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN HAI: BIỆN CHỨNG VẺ ĐẸP THẨM MỸ TRONG MỐI QUAN HỆ
CHA - CON
Trong mối quan hệ cha - con, Nho giáo đòi hỏi người làm cha phải có đức
tính nhân từ, ngưòi làm con phải có đức hiếu lễ. Theo Nho giáo, hiếu là để thờ
cha mẹ, nó là nguồn gốc của đức nhân. Khi nói tới đức nhân tức là nói đến lòng
yêu nước thương người, mà muốn yêu thương ngưòi thì trứoc hết phải yêu
thương cha mẹ mình, anh em mình. Nho giáo cho rằng ,người mà không biết yêu
thương cha mẹ lại có thể đem lòng yêu thương ngưòi kháclà điều không thể
được. Vì vậy, suy đến cùng, đạo của Vua cũng là đức hiếu lễ: “Trong những
người có nết hiếu, nết đễ, ít ai ưu tráI nghịch với bề trên.Dã không ưu trái nghịch
với bề trên, lại thích gây ra những cuộc phản loạn, người như vậy ta chưa từng
thấy. Cho nên bậc quân tử chuyên chú vào việc gốc. Cái gốc được vững tốt, tự
nhiên đạo lý bắt đầu từ đó mà sinh ra. Vậy làm người mà biết giữ gìn nết hiếu, nết
đễ, tức là biết nắm lấy cái gốc đó.” (Luận ngữ,Vi chính, tiêt 2).
Đối với Nho giáo, “hiếu là cái đạo phải làm của mỗi con ngưòi sống trong
xã hội. Trong xã hội, việc phải làm đầu tiên của mỗi người là cần chịu khó học
tập, rèn luyện bản thân để có thể lập thân, hành đạo, nêu cao thanh danh đến đời

sau để làm vinh hiển cho cha mẹ.”(Hiếu Kinh). Như vậy hiếu đòi hỏi người con
phải:
Thứ nhất: có trách nhiệm làm cho cha mẹ mình được xã hội tôn trọng, mà
chỗ làm cho cha mẹ được tôn trọng chí cực, không gì bằng đem cả thiên hạ mà
phụng dưỡng cha mẹ.
Thứ hai: giữ đựoc địa vị của ông cha, làm theo lễ của ông cha, tẩu nhạc
như ông cha, kính những ngưòi mà ông cha trọng, mến những người mà ông cha
yêu, thờ người khác như thờ người sống, trọng ngưòi đã qua như trọng người
đang tồn tại. Để làm được như vậy, theo Khổng Tử khi:”cha còn sống phải xem

×