Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 175 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ NGỌC HÀ

CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ NGỌC HÀ

CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN


Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................8
1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ......................................................................8
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước....................................................................13
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu ...........................................................................27
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ....................................................30
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...............................................................................33
2.1. Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .........33
2.1.1. Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................33
2.1.2. Đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...............................47
2.2. Vai trò và mối quan hệ của chức năng bào chữa với các chức năng cơ bản
khác của tố tụng hình sự .........................................................................................53
2.2.1. Vai trò của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................53
2.2.2. Mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng
xét xử .........................................................................................................................55
2.3. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự và chức
năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự ...............................................57
2.3.1. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .....................57

2.3.2. Chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự .................................61
2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự ......................................................................................................................66
Chƣơng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN CHỨC NĂNG BÀO
CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN .........................................................................................................................69
3.1. Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
...................................................................................................................................69
3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam ...................................................................................................................69

ii


3.1.2. Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế
giới và kinh nghiệm cho Việt Nam ...........................................................................90
3.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự..................95
3.2.1. Tình hình người bị buộc tội và người bào chữa tham gia bào chữa trong các
vụ án hình sự .............................................................................................................95
3.2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố ...........................................................................................105
3.2.3. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn
xét xử .......................................................................................................................113
3.2.4. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bị buộc tội ...................118
3.2.5. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thực hiện chức năng bào
chữa trong tố tụng hình sự.......................................................................................122
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.......131
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức năng bào
chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ..................................................................131

4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam.................................................................................................................137
4.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự .............................................................................................................137
4.2.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự .............................................................................................................146
KẾT LUẬN ............................................................................................................158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ .............................................................159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................160
PHỤ LỤC ...............................................................................................................166

iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV


Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

NBC

Người bào chữa

TA

Tòa án

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

THTT

Tiến hành tố tụng

TTHS

Tố tụng hình sự


TAND

Tòa án nhân dân

TGPL

Trợ giúp pháp lý

VKS

Viện kiểm sát

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VAHS

Vụ án hình sự

iv


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Danh mục bảng
Bảng 3.1: Số vụ án có NBC tham gia ở giai đoạn xét xử sơ thẩm............................95
Bảng 3.2: Số vụ án luật sư được mời và chỉ định tham gia bào chữa trong quá trình
tham gia giải quyết vụ án ...............................................................................98
Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Số vụ án luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan THTT từ

năm 2013 đến 2018 ........................................................................................98
Biểu đồ 3.2: Số luật sư trên toàn quốc từ năm 2013 đến 2018 .................................99

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các chức năng của tố tụng hình sự là một trong những vấn đề lý luận quan
trọng, cơ bản của tố tụng hình sự. Mặc dù còn nhiều cách tiếp cận khác nhau về các
chức năng cơ bản của tố tụng hình sự nhưng đa số các ý kiến đều thừa nhận có ba
chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và
chức năng xét xử. Các chức năng này luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Việc tồn tại chức năng bào chữa
cùng với chức năng buộc tội, chức năng xét xử là nhu cầu tất yếu khách quan, xuất
phát từ mục đích của tố tụng hình sự là tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy
nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về chức năng bào chữa trong
TTHS. Chức năng bào chữa là gì, nội dung của chức năng bào chữa bao gồm những
vấn đề gì, chức năng bào chữa có đồng nhất với hoạt động bào chữa của luật sư hay
không, chủ thể thực hiện chức năng bào chữa có giống với chủ thể của quyền bào
chữa không… vẫn còn nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau.
Bào chữa trong tố tụng hình sự có thể được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau như: bào chữa là một chức năng của tố tụng hình sự, bào chữa là một nguyên
tắc của tố tụng hình sự, bào chữa là quyền của người bị buộc tội, bào chữa là một
chế định trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, dưới góc độ là một chức năng của tố tụng
hình sự, chức năng bào chữa có phạm vi rộng hơn cả. Chức năng bào chữa có vai
trò và ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, chức năng bào chữa góp phần bảo
vệ công lý, xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án
khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Cùng với chức năng buộc tội và chức năng

xét xử, chức năng bào chữa tạo nên sự vận hành mang tính ổn định của hệ thống tố
tụng hình sự. Như vậy, nhìn từ góc độ lý luận, chức năng bào chữa có vai trò rất
quan trọng đối với công cuộc cải cách tư pháp, nhằm mục đích không ngừng phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Để đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 và
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới. Nghị quyết đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo như tăng
cường hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó nhấn mạnh việc
mở rộng hơn nữa quyền của người bào chữa và người bị buộc tội; bảo đảm tranh
tụng với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Ngày 30/3/2009,
1


Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số
33/CT-TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của luật sư. Đây là văn bản của Đảng chỉ đạo toàn diện, đầy đủ nhất cho việc phát
triển nghề luật sư. Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu chức năng bào
chữa trong tố tụng hình sự trở nên cấp thiết trong bối cảnh BLTTHS 2015 ra đời,
thay thế cho BLTTHS năm 2003. Các vấn đề có liên quan đến bào chữa trong tố
tụng hình sự đã được quy định thành chương riêng, đó là chương về bào chữa, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong đó, có sự ghi nhận các quy định
về người bào chữa, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, lựa chọn và chỉ định
người bào chữa, thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa và các hoạt động
tham gia tố tụng khác của người bào chữa như : việc đăng kí bào chữa, việc gặp
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, thu thập chứng cứ, giao tài liệu,
đồ vật, chứng cứ liên quan đến việc bào chữa… Tuy nhiên, một số quy định thể
hiện chức năng bào chữa trong BLTTHS năm 2015 vẫn còn bất cập, hạn chế, vì
vậy cần tiếp tục hoàn thiện để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ nhằm bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội. Như vậy, xét từ góc độ quy định pháp luật, việc

nghiên cứu chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng
trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và cải
cách tư pháp nói riêng.
Xét từ góc độ thực tiễn, việc thực hiện các chức năng bào chữa, chức năng
buộc tội và chức năng xét xử chưa được phân biệt rõ ràng, còn xảy ra tình trạng
chồng chéo nhau, các chủ thể thực hiện chức năng nêu trên chưa làm hết chức năng
của mình. Bên cạnh đó, mặc dù trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người bào chữa
ngày càng được nâng cao, sự tham gia của người bào chữa ngày một nhiều hơn,
nhưng chất lượng giải quyết vụ án vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nguyên
nhân dẫn đến thực trạng này bao gồm cả nguyên nhân chủ quan từ phía người bào
chữa, và nguyên nhân khách quan từ các cơ quan tiến hành tố tụng và các quy định
của pháp luật. Trong một số trường hợp, người bào chữa chưa thực sự được cơ quan
tiến hành tố tụng tạo điều kiện để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Hơn nữa, nhận thức của cơ quan bảo vệ pháp luật về vai trò của người bào chữa
chưa thực sự đúng đắn. Vị trí của người bào chữa phải được xem là một bên tham
gia tố tụng, ngang hàng và bình đẳng với Kiểm sát viên. Cùng với các cơ quan tiến
hành tố tụng, các hoạt động của người bào chữa góp phần tìm ra chân lý khách quan
của vụ án. Nhận thức này phải được quán triệt trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư
pháp, đặc biệt là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và mọi công dân.
2


Các nội dung về bào chữa đã được nhiều tác giả quan tâm ở những khía cạnh
khác nhau, thể hiện qua các luận án, luận văn thạc sỹ, bài viết trong tạp chí chuyên
ngành, bài viết chuyên đề trong đề tài nghiên cứu khoa học… Đó là các nội dung
liên quan đến quyền bào chữa, việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa, người bào
chữa, vai trò của người bào chữa, chức năng của tố tụng hình sự, chức năng xét xử
của tố tụng hình sự, chức năng buộc tội của tố tụng hình sự… Tuy nhiên, ở cấp độ
tiến sỹ, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu rộng, toàn diện về
chức năng bào chữa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Chức năng bào chữa trong tố

tụng hình sự Việt Nam ” là cấp thiết và tác giả đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu
dưới góc độ là một luận án tiến sỹ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng quy định của pháp luật
và thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS, luận án đưa ra những kiến
nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong
tố tụng hình sự.
Để thực hiện mục đích này, luận án đặt ra các nhiệm vụ sau :
- Làm rõ vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong TTHS như : cơ sở quy
định chức năng bào chữa; khái niệm, đặc điểm, vai trò của chức năng bào chữa;
hình thức thực hiện chức năng bào chữa…
- Làm rõ thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng thực hiện quy định
về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
- Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa và các giải pháp bảo
đảm thực hiện có hiệu quả chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc
điểm, mục đích ý nghĩa, nội dung, cơ sở của chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự... ; các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam. Ngoài ra đối tượng của đề tài là thực tiễn thực hiện chức
năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, đánh giá thực tiễn để phân tích và
làm rõ những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành thông qua những số liệu,
ví dụ điển hình trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự để đưa ra một số giải pháp
hoàn thiện các quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam.
3


3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng bào chữa trong lĩnh vực tố
tụng hình sự, thực trạng và giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng bào
chữa trong TTHS Việt Nam.
Về thời gian: Quy định của pháp luật về chức năng bào chữa được nghiên cứu
trong từng giai đoạn lịch sự cụ thể như giai đoạn trước khi BLTTHS 1988 ra đời,
giai đoạn BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 và giai đoạn BLTTHS năm
2015 có hiệu lực thi hành.
Các vấn đề thực tiễn về chức năng bào chữa chủ yếu nghiên cứu trong khoảng
10 năm trở lại đây (thời gian thực hiện BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015)
từ năm 2009 đến 2019, trong đó có sự so sánh về thực trạng thực hiện các quy định
về chức năng bào chữa theo BLTTHS năm 2003 và thực trạng thực hiện chức năng
bào chữa theo BLTTHS năm 2015.
Về không gian : Luận án nghiên cứu các vấn đề thực tiễn thông qua việc
nghiên cứu, tổng kết các vụ án có sự tham gia của NBC trong phạm vi toàn quốc và
phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS trên cơ sở báo cáo
của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, phiếu khảo sát một số luật sư ở Hà Nội và địa phương như Bắc Giang, Bắc
Ninh... Luận án không nghiên cứu, đánh giá việc thực hiện chức năng bào chữa
trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tư pháp trong quân đội.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận án
được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Luật tố tụng hình sự kết hợp
tiếp cận đa ngành, liên ngành.
Cách tiếp cận: Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên ngành
Luật tố tụng hình sự, Luật hình sự, Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Khoa
học điều tra hình sự, Tội phạm học và phương pháp tiếp cận lịch sử, tiếp cận đa
ngành, liên ngành; tiếp cận dưới khía cạnh luật so sánh… Cụ thể :

Tiếp cận của chuyên ngành luật hình sự, luật tố tụng hình sự, Lý luận chung
về Nhà nước và pháp luật: phân tích, luận giải các vấn đề lý luận của người bào
chữa, người bị buộc tội như quyền và nghĩa vụ của họ, các hoạt động bào chữa của
các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, chức năng của Nhà nước, chức năng của
4


pháp luật… Đặc biệt, việc tiếp cận chức năng bào chữa trong TTHS cần phải dựa
trên lý thuyết chức năng luận.
Tiếp cận hệ thống: phân tích và đánh giá các nội dung của chức năng bào
chữa đặt trong một chỉnh thể thống nhất, có mối liên hệ và tác động qua lại giữa
chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử - ba chức năng cơ
bản của tố tụng hình sự …
Tiếp cận đa ngành, liên ngành: có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã
hội nhân văn như xã hội học, luật học so sánh…
Tiếp cận lịch sử : Dưới góc độ lịch sử, chức năng bào chữa trong TTHS xuất
hiện từ rất lâu, gắn liền với sự ra đời của người bào chữa và hoạt động của người
bào chữa. Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá trình nghiên cứu và
các nội dung liên quan đến chức năng bào chữa được phân tích, đánh giá trong từng
giai đoạn lịch sử khác nhau.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và
các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài.Trên cơ sở
phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm
và vi phạm pháp luật khác, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, cụ
thể là: phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, so sánh, logic, tổng hợp…
Chương 1, tác giả luận án sử dụng phương pháp hệ thống hóa, phân tích tài
liệu để tổng quan các công trình nghiên cứu về chức năng bào chữa trong tố tụng

hình sự Việt Nam, trên phương diện lý luận và thực tiễn. Sử dụng phương pháp so
sánh khi nghiên cứu vấn đề tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong
nước liên quan đến luận án; so sánh với các chuẩn mực quốc tế. Trên cơ sở đó, đánh
giá và so sánh các công trình nghiên cứu nhằm xác định rõ những kết quả nghiên
cứu liên quan đến luận án, có sự kế thừa những kết quả này đồng thời xác định
những vấn đề liên quan đến đề tài mà các công trình, bài viết trước đó còn bỏ ngỏ
cần phải nghiên cứu bổ sung, phát triển.
- Chương 2, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đánh giá và đưa ra
các khái niệm, đặc điểm, nội dung của chức năng bào chữa, cơ sở quy định chức
năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Chương 3, sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá những quy
định của pháp luật về chức năng bào chữa thể hiện trong từng giai đoạn lịch sử nhất
5


định như giai đoạn trước khi BLTTHS 1988 ra đời, trong BLTTHS 1988, BLTTHS
2003 và BLTTHS 2015; phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của
người bào chữa, người bị buộc tội, bị can bị cáo; trên cơ sở đó rút ra bất cập, hạn
chế, thiếu sót trong qui định và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Luận án cũng sử
dụng phương pháp điều tra xã hội học khi lập bảng hỏi, tiến hành khảo sát một số
luật sư ở Hà Nội và địa phương.
- Chương 4, sử dụng phương pháp phân tích, dự báo nhằm đưa ra phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện dưới góc độ lý luận và thực tiễn
về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Kết quả của luận án đã đóng góp mới
về mặt khoa học như sau :
- Thứ nhất: Luận án làm rõ và bổ sung một số vấn đề lý luận quan trọng của
chức năng bào chữa trong TTHS như: cách tiếp cận chức năng bào chữa dựa trên cơ

sở chức năng luận; cơ sở hình thành chức năng bào chữa trong TTHS; khái niệm,
đặc điểm, vai trò của chức năng bào chữa trong TTHS; hình thức thực hiện chức
năng bào chữa, mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và
chức năng xét xử trong tố tụng hình sự… Đồng thời, luận án phân tích để luận giải
sâu sắc hơn các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong TTHS qua từng thời kỳ
lịch sử nhất định để thấy được lịch sử lập pháp của chức năng bào chữa trong TTHS
Việt Nam.
- Thứ hai: Luận án nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong
TTHS Việt Nam trong 10 năm trở lại đây, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu định
tính và định lượng nhằm tạo ra độ tin cậy cho các kết luận. Cụ thể: Làm rõ những
bất cập trong các quy định của pháp luật TTHS ảnh hưởng đến việc thực hiện chức
năng bào chữa trong TTHS; Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp
luật về chức năng bào chữa của người bào chữa, người bị buộc tội; Nêu và phân tích
được những khó khăn, bất cập mà chủ thể thực hiện chức năng bào chữa gặp phải
trên thực tế… Luận án đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối với một số luật
sư hành nghề trong vụ án hình sự trên thực tế để thấy được thực tiễn thực hiện một
số quy định mới của Bộ luật TTHS năm 2015 có liên quan đến chức năng bào chữa
như: việc thực hiện một số quyền mới của luật sư, việc tạo điều kiện của các cơ
quan tiến hành tố tụng đối với luật sư trong quá trình bào chữa và bảo vệ quyền lợi
6


cho thân chủ ở giai đoạn trước khi ra phiên tòa (khởi tố, điều tra, truy tố, chuẩn bị
xét xử) và tại phiên tòa…
- Thứ ba: Luận án đã đưa ra các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật
và bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa có hiệu quả trên thực tế. Các giải pháp
này bao gồm các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật, đặc biệt là pháp luật
TTHS về chức năng bào chữa và nhóm các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về
chức năng bào chữa trong TTHS như: giải pháp về con người, giải pháp về kinh tế,
chính trị, xã hội…

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Cụ thể : Khái niệm, đặc điểm của
chức năng bào chữa trong TTHS, hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong
TTHS, mối quan hệ của chức năng bào chữa và chức năng buộc tội, chức năng xét
xử trong TTHS…
Luận án có ý nghĩa thực tiễn rất lớn và là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cá
nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo, nghiên cứu trong quá trình góp ý, hoàn thiện quy
định của pháp luật. Đồng thời, luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt
động nghiên cứu và giảng dạy về luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
chia thành bốn chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam
Chƣơng 3: Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện
Chƣơng 4: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam

7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nƣớc
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các vấn đề về bào chữa được nghiên cứu từ
nhiều khía cạnh, chẳng hạn về quyền bào chữa, người bào chữa, việc tham gia tố

tụng của người bào chữa… Đó là nền tảng khoa học cho việc xây dựng, thực hiện
các quy định pháp luật về chức năng bào chữa.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của mô hình tố tụng hình sự là rất
cần thiết đối với nghiên cứu sinh, bởi vì mô hình tố tụng hình sự là phương thức để
thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Theo bài viết “Major legal systems in
world today” (tạm dịch: Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại)
của Rene David, John E.C.Brierly, The Free Press năm 1978 thì hệ thống pháp luật
của các quốc gia trên thế giới được phân thành 4 nhóm là: hệ thống pháp luật châu
âu lục địa, hệ thống thông luật Anh-Mỹ, hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa và hệ
thống pháp luật dựa trên vấn đề tôn giáo và truyền thống pháp luật khác.
Cuốn sách “Những mô hình tố tụng hình sự trên thế giới” của tác giả JeanPhillipe Rivaud năm 2000 đã tập trung phân tích, so sánh các mô hình tố tụng hình
sự trên thế giới, đồng thời khẳng định các quyền cơ bản của người bị buộc tội như
quyền có người bào chữa, quyền im lặng, quyền được bào chữa miễn phí…
Cuốn sách “Tư pháp hình sự so sánh” của tác giả Phillip.L.Reichel (bản dịch
tiếng việt của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý năm 1999) đã phân tích đặc điểm
và so sánh các truyền thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đặc biệt là so sánh mô
hình tố tụng kiểm soát tội phạm và mô hình tố tụng công bằng. Tất cả các truyền thống
pháp luật này đều có chung mục đích là phát hiện tội phạm, tìm ra sự thật khách quan
của vụ án nhưng mỗi truyền thống pháp luật sử dụng mô hình tố tụng khác nhau, quan
trọng là cách thức nào tốt nhất để tìm ra sự thật của vụ án. Sự khác nhau của các mô
hình tố tụng tất yếu dẫn đến sự khác nhau của các chức năng tố tụng, trong đó có chức
năng bào chữa và những nội dung cơ bản của chức năng bào chữa.
Bài viết “Phân tích, so sánh hai hệ thống pháp luật Mỹ và Pháp” của tác
giả James Claude và Joseph Daly (thông tin khoa học pháp lý tháng 10/1994) đã chỉ
ra sự giống nhau trong hệ thống pháp luật của 2 nước này, đó là mô hình tố tụng
thẩm vấn nhưng kết hợp yếu tố tranh tụng. Cuốn sách “Nghiên cứu về tổ chức và
hoạt động của hệ thống tư pháp Trung Quốc, Indonexia, Nhật Bản, Hàn Quốc và
Nga” do Liên hợp quốc thực hiện năm 2010 đã làm rõ cơ cấu tổ chức của cơ quan
tư pháp hình sự, quy định về các quyền bào chữa của người bị buộc tội.
8



Các công trình nghiên cứu về vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình
sự có thể kể đến bài viết “The role of the defense attorney: not just an advocate”
(tạm dịch: vai trò của luật sư bào chữa: không chỉ là một người ủng hộ) của tác giả
Roberta K.flowers năm 2009 [100]. Bài viết khẳng định vai trò của Luật sư bào
chữa không chỉ là 1 người ủng hộ cho khách hàng của mình, mà còn là 1 thành viên
của liên đoàn luật sư, người bào chữa chuyên nghiệp, không chỉ đại diện cho khách
hàng mà còn là 1 cán bộ của hệ thống pháp luật, có trách nhiệm bảo vệ pháp lý, bảo
vệ công dân. Bài viết cũng chỉ ra 3 vai trò, biện pháp để chức năng bào chữa có hiệu
quả, đó là vai trò của luật sư bào chữa, vai trò của cán bộ tòa án và vai trò của bộ tư
pháp (ở các nước theo truyền thống án lệ thì cơ quan công tố thuộc nhánh quyền lực
hành pháp).
Bài viết “Basic principles on the role of lawyers” (tạm dịch: Những nguyên
tắc cơ bản về vai trò của luật sư) của tác giả Adam Paker năm 2008 đã phân tích rõ
nội dung nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự quốc tế qua
việc chỉ ra các quy định minh bạch về quyền bào chữa và trách nhiệm của Chính
phủ trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội như được
nhanh chóng tiếp cận với luật sư, được tiếp xúc riêng với luật sư. Bài viết cũng phân
tích rõ các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa như quyền có đủ thời gian và
phương tiện chuẩn bị cho việc bào chữa của mình, tranh tụng, tiếp cận đối tượng có
liên quan, thu thập chứng cứ….
Các công trình nghiên cứu về các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, đa
số đều khẳng định có 3 chức năng cơ bản tồn tại, đó là chức năng buộc tội, chức
năng gỡ tội (bào chữa) và chức năng xét xử. Bài viết “Rethinking the functions of
criminal Proceduce” (tạm dịch: bàn về các chức năng của tố tụng hình sự) năm
2010 của tác giả Peter A Renella, nhà nghiên cứu luật tại đại học luật Boston đã đặt
ra câu hỏi: các chức năng nào phục vụ cho tố tụng hình sự? Sau khi phân tích đặc
điểm của các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, tác giả đã đồng ý với quan điểm
là tồn tại 3 chức năng cơ bản: buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự.

Các bài viết về chức năng bào chữa có thể kể đến như: bài viết “Defense
function” ( tạm dịch: chức năng bào chữa) của Đoàn luật sư Hoa Kỳ tại trang web
www.americanbar.org / american Justice section archive đã nêu lên các tiêu chuẩn
chung của người bào chữa và các chức năng của luật sư bào chữa. Theo đó, Luật sư
bào chữa là một thành phần thiết yếu của hệ thống tố tụng hình sự, bảo vệ công lý
và lẽ phải. Một tòa án thành lập đúng quy định để xét xử một vụ án hình sự phải
được xem như là một thực thể ba bên bao gồm các thẩm phán, công tố viên và luật
sư bào chữa cho bị cáo. Các tiêu chuẩn cũng như chức năng của luật sư bào chữa,
9


đó là: Luật sư bào chữa phải có lòng can đảm, sự tận tâm để tham gia giải quyết vụ
án một cách hiệu quả và chất lượng, thể hiện bằng việc hành động tuân theo các quy
định của pháp luật. Đồng thời, khi gặp các bất cập liên quan đến chính sách hình sự
và quy định của pháp luật, người bào chữa phải đề xuất ý kiến, tìm cách cải cách và
cải thiện hành chính tư pháp hình sự. Người bào chữa không có nhiệm vụ phải thực
hiện bất kỳ chỉ thị nào của bị cáo mà không đúng với quy định của pháp luật hoặc vi
phạm pháp luật. Người bào chữa không được xuyên tạc hoặc bóp méo sự thật, cung
cấp các chứng cứ, tài liệu sai sự thật cho Tòa án… Người bào chữa phải được
hướng dẫn và tuân theo các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, những điều được làm
và không được làm khi hành nghề luật sư.
Bài viết “Functions of the police, prosecutor, court workers, defense
counsel, Judge in aiding Juvenile Justice” (tạm dịch: Chức năng của cảnh sát, công
tố viên, công chức của tòa án, luật sư bào chữa, thẩm phán) năm 2009 của tác giả
Donald J.Newman, Ph.D (Lecturer in law University Wiseunsin, Modison), một
giảng viên của trường đại học luật Wiseunsin, Modison đã khẳng định: Các chức
năng bào chữa có vai trò quan trọng gấp đôi trong giai đoạn điều tra của quá trình
TTHS so với các giai đoạn tố tụng khác, bởi chức năng bào chữa trong giai đoạn
điều tra với mục đích để hỗ trợ nghi can trong việc thu thập chứng cứ và để bảo vệ
anh ta từ hành vi vi phạm các quyền của mình trong tay những người bảo vệ pháp

luật (người tiến hành tố tụng).
Bài viết “The emerging Role and Function of the Criminal defense
lawyer”(tạm dịch: Vai trò và chức năng của luật sư bào chữa) của tác giả Samuel
Dash (1969) tại trang web http:// scholar ship.law.urc.ed/nclr đã khẳng định vai trò
ngày càng to lớn của luật sư bào chữa. Trước đây, luật sư bào chữa bị kì thị và cô
lập với chính những người làm công tác bảo vệ pháp luật, vai trò của luật sư bào
chữa mờ nhạt và ít được nhắc tới. Song ngày nay, vai trò của luật sư bào chữa được
nhìn nhận đúng mực hơn, các quyền của luật sư bào chữa được bổ sung phù hợp với
chức năng bào chữa của họ.
Bài viết “Lawyer Defence in the Pre-Trial Proceedings” của tác giả Xiong
Qiuhong, phó giáo sư-tiến sỹ của Viện luật, Viện khoa học xã hội Trung Quốc năm
2005 đã đưa ra những quan điểm của mình về luật sư bào chữa, quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn trước khi vụ án được đưa ra xét xử.
Theo đó, quyền bào chữa của người bị buộc tội là quyền đặc trưng, có tác dụng và
hiệu lực trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, thông qua các tài liệu và sự
kiện, tình tiết để bào chữa theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Thực chất,
người bị buộc tội có quyền bác bỏ cáo buộc hình sự từ phía những người tiến hành
10


tố tụng, có quyền trình bày ý kiến và đưa ra tình tiết nhằm chứng minh sự vô tội,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Luật sư bào chữa
tham gia vụ án dựa trên cơ sở có sự buộc tội và được người bị buộc tội mời bào
chữa hoặc các trường hợp khác do bào chữa chỉ định. Ở giai đoạn điều tra, các luật
sư có thể tư vấn pháp lý để người bị nghi thực hiện tội phạm nộp đơn hoặc khiếu
nại. Trong trường hợp nghi can bị bắt giữ, các luật sư tham gia bào chữa cho họ có
thể áp dụng biện pháp bảo lãnh đối với nghi phạm. Luật sư bào chữa có thể gặp
người có thẩm quyền để hỏi về những căn cứ buộc tội đối với nghi can mà mình bảo
vệ. Ở giai đoạn truy tố, trong thời hạn 3 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án từ cơ
quan điều tra, viện kiểm sát thông báo cho người bị buộc tội có thể ủy thác cho luật

sư bào chữa của mình.. Bài viết cũng khẳng định, điều tra tội phạm và bảo vệ nhân
quyền là hai mục đích của thủ tục tố tụng hình sự, trong đó có quyền bào chữa của
người bị buộc tội. Đồng thời, khẳng định sự độc lập, vai trò quan trọng của chức
năng bào chữa và nêu lên những hạn chế của chế định bào chữa trong BLTTHS
Trung Quốc.
Trên diễn đàn nghiên cứu khoa học của nước ngoài, các bài viết về quyền
con người, trong đó có quyền bào chữa, quyền có người bào chữa tương đối nhiều.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này chỉ dừng ở phạm vi pháp luật quốc gia. Bên
cạnh đó, một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và chủ yếu mang tính mô
tả pháp luật tố tụng hình sự của các nước, trong đó tập trung nghiên cứu về quyền tự
bào chữa của người bị buộc tội và quyền được nhờ người khác bào chữa. Ở phạm vi
toàn cầu, quyền có người bào chữa được ghi nhận tại Điều 14 Công ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị (ICCPR), theo đó, một người bị cáo buộc về một hành vi
phạm tội sẽ có các quyền sau đây: Thứ nhất: quyền được có khoảng thời gian hợp
lý và các điều kiện đầy đủ để chuẩn bị việc bào chữa, có quyền trao đổi với người
bào chữa do mình lựa chọn; Thứ hai: có quyền được tự bào chữa hoặc thông qua
người bào chữa do mình lựa chọn; Thứ ba: Trong trường hợp một người không có
người bào chữa, anh ta sẽ được cung cấp người bào chữa chỉ định. Ở phạm vi khu
vực, quyền có người bào chữa được ghi nhận trong các công ước về quyền con
người ở 3 khu vực, đó là Công ước Châu Âu, Công ước Châu Mỹ về quyền con
người và hiến chương Châu Phi về con người và quyền con người.
Một số công trình nghiên cứu có đề cập tới các nội dung của quyền con
người nói chung và quyền bào chữa nói riêng như:
Bài viết “the guarantees for accused peorsons under Article 6 of the
European convention on Human Righs” (tạm dịch: Đảm bảo quyền cho người bị
buộc tội theo điều 6 công ước châu âu về nhân quyền) của tác giả Stephanos
11


stavros (nhà xuất bản Sweet and maxwell, Anh quốc, năm 1993), trong đó tập trung

phân tích quyền tự bào chữa và quyền được nhờ người khác bào chữa của người bị
buộc tội.
Cuốn sách “Criminal process and human rights” (tạm dịch: Tố tụng hình sự
và vấn đề quyền con người) của tập thể tác giả là các giáo sư, phó giáo sư của
trường Đại học Luật tại Melbourne, Australia, năm 2001 về các quyền con người
nói chung và quyền bào chữa của người bị buộc tội nói riêng, trong đó nhấn mạnh
quyền được tiếp cận người bào chữa, quyền được liên lạc với người bào chữa,
quyền được có người bào chữa miễn phí đối với nhóm người dễ bị tổn thương như
người chưa thành niên hoặc người khuyết tật…
Bài viết “Human rights protections and China’s criminal proceduce law in
practice” (tạm dịch: Bảo vệ quyền con người và vấn đề thi hành trên thực tế trong
tố tụng hình sự Trung Quốc) của Các nhà khoa học trong tổ chức phi chính phủ về
nhân quyền ở Trung Quốc (nguồn trang web: / “Human
rights in china”. Bài viết có nội dung chính về vấn đề bảo vệ quyền con người trong
đó có quyền của người bị buộc tội và vấn đề thực hiện quyền này trên thực tế của tố
tụng hình sự Trung Quốc. Tại Trung Quốc, luật sư là người bào chữa chủ yếu. Luật
luật sư ở Trung Quốc ra đời lần đầu tiên năm 1996, khẳng định luật sư có 2 chức
năng chính là: cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý và tham gia tố tụng, bào chữa, đại
diện cho thân chủ. Luật sư có nghĩa vụ bảo vệ khách hàng, tư cách luật sư xuất hiện
khi có người bị tình nghi thực hiện tội phạm. Cũng theo bài viết này, trong luật tố
tụng hình sự Trung Quốc, luật sư bảo vệ quyền của người bị buộc tội trên cơ sở
được trao một số quyền năng như: quyền thu thập chứng cứ, quyền được truy cập,
tiếp cận các tài liệu do bên công tố thu thập nhưng trên thực tế, việc tiếp cận này
khá khó khăn, vì vậy đã ảnh hưởng và làm suy yếu khả năng bào chữa của họ…
Cuốn sách “Criminal proceduce – law and practice” của tác giả Rolando V.del
carmen Trường Đại học bang Sam Houston, (in tại Printed in the United states of
American) có 15 chương, nội dung tập trung chủ yếu về nguồn gốc quy định các quyền
của người bị buộc tội, các nguyên tắc cơ bản theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kì,
tổng quan về quá trình tư pháp hình sự, các quyền cơ bản của bị cáo.
Cuốn “Brownlie’s document on the man right” (tạm dịch: tài liệu cơ bản về

quyền con người) của tác giả Lan Brownlie, GuyS.Goodwin năm 2010 tập trung
phân tích các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền bào chữa, quyền có người bào
chữa và quyền nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội.
Bài viết “Quá trình phát triển luật hình sự ở Hoa Kỳ” của GS.JamesB.Jacob,
Warren.E.Burger tại tạp chí điện tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ năm 2001 đề cập đến
12


việc bảo vệ quyền con người trong suốt quá trình tố tụng, trong đó có quyền bào
chữa.

Sách “Toward an international criminal procedure” (tạm dịch: hướng tới

một thủ tục tố tụng hình sự quốc tế) của tác giả Christoph Saffeling năm 2003 với
nội dung so sánh, phân tích những quy định bảo đảm các chuẩn mực quốc tế về
quyền con người của người bị buộc tội nói chung và quyền bào chữa nói riêng, các
bảo đảm pháp lý cần thiết để người bào chữa trợ giúp người bị buộc tội thực hiện
quyền bào chữa của họ. Tác giả cuốn sách này đã phân tích, so sánh sự khác nhau
về thủ tục tố tụng hình sự của 2 hệ thống pháp luật là Anh-Mỹ và Châu Âu lục địa ở
các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau, nhưng ở giai đoạn nào cũng luôn đảm bảo
quyền được xét xử công bằng, quyền có người bào chữa của người bị buộc tội.
Bài viết “Rights of the people: Individual freedom and bills of right” (tạm
dịch: các quyền của con người: Tự do cá nhân và Tuyên ngôn nhân quyền) năm
2010 của tác giả Melvin Urofski tập trung phân tích các quyền con người, trong đó
có quyền bào chữa, quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong tố
tụng hình sự. Như vậy, nhóm các công trình, bài viết nêu trên về các vấn đề lý luận
của quyền con người nói chung, quyền bào chữa nói riêng đã cung cấp cho nghiên
cứu sinh một khối lượng kiến thức nền tảng về quyền bào chữa trong tố tụng hình
sự ở một số quốc gia trên thế giới.
Như vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tham khảo hữu ích đối

với nghiên cứu sinh để học hỏi,đưa ra giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm và hoàn
thiện pháp luật về chức năng bào chữa tại Việt Nam.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc
Thời gian qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên
quan đến các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có chức năng bào
chữa. Các công trình này chủ yếu tập trung làm rõ 3 chức năng cơ bản của tố tụng
hình sự là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Bên cạnh
đó còn có các công trình khác liên quan đến những vấn đề lý luận về quyền con
người, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, vấn đề đảm bảo quyền bào chữa trên thực
tế, vai trò và địa vị pháp lý của người bào chữa… Những vấn đề lý luận đó giúp cho
nghiên cứu sinh có được cách tiếp cận đúng đắn về chức năng bào chữa, mối quan
hệ giữa chức năng bào chữa với các chức năng khác của Tố tụng hình sự.
1.2.1. Nhóm các công trình liên quan đến lý luận của chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự
Trong khoa học pháp lý, các vấn đề có liên quan đến cơ sở lý luận của luận
án đã có khá nhiều công trình, bài viết ở các cấp độ khác nhau được công bố.

13


* Trước tiên phải kể đến nhóm các công trình khoa học nghiên cứu lý luận
về chức năng của TTHS, trong đó có chức năng bào chữa. Các chức năng của tố
tụng hình sự quyết định mô hình tố tụng hình sự, hay nói cách khác, mô hình tố
tụng hình sự là phương thức để thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Có thể
kể đến các công trình nghiên cứu như “Mô hình TTHS Việt Nam” do VKSNDTC
chủ trì soạn thảo trong Đề án về Mô hình TTHS Việt Nam (năm 2010). Đề án này
nghiên cứu những mô hình TTHS điển hình trên thế giới và mô hình tố tụng của
một số nước; nghiên cứu lịch sử mô hình TTHS Việt Nam; tổng kết thực tiễn thi
hành BLTTHS năm 2003 và phương hướng xây dựng mô hình TTHS ở Việt Nam.
Bài viết “ Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư

pháp” của tác giả TS. Lê Hữu Thể - Phó Viện trưởng, VKSNDTC và ThS. Nguyễn
Thị Thủy - Trưởng phòng Viện Khoa học kiểm sát (Nguồn: )
nêu lên những đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, khẳng định dù áp
dụng mô hình TTHS nào thì trong TTHS cũng luôn tồn tại ba chức năng cơ bản:
buộc tội, bào chữa và xét xử. Vai trò của các chủ thể được phân định theo các chức
năng tố tụng. Việc phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể gắn với các chức
năng cơ bản của TTHS là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của
TTHS. Bài viết “Các chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề hoàn thiện mô hình
TTHS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả PGS.TS Nguyễn Thái Phúc trong báo cáo
Hội thảo tại Học viện Khoa học Xã hội năm 2015 đã nêu lên quan điểm: các chức
năng cơ bản của tố tụng hình sự là những phương diện hoạt động tồn tại khách quan
trong tiến trình giải quyết vụ án hình sự, bao gồm chức năng buộc tội, chức năng
bào chữa và chức năng xét xử. Mối quan hệ qua lại giữa chúng cũng có tính khách
quan và tuân theo quy luật nhất định. Giải pháp trong việc hoàn thiện mô hình
TTHS Việt Nam là phải xuất phát từ đặc thù lịch sử, đặc thù về chế độ nhà nước,
tiếp tục hoàn thiện mô hình pha trộn theo hướng thiên về tranh tụng hơn nữa.
Bài tham luận của tác giả TS. Đinh Thị Mai tại hội thảo khoa học “Các chức
năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ”
(năm 2015) có nêu lên vấn đề về lý thuyết chức năng luận. Theo đó, cần nhận thức
các chức năng của tố tụng hình sự dựa trên nền tảng chức năng luận để luận giải sâu
sắc hơn vấn đề cần nghiên cứu. Đồng thời khẳng định: các chức năng của tố tụng
hình sự cần được tiếp cận dựa trên lý thuyết chức năng luận.
Bên cạnh đó, luận án tiến sĩ “Các chức năng trong TTHS Việt Nam - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng ( bào vệ tại Học viện
khoa học xã hội năm 2012) đã làm rõ những vấn đề lý luận về các chức năng buộc
tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử trong TTHS; tìm hiểu, đánh giá thực
14


trạng thực hiện các chức năng này trong thực tiễn TTHS Việt Nam và đề xuất

những giải pháp cần thiết để thực hiện hiệu quả các chức năng của TTHS. Theo tác
giả thì chức năng bào chữa xuất phát từ quyền được bào chữa của người bị buộc tội
và do đó chức năng này phát sinh ngay sau khi có quyết định buộc tội của cơ quan
tiến hành tố tụng và hiện diện trong cả 3 giai đoạn tố tụng là điều tra, truy tố và xét
xử. Chức năng bào chữa có nội dung rộng hơn những quan niệm truyền thống hiện
nay cho rằng, đó chỉ là việc thực hiện của bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa. Mặc dù luận án cũng đã nêu lên một số vấn đề lý luận cơ bản về chức
năng bào chữa như khái niệm, nội dung và phạm vi của chức năng bào chữa, tuy
nhiên việc phân tích các nội dung này còn khá mờ nhạt, các vấn đề lý luận khác như
đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của chức năng bào chữa chưa được đề cập tới.
Năm 2015, Học viện Khoa học xã hội đã tổ chức buổi Hội thảo khoa học về
“Các chức năng của Tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam
hiện nay ”. Nội dung của Hội thảo tập trung làm rõ các vấn đề như : Cơ sở lý luận
và thực tiễn về các chức năng của TTHS (Lý thuyết chức năng, khái niệm, ý nghĩa,
vai trò của các chức năng tố tụng hình sự), các chức năng của tố tụng hình sự và
những vấn đề đặt ra đối với cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay… Năm 2016,
Học viện khoa học xã hội tiếp tục triển khai đề tài “Các chức năng của Tố tụng
hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (chủ nhiệm đề tài : TS. Đinh
Thị Mai). Đề tài nêu lên cơ sở lý luận về các chức năng của TTHS, mối quan hệ
giữa các chức năng của TTHS, phân loại các chức năng của TTHS, các chức năng
TTHS của một số nước trên thế giới và so sánh với Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài
cũng phân tích thực trạng quy định các chức năng của TTHS Việt Nam và thực
trạng thực hiện các quy định nêu trên, nêu lên vấn đề đổi mới nhận thức và hoàn
thiện các chức năng của TTHS Việt Nam hiện nay. Tài liệu và kết quả của Hội thảo,
đề tài nêu trên thực sự có giá trị, là công trình nghiên cứu tham khảo rất có ý nghĩa
với nghiên cứu sinh.
Cũng liên quan đến các chức năng của tố tụng hình sự còn có bài viết “Phân
định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS: Buộc tội, bào chữa và xét xử”
của tác giả Hà An (Nguồn: Báo điện tử Đại biểu nhân dân). Theo đó, để tăng cường
tranh tụng trong tố tụng hình sự theo chủ trương mà Đảng đã đề ra thì cần phải phân

định được rành mạch các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự đó là buộc tội, bào
chữa và xét xử. Cần phải tạo được cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội
và bên bào chữa trong việc thực thi các chức năng buộc tội và bào chữa, nâng cao
vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng. Một nguồn tham khảo tiếp
theo cho nghiên cứu sinh, đó là luận án tiến sỹ luật học “ Chức năng xét xử trong tố
15


tụng hình sự Việt Nam ” của tác giả Lê Tiến Châu (bảo vệ tại Viện Nhà nước và
Pháp luật năm 2008). Luận án có cách tiếp cận khoa học trong việc phân tích, làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận về chức năng TTHS nói chung và chức năng xét xử
nói riêng; vị trí và vai trò của chức năng xét xử trong các mô hình, hình thức
TTHS ; những biểu hiện thể hiện nội dung của chức năng xét xử trong các quy định
của pháp luật. Đây là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với nghiên cứu sinh khi
học hỏi cách tiếp cận vấn đề, kết cấu luận án và những luận giải mang tính khoa
học; cách trình bày logic, mạch lạc trong quá trình phân tích nội dung luận án.
* Những công trình nghiên cứu về quyền con người trong mối quan hệ với
quyền bào chữa của người bị buộc tội : Trước tiên phải kể đến cuốn sách “Quyền
con người - tiếp cận đa ngành và liên ngành Luật học” do GS.TS. Võ Khánh Vinh
chủ biên, (Nxb KHXH, Hà Nội năm 2010 (2 tập); cuốn sách “Cơ chế bảo đảm và
bảo vệ quyền con người ” GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, (Nxb KHXH, Hà Nội,
2011); bài viết “ Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật
trong lĩnh vực tư pháp hình sự ” của PGS. TSKH. Lê Cảm, (Tạp chí TAND số 11,
13 và 14/2006); Luận văn thạc sỹ luật học“Quyền con người và vấn đề bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Hường (2007).
Nhóm các công trình này đã phân tích nội dung, khẳng định quyền con người là
quyền tự nhiên, xuất hiện trước khi các nhà nước ra đời. Đồng thời khẳng định
quyền bào chữa là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Trong mối quan hệ tố tụng
giữa chủ thể buộc tội và người bị buộc tội, người bị buộc tội luôn yếu thế do đó nhà
nước phải ghi nhận quyền bào chữa trong tố tụng hình sự để họ có thể tự bảo vệ các

quyền lợi hợp pháp của mình. Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm quyền con người
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại
Văn Trình (bảo vệ tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011) đã
nêu lên một số vấn đề lý luận bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Qua đó, khẳng định việc nghiên cứu bảo đảm
quyền con người của các chủ thể tố tụng nói chung, đặc biệt của các chủ thể là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng trong tố tụng hình sự; nhìn từ góc độ lập
pháp cũng như áp dụng pháp luật đều có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện
nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và cải cách tư
pháp nói riêng ở nước ta. Bài viết “Pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga với
việc bảo vệ các quyền con người” của GS.TSKH Lê Cảm đăng trên tạp chí lập pháp
số 02 năm 2011 nêu lên việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự
của liên bang Nga, việc bảo vệ quyền con người bằng các quy định chung của pháp
luật tố tụng hình sự liên bang Nga hay ở giai đoạn trước khi xét xử và trong khi xét
16


xử. Với sự tồn tại của mô hình TTHS hỗn hợp, thiên về yếu tố tranh tụng, nhà nước
pháp quyền dân chủ Liên bang Nga cho phép khẳng định tính nổi trội hơn cả của việc
bảo vệ thực sự (chứ không phải là hình thức) quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia
tố tụng hình sự, quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong lĩnh vực TTHS.
* Các công trình nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của các chức năng tố
tụng hình sự: Bài viết “Bàn về chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng
hình sự” năm 2003 của tác giả Hoàng Thị Sơn trên tạp chí luật học đã nêu lên một
số quan điểm về chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử, từ đó
xây dựng khái niệm của các chức năng này. Bên cạnh đó, bài viết cũng đặt ra vấn
đề: chức năng bào chữa xuất hiện từ thời điểm nào? Từ khi có quyết định khởi tố vụ
án hình sự hay từ khi có quyết định khởi tố bị can? Phạm vi của chức năng bào chữa
ra sao? Có ý kiến cho rằng chức năng bào chữa xuất hiện từ khi vụ án hình sự được
khởi tố và nó đối lập với tất cả các biện pháp cưỡng chế về tố tụng chứ không phải

chỉ đối lập với việc buộc tội. Cũng có ý kiến cho rằng, chức năng bào chữa xuất
hiện sớm hơn. Theo quan điểm của tác giả bài viết thì chức năng bào chữa xuất hiện
từ khi có quyết định khởi tố bị can. Trong Báo cáo tham luận của tác giả PGS.TS
Hoàng Thị Minh Sơn tại Hội thảo khoa học “ Các chức năng của tố tụng hình sự
trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ”(năm 2015) khẳng định: việc
nghiên cứu bào chữa dưới góc độ chức năng tố tụng có phạm vi rộng hơn so với các
góc độ khác như: bào chữa là một nguyên tắc của TTHS, bào chữa là một chế định
tố tụng hay bào chữa là quyền của người bị buộc tội. Theo tác giả, chức năng bào
chữa là một dạng hoạt động tố tụng hình sự được pháp luật quy định và bảo đảm
cho bên bị buộc tội có khả năng đưa ra chứng cứ và lý lẽ chống lại sự buộc tội, làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Cơ sở phát sinh quyền bào chữa là sự buộc
tội, mối quan hệ giữa chức năng bào chữa và chức năng buộc tội là sự đối lập, phạm
vi của chức năng bào chữa được bắt đầu khi bị buộc tội và kết thúc khi bản án,
quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật, mục đích của chức năng bào chữa là
chống lại sự buộc tội và giảm nhẹ TNHS cho bên buộc tội. Luận văn thạc sỹ luật
học của tác giả Trần Hoài Lâm về “Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ”
(năm 2006) cũng đã nêu lên khái niệm, nội dung của chức năng bào chữa. Theo đó,
nội dung của chức năng bào chữa chính là những hoạt động của chủ thể bào chữa,
hay nói cách khác, đó chính là địa vị pháp lý của chủ thể bào chữa gắn liền với các
bảo đảm quyền đó. Tham khảo những quan điểm khoa học trong bài viết nêu trên đã
giúp nghiên cứu sinh tiếp cận vấn đề một cách đúng đắn hơn.
* Các công trình nghiên cứu về tranh tụng cũng là nguồn tài liệu hữu ích có
liên quan đến cơ sở lý luận của luận án. Có thể kể đến luận án tiến sĩ “Nguyên tắc
17


tranh tụng trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả
Nguyễn Văn Hiển, năm 2010. Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu toàn diện
các vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh sự tồn tại khách quan của nguyên tắc
tranh tụng trong các mô hình TTHS; khả năng xây dựng và áp dụng có hiệu quả

nguyên tắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam mà không cần thay
đổi mô hình tố tụng truyền thống. Từ đó, khẳng định tầm quan trọng của chức năng
bào chữa và hoạt động bào chữa của người bào chữa. Ngoài ra còn có bài viết “Một
số vấn đề về tranh tụng trong TTHS” của tác giả Lê Tiến Châu, tạp chí Khoa học
pháp lý số 1, năm 2003; bài viết “ Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên tắc
cơ bản của luật TTHS ” của PGS.TSKH. Lê Cảm, tạp chí Luật học, số 6, năm 2004;
bài viết“Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh
tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Nguyễn Văn Tuân, tạp chí Dân chủ
và Pháp luật số tháng 3/2010; bài viết “Bảo đảm quyền của bị cáo trong phiên toà
mở rộng tranh tụng” của TS. Nguyễn Văn Huyên, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
chuyên để về tranh tụng năm 2003, luận văn thạc sỹ “Tranh tụng tại phiên toà sơ
thẩm hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lưu Bình Dương năm
2004… Các công trình trên đã khẳng định hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình
sự là hoạt động của bên buộc tội và bên gỡ tội, dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, lập luận của mình để phản bác chứng cứ, lập luận của đối
phương nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận quan điểm đề xuất của mình, góp phần
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Người bào chữa tham gia tranh tụng là
nhằm giúp cho việc xác định sự thật khách quan về vụ án, để bảo đảm cho phán
quyết của HĐXX chính xác, công minh. Các bài viết nêu trên cũng đưa ra một số
kiến nghị có liên quan đến nguyên tắc tranh tụng như: Phân định 3 chức năng cơ
bản của tố tụng hình sự : buộc tội, bào chữa và xét xử; quy định các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện đúng chức năng của mình, không làm thay chức năng của cơ
quan khác; chức năng bào chữa thuộc về bị cáo và người bào chữa của họ; quy đinh
cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong tố tụng hình
sự, mở rộng quyền và tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào
chữa thực hiện các quyền chứng minh vô tội, giảm nhẹ hình phạt...
Như vậy, với các nhóm công trình nghiên cứu nêu trên có liên quan đến
những vấn đề lý luận của luận án đã giúp nghiên cứu sinh có cách tiếp cận đúng đắn
về cơ sở lý luận của chức năng bào chữa, từ đó xác định hướng kiến nghị hoàn thiện
pháp luật dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, sự

liên quan mật thiết giữa các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong tố tụng
hình sự…
18


×