Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

ÔN tập môn ĐẢNG LÃNH đạo các LĨNH vực đời SỐNG xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.1 KB, 24 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁC LĨNH VỰC ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
--------------------------------STT
1
2
3
4

5

6
7
8
9
10
11

CÂU HỎI
Phân tích nội dung và phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng trong thời
kỳ hội nhập quốc tế hiện nay
Phân tích các nguyên tắc lãnh đạo kinh tế của Đảng. Sự vận dụng các
nguyên tắc này trong lãnh đạo phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?
Phân tích nội dung và phương thức Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Phân tích những yêu cầu khách quan đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao
trình độ lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa.
Bằng thực tiễn lãnh đạo giáo dục đào tạo của Đảng, hãy phân tích, làm rõ
quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” (Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo).


Phân tích những yếu tố cấu thành sức mạnh quốc phòng của Việt Nam?
Liên hệ chứng minh từ thực tiễn Đảng lãnh đạo xây dựng tiềm lực quốc
phòng của đất nước
Phân tích quan điểm chỉ đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phân tích, làm rõ tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí truyền thông.
Phân tích nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
truyền thông. Liên hệ thực tiễn?
Phân tích nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Liên hệ thực tiễn
Phân tích quan điểm chỉ đạo và giải pháp phát triển khoa học và công
nghệ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Liên hệ
thực tiễn.

1


Câu 1
Phân tích nội dung và phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng
trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay
---------------------* Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với kinh tế
a. Đảng xây dựng tư duy lý luận về kinh tế làm cơ sở xây dựng đường
lối phát triển kinh tế - xã hội
Để lãnh đạo cách mạng nói chung, lãnh đạo kinh tế nói riêng, trước hết
Đảng phải có tư duy lý luận đúng đắn, đủ sức thuyết phục trong nội bộ Đảng và
sau đó thuyết phục quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Có
tư duy lý luận đúng mới có cơ sở để xây dựng đường lối, chính sách đúng. Trải qua
hơn 30 năm đổi mới toàn diện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Đảng đã tổng kết được những bài học kinh nghiệm có giá trị trên tất cả các lĩnh

vực, qua đó hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, lý luận về kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Có
thể nói, thành tựu lý luận về kinh tế quan trọng nhất của Đảng ta là lý luận về “mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam. Có làm rõ được
lý luận về mô hình kinh tế và thể chế kinh tế, Đảng ta mới có cơ sở để định ra chủ
trương, đường lối, nhiệm vụ kinh tế - xã hội đúng đắn và chỉ đạo, điều hành nền
kinh tế vận hành tuân theo quy luật khách quan.
Do yêu cầu đổi mới, phát triển tư duy lý luận về kinh tế, Đảng không
ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng với yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới.
Để có chủ trương, quyết sách lãnh đạo đúng, xây dựng đường lối, chính sách khách
quan, khoa học, Đảng hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư vấn khoa học, với đội
ngũ chuyên gia giỏi, am hiểu sâu sắc các lĩnh vực, giúp các cơ quan lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước ban hành quyết sách kinh tế đúng đắn. Đồng thời, xây dựng hệ
thống thông tin kinh tế - xã hội trong và ngoài nước phục vụ các cấp lãnh đạo, nhất
là cấp vĩ mô, bảo đảm kịp thời, chính xác, toàn diện, thiết thực và an toàn.
Cùng với việc xác định rõ mô hình kinh tế, Đảng ta cũng khẳng định bước
đầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước
hoàn thiện thể chế kinh tế đó. Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa X, Đảng đã đưa ra khái niệm chỉ rõ nội hàm của khái niệm về hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện trên những
quan hệ cơ bản sau:
Một là, hoàn thiện các hình thức và lĩnh vực sở hữu.
Hai là, hoàn thiện quan hệ phân phối.
Ba là, xây dựng đủ, đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường.
Bốn là, nâng cao tính hiệu quả của các thành phần kinh tế.
Năm là, hoàn thiện các chính sách của Nhà nước đối với nền kinh tế.
2


Sáu là, xác định địa chính trị của Đảng cầm quyền trong nền kinh tế.

Bảy là, mục tiêu của nền kinh tế là tăng cường bền vững gắn với tiến bộ và
công bằng xã hội.
b. Đảng quyết định đường lối, chính sách, chiến lược và những chủ
trương lớn về kinh tế, đồng thời tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách đó
Sự phát triển kinh tế của mỗi nước có nhiều con đường và khả năng khác
nhau, các đảng cầm quyền phải có đường lối, chiến lược phát triển kinh tế phù hợp
với điều kiện của nước mình.
Đường lối kinh tế là sự cụ thể hóa đường lối chung của Đảng, xác định mục
tiêu chiến lược, mục tiêu cụ thể, nhiệm vụ và chỉ tiêu phát triển kinh tế, định hướng
các chính sách kinh tế, trên cơ sở đó, các cơ quan nhà nước xây dựng luật pháp,
chính sách, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước. Quyết định của
Đảng về đường lối kinh tế thể hiện bằng văn bản, như Cương lĩnh, Chiến lược,
nghị quyết, chỉ thị, kết luận... của Trung ương Đảng (Đại hội đại biểu toàn quốc,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư). Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội thường được xác định trong một thời kỳ dài và từng giai đoạn 5 năm, 10
năm.
Để quyết định đường lối, chính sách và những chủ trương lớn về kinh tế
một cách đúng đắn, Đảng tiếp tục phát huy dân chủ trong toàn xã hội, xuất phát từ
lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy trí tuệ của toàn dân trong việc
xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, tránh chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, độc
đoán, thậm chí là lợi ích nhóm ngay trong từng quyết sách.
Khi có đường lối, chủ trương đúng, vấn đề có tính quyết định là tổ chức
thực hiện, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Trong điều kiện cầm quyền,
Đảng dồn sức để lãnh đạo bộ máy nhà nước, thông qua Nhà nước mà thực hiện
thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng.
c. Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước làm tốt chức năng quản lý và
tổ chức có hiệu quả nền kinh tế quốc dân
Một là, Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa chủ trương,
đường lối, chính sách, chiến lược kinh tế - xã hội của Đảng thành pháp luật, chính

sách, sắc lệnh, nghị định... và kế hoạch của Nhà nước để toàn dân thực hiện.
Hai là, Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có
đủ năng lực thực hiện chức năng quản lý và tổ chức xây dựng nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm làm
tốt chức năng quản lý và tổ chức xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
3


nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, dưới sự lãnh
đạo tập trung, thống nhất của Đảng cầm quyền.
Ba là, Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý và
tổ chức xây dựng kinh tế
Lãnh đạo kinh tế thông qua bộ máy nhà nước là phương thức lãnh đạo chủ
yếu, hiệu quả nhất trong điều kiện Đảng cầm quyền. Các cơ quan nhà nước thể chế
hóa chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, các quyết định... và kế hoạch của Nhà nước - căn
cứ pháp lý quan trọng nhất để quản lý, điều hành toàn bộ nền kinh tế và để toàn
dân thực hiện. Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không quyết định những vấn đề cụ
thể thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Tuy Đảng không trực tiếp điều hành
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, không quyết định các vấn đề kinh tế thuộc
thẩm quyền của bộ máy nhà nước nhưng Đảng phải lãnh đạo các hoạt động đó theo
đúng quan điểm, tư tưởng của Đảng.
Đồng thời, Đảng lãnh đạo xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước, xây dựng
bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh; phối hợp hoạt động của các cơ quan nhà
nước, bảo đảm sự vận hành thông suốt của bộ máy đó.
d. Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và nguồn ngân
lực có chất lượng cho nền kinh tế

Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị và các
đơn vị sự nghiệp công hoạt động trong lĩnh vực kinh tế; xây dựng đội ngũ cán bộ
quản lý các đơn vị kinh tế nhà nước và các đơn vị kinh tế có cổ phần của Nhà nước
thuộc thẩm quyền của các cáp ủy và tổ chức đảng được phân cấp quản lý.
Đảng lãnh đạo bằng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy
nhà nước và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho cả nền kinh tế, đặc biệt là
phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt trên lĩnh vực kinh tế. Đảng
giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong
các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị, tăng cường trách nhiệm cá nhân, nhất
là người đứng đầu. Điều đó cũng có nghĩa là Đảng phải có biện pháp xử lý, đề xuất
bãi nhiệm những đảng viên là cán bộ giữ trọng trách của cơ quan nhà nước nếu
không thực hiện đúng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham nhũng,
lãng phí.
Các tổ chức đảng giới thiệu cán bộ để đề bạt giữ chức vụ quản lý của các
đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế nhà nước và các đơn vị kinh tế có cổ phần
của Nhà nước theo thẩm quyền được phân cấp quản lý.
Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói trên, Đảng có
trách nhiệm xây dựng đội ngũ chuyên gia, tham mưu, giúp việc cho các cơ quan
lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước trong các hoạt động kinh tế; đồng thời có

4


chủ trương, kế hoạch phát triển giáo dục, đào tạo chuẩn bị nguồn nhân lực cho tất
cả các thành phần kinh tế.
Cơ chế tập thể lãnh đạo trong mỗi đảng bộ (đại hội, cấp ủy, ban thường vụ
cấp ủy, thường trực cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng) và cá nhân phụ trách
(đảng viên, cấp ủy viên, bí thư, phó bí thư cấp ủy, bí thư đảng đoàn, ban cán sự
đảng) cần tiếp tục cụ thể hoá cho từng cấp ủy viên, từng đảng viên hoạt động trong
các tổ chức chính quyền, các tổ chức kinh tế của Nhà nước. Việc xác định rõ quyền

hạn, trách nhiệm của mỗi cấp ủy viên, đảng viên, nhất là các chức danh lãnh đạo,
quản lý kinh tế thì mới có căn cứ để cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia nhận
xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý trên lĩnh vực kinh tế một cách thường
xuyên, có hiệu quả.
* Phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng
Một là, Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, bằng sự chỉ đạo các vấn
đề lớn do thực tiễn đặt ra.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với lĩnh vực kinh tế, trước hết
bằng việc ban hành quan điểm, đường lối chung. Từ đường lối chung, Đảng chỉ ra
quan điểm về sự thống nhất giữa các lĩnh vực: chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội,
quốc phòng - an ninh, đối ngoại... Đường lối kinh tế là sự cụ thể hóa đường lối
chung của Đảng trong lĩnh vực kinh tế.
Hai là, Đảng lãnh đạo thông qua bộ máy nhà nước.
Lãnh đạo kinh tế thông qua bộ máy nhà nước là phương thức lãnh đạo chủ
yếu, hiệu quả và đặc thù trong điều kiện Đảng cầm quyền. Đảng không thể lãnh
đạo trực tiếp các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế thực hiện đường lối,
nghị quyết của Đảng, mà đường lối nghị quyết ấy phải thông qua bộ máy nhà nước
thể chế hóa thành luật pháp và chính sách để nhân dân thực hiện.
Ba là, Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động
trong các thành phần kinh tế và tổ chức có liên quan
Tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan và tổ chức kinh tế là điều
kiện khách quan để Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình. Để lãnh đạo kinh tế,
Đảng tiến hành xây dựng các tổ chức đảng và phát triern đội ngũ đảng viên hoạt
động trong các tổ chức đảng và phát triern đội ngũ đảng viên hoạt động trong các
thành phần kinh tế, Đảng quy định chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức cơ sở
đảng hoạt động trong thành phần kinh tế đó.
Bốn là, Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức, cán bộ và tư tưởng.
Đảng lãnh đạo kinh tế thông qua đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội
ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh tế. Tuy Đảng không trực tiếp điều hành
các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, không quyết định các chính

sách kinh tế thuộc thẩm quyền của bộ máy nhà nước, không lập kế hoạch và điều
5


hành các kế hoạch kinh tế... nhưng Đảng lãnh đạo các hoạt động đó theo đúng
quan điểm, đường lối của mình thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng
các bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh tế.
Công tác tư tưởng của Đảng có vai trò quan trọng trong lãnh đạo xây dựng
kinh tế. Thông qua công tác tư tưởng, Đảng thực hiện lãnh đạo kinh tế bằng tuyên
truyền, vận động các lực lượng xã hội hiểu ý nghĩa, vai trò của chủ trương, đường
lối, nhiệm vụ kinh tế của Đảng đối với sự phát triển đất nước.
Năm là, Đảng lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra, giám sát đội ngũ cán
bộ, đảng viên và các tổ chức đảng hoạt động trong các thành phần kinh tế.
Tiến hành công tác kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng và đảng
viên hoạt động trong các thành phần kinh tế chấp hành quan điểm, đường lối của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kiểm tra, giám sát là phương thức
lãnh đạo cơ bản của Đảng.
------------------------------------------

6


Câu 2
Phân tích các nguyên tắc lãnh đạo kinh tế của Đảng.
Sự vận dụng các nguyên tắc này trong lãnh đạo phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?
-----------------------

--------------------------------------


7


Câu 3
Phân tích nội dung và phương thức Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
--------------------------* Nội dung
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo về tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục, tập
quán. Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng, xây dựng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; duy trì
và phát triển những giá trị tiến bộ của phong tục, tập quán, đồng thời phê phán và
loại trừ những phong tục, tập quán, những hủ tục lạc hậu.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ. Đảng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chát lượng dạy và học, nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên, tăng cường cơ sở vật chát phục vụ giáo dục và đào tạo ...; lãnh
đạo việc phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, phát triển khoa học và công nghệ,
ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật sản xuất, đời sống.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo văn học, nghệ thuật. Đảng lãnh đạo đổi mới và nâng
cao chất lượng hoạt động văn học, nghệ thuật theo hướng giữ gìn và phát huy bản
sắc dân tộc, các hoạt động sáng tạo, nêu gương, động viên, tuyên truyền những
nhân tố mới, phê phán những tiêu cực, tệ nạn xã hội, làm phong phú đời sống văn
hóa, tinh thần của nhân dân.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo thông tin đại chúng. Đảng lãnh đạo đổi mới nội
dung, chương trình, phương thức hoạt động thông tin đại chúng nhằm tuyên truyền
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, qua đó phục
vụ tốt công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Đảng lãnh
đạo công tác trùng tu, tôn tạo các di sản văn hóa, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt
lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa.

Thứ sáu, Đảng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa.
* Phương thức lãnh đạo
Đảng lãnh đạo bằng các quyết định, nghị quyết của Đảng bằng các chiến
lược, chương trình xây dựng và phát triển văn hóa, từng nội dung của văn hóa;
bằng những chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về một số mặt công tác lớn.
Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, tạo
điều kiện cho các cáp, các ngành, người đứng đầu, đảng viên ở các cơ quan chính
quyền, đơn vị quản lý công tác văn hóa triern khai thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ về phát triển văn hóa.
Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục của các
tổ chức đảng và đảng viên nhằm phát huy vai trò của các thành viên trong hệ thống
8


chính trị, các cơ quan chuyên trách và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phát
triển đời sống văn hóa.
Đảng lãnh đạo bằng việc xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến về
văn hóa, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm. Qua đó, kịp thời bổ sung, sửa đổi chủ
trương, chính sách, phát hiện nhân tố tích cực, hạn chế và ngăn chặn tiêu cực trong
văn hóa.
Đảng lãnh đạo bằng việc phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của cán
bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị và của đội ngũ cán bộ, đảng viên công tác
trong lĩnh vực văn hóa.
Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức cán bộ. Trên cơ sở xác định chủ
trương phát triển lĩnh vực văn hóa, Đảng chỉ đạo công tác đào tạo và bố trí cán bộ
có năng lực làm công tác văn hóa.
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát các cấp ủy, đảng viên trong
lĩnh vực văn hóa, qua đó, đánh giá đúng thực trạng văn hóa và xác định những giải
pháp đúng, kịp thời ngăn chặn những tiêu cực về văn hóa.
-------------------------------


9


Câu 4
Phân tích những yêu cầu khách quan đòi hỏi phải đổi mới
và nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa
-----------------------------* Thực trạng xây dựng và phát triển văn hóa
Ưu điểm
Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triern; nhận thức về văn hóa của
các cấp, các ngành và nhân dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân
được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo
đức mới được hình thành.
Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng;
công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ.
Xa hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể
vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa, tập quán của đồng
bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm.
Hạn chế
So với những thành tự trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng - an
ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, chưa đủ để tác
động và xây dựng con người, môi trướng văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng
gia tăng.
Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và
nghệ thuật; một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm
chí có hại.
Hệ thống thông tin đại chúng chưa được quy hoạch một cách khoa học, gây

lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền
thông có biểu hiện thương mai hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích.
* Thực trạng Đảng lãnh đạo văn hóa
Ưu điểm
Đảng luôn quan tâm và đã ban hành các nghị quyết chuyên đề về văn hóa
và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
Nhận thức về văn hóa và các quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa
trong điều kiện hiện nay của các cấp, các ngành và nhân dân ngày càng được nâng
lên. Coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, nâng cao nhận thức của các cấp ủy,
tổ chức đảng, các ngành, cán bộ, đảng viên, các tổ chức trong hệ thống chính trị và
nhân dân về vai trò, vị trí của văn hóa đối với sự phát triển mọi mặt của xã hội.
Công tác cán bộ trong lĩnh vực văn hóa đã có chuyển biến và đổi mới
Hạn chế

10


Nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đến lĩnh vực này, do đó lãnh đạo,
chỉ đạo chưa thật quyết liệt.
Việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ
và trong một số trường hợp thiếu khả thi.
Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị
xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỹ luật, kỷ cương không nghiêm.
Việc đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt
kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa
quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong
lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Từ những ưu điểm và những hạn chế nêu trên chính là những yêu cầu
khách quan đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng đối với
văn hóa trong tình hình hiện nay.


--------------------------

11


Câu 5
Bằng thực tiễn lãnh đạo giáo dục đào tạo của Đảng, hãy phân tích,
làm rõ quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”
(Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo)
---------------------------Trải qua bao thập kỷ, Đảng và Nhà nước ta luôn xem giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Điều đó có nghĩa là sự nghiệp giáo dục và chính sách giáo dục của Đảng
và Nhà nước ta có tầm quan trọng hàng đầu, các cơ quan có thẩm quyền và mọi
người, mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước đều phải coi trọng như vậy và phải
làm đúng như vậy. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ tình hình, nguyên nhân và định hướng đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Nghị quyết đã nêu ra những hạn chế, yếu kém trong phát triển giáo dục đào tạo như:
+ Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là
giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên
thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý
thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất,
kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo
dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm
tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất.
+ Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa
theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm
đạo đức nghề nghiệp.

+ Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài
chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và
lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Đổi mới giáo dục, hay coi giáo dục là quốc sách hàng đầu luôn được Đảng
và Nhà nước quan tâm. Sau Hội nghị Trung ương 8, Khóa XI vào tháng 10/2013,
vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được coi như là một trong
những nội dung vừa chiến lược, vừa cấp thiết. Trước yêu cầu của giai đoạn phát
triển mới của đất nước, Việt Nam đang cần một quyết sách toàn diện, căn bản,
xứng tầm với lĩnh vực quan trọng hàng đầu này. Đây là sứ mệnh thiêng liêng, đồng
thời cũng vô cùng nặng nề để Việt Nam bước vào hàng ngũ các nước phát triển.
Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia
khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vậy tại
12


sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan trọng đến chiến lược phát triển đất nước như
vây? Chúng ta đều biết bởi vì: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần
phát triển kinh tế; Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xã hội và trên hết
giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người.
Giáo dục- đào tạo không chỉ có vai trò quan trọng trên lĩnh vực sản xuất vật
chất mà còn là cơ sở để hình thành nền văn hoá tinh thần của chủ nghĩa xã hội.
Giáo dục có tác động vô cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã
hội chủ nghĩa, xây dựng ý thức pháp quyền và ý thức đạo đức, xây dựng nền văn
hoá, văn học nghệ thuật, góp phần cơ bản vào việc hình thành lối sống mới, nhân
cách mới của toàn bộ xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
giáo dục là nhằm xây dựng con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc là những người kế thừa

xây dựng chủ nghĩa xã hội ”.
Một nền giáo dục kém sẽ không thể đào tạo được nguồn nhân lực chất
lượng cao. Và hẳn nhiên, nếu thiếu nhân lực tốt, thì Việt Nam sẽ tụt hậu, không thể
phát triển được trong một thế giới đang biến đổi từng ngày, nhất là khi khoa học công nghệ đang có những bước phát triển vượt bậc. Vì thế, không chỉ để có một
nền giáo dục tốt, với chương trình, sách giáo khoa tối ưu, hay một kỳ thi đánh giá
đúng chất lượng học sinh, nhằm khuyến khích cả thầy và trò tham gia dạy tốt, học
tốt… trong bối cảnh hiện nay, giáo dục Việt Nam còn cần phải tính đến chuyện hòa
nhập với các trường học chất lượng đẳng cấp quốc tế. Con số 1,7 tỷ USD chi cho
du học tự túc trong năm 2013, tương đương 1% GDP, rõ ràng rất có ý nghĩa.
Xu hướng xã hội hóa giáo dục đã được đẩy mạnh trong thời gian gần đây.
Nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài cũng đã đầu tư phát triển dự án trường
học ở các cấp học khác nhau và nhận được sự quan tâm lớn của xã hội. Đây là xu
hướng cần được tiếp tục được đẩy mạnh, để cùng với hệ thống giáo dục - đào tạo
công lập, hệ thống này sẽ góp phần quan trọng vào đổi mới, nâng cao chất lượng
giáo dục - đào tạo tại Việt Nam.
Ngày nay, cả nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ của trí tuệ, của
nền kinh tế tri thức, vấn đề con người đã được đặt ra ở tầm cao mới, coi con người
là vốn quý nhất, coi sự phát triển nguồn nhân lực con người là cuộc cách mạng
trong bối cảnh thế giới đang biến động mạnh mẽ, cùng hợp tác, cùng cạnh tranh.
Nguồn lực con người là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và
tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất. Vì vậy, chúng ta phải tập
trung chăm sóc, bồi dưỡng, đào tạo, phát huy sức mạnh của con người Việt Nam
thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề
nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
13


Sức mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, kể cả kiều
bào ta ở nước ngoài phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó
có bộ phận nhân tài, trên nền sức mạnh dân trí với cốt lõi là nhân cách, nhân phẩm

đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhìn chung chúng ta có thể thấy rằng, trong nhiều thập kỷ qua, nhất là thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng, việc chăm sóc, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy
nguồn lực con người luôn được quan tâm hàng đầu và đó là nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng, toàn dân với đội ngũ trí thức là nòng cốt. Đặt con người vào trung
tâm của sự phát triển, con người là mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế - xã
hội tạo cơ sở để thực hiện quan điểm phát triển nội sinh, tức là phát triển kinh tế xã hội do con người và vì con người, kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội và quay lại phục vụ văn hóa phát triển, lấy văn hóa dân tộc làm bệ
phóng cho công nghệ tiên tiến, lấy nguồn lực con người là điều kiện cơ bản đi vào
công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Chính vì thế với chúng ta, giáo dục luôn được coi
là quốc sách hàng đầu.

----------------------------

14


Câu 6
Phân tích những yếu tố cấu thành sức mạnh quốc phòng
của Việt Nam? Liên hệ chứng minh từ thực tiễn Đảng lãnh đạo
xây dựng tiềm lực quốc phòng của đất nước
------------------------------------* Những yếu tố cấu thành sức mạnh quốc phòng của Việt Nam
Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân là nòng
cốt.
Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng, an ninh nước ta tạo thành bởi rất
nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, khoa học, quân sự, an
ninh,... cả ở trong nước, ngoài nước, của dân tộc và của thời đại, trong đó những
yếu tố bên trong của dân tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Sức mạnh tổng
hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là cơ sở, tiền đề và là biện

pháp để nhân dân đánh thắng kẻ thù xâm lược.
(Phân tích thêm)
* Liên hệ chứng minh từ thực tiễn Đảng lãnh đạo xây dựng tiềm lực
quốc phòng của đất nước
Xây dựng tiềm lực quốc phòng là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà
nước ta, nhằm huy động kịp thời mọi nguồn lực, tăng cường sức mạnh quốc
phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc cả thời bình và thời chiến. Đây là vấn đề có tính
nguyên tắc, được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, cần tiếp tục quán
triệt, triển khai thực hiện.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng là một trong những đột phá về tư duy và
tổ chức thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở nước ta. Thực chất đó là
quá trình đổi mới nội dung, phương thức, nhằm tạo ra nguồn lực tổng hợp đảm bảo
tốt nhất cho nhiệm vụ quốc phòng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội XII của Đảng
đã khẳng định: phải tiếp tục “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh”, tạo nền
tảng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây là quan điểm cơ bản, thể hiện tư tưởng nhất
quán của Đảng ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Quan
điểm đó là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo; là sự phát triển về tư duy lý luận trên lĩnh
vực quốc phòng trong điều kiện thời bình, đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội, nhưng cũng hiện hữu không ít thách thức gay gắt, khó lường.
Quán triệt quan điểm của Đảng, những năm qua, việc xây dựng tiềm lực
quốc phòng được các cấp, ngành, địa phương, lực lượng và toàn dân triển khai
thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả tương đối toàn diện. Nhận thức, tư duy về xây
15


dựng tiềm lực quốc phòng đã có chuyển biến căn bản, nhất là những phát triển lý
luận nhận thức về đối tác, đối tượng; mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong
điều kiện mới, cùng những phát triển về khoa học, nghệ thuật quân sự. Công tác

giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng và toàn
dân đi vào nền nếp, đạt hiệu quả thiết thực. Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố)
được xây dựng theo chiều sâu, ngày càng vững chắc; lực lượng quốc phòng - an
ninh thường xuyên được tăng cường. Việc kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng, quốc phòng với kinh tế có chuyển biến tích cực, trên tất cả các mặt, như:
điều hòa nhân lực, bố trí cơ cấu kinh tế - kỹ thuật, xây dựng hệ thống cơ sở hạ
tầng, thiết bị chiến trường, hậu phương chiến lược, bố trí phân vùng kinh tế,…
hình thành các vùng chiến lược vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc
phòng - an ninh, v.v. Kết quả đó đã góp phần quan trọng tăng cường sức mạnh
quốc phòng, bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược, không bị động,
bất ngờ trong mọi tình huống.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, nhận thức về xây dựng tiềm lực quốc phòng
ở một số ngành, lĩnh vực, địa phương và nhân dân còn hạn chế; thậm chí, còn có
nhận thức, rằng: đó là việc riêng của Bộ Quốc phòng. Công tác giáo dục quốc
phòng và an ninh; xây dựng và hoạt động của khu vực phòng thủ; xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân,… có mặt chưa vững chắc. Việc kết hợp giữa phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh ở một số ngành, lĩnh vực
chưa đầy đủ; khả năng động viên, huy động các nguồn tiềm lực cho quốc phòng
còn bất cập. Những vấn đề đó nếu không được khắc phục kịp thời, sẽ ảnh hưởng
không nhỏ tới sức mạnh quốc phòng của đất nước, nhất là khả năng ngăn ngừa,
đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh cũng như năng lực xử lý kịp thời các tình
huống chiến lược cả trên bộ, trên biển và trên không. Vì vậy, xây dựng tiềm lực
quốc phòng phải là mối quan tâm thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta, theo tinh thần Đại hội XII đã khẳng định. Để tiếp tục thực hiện tốt nội
dung này, chúng ta cần nhận thức đúng thực chất nội hàm của tiềm lực quốc
phòng, nhất là những nội dung cốt lõi; trên cơ sở đó, cụ thể hóa cho từng nội dung
của tiềm lực, làm cơ sở để các cấp, ngành, lực lượng và địa phương triển khai thực
hiện.
Về xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần - thành tố cơ bản, quan trọng
nhất của tiềm lực quốc phòng - phải được đặt ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ

hữu cơ, chi phối hiệu quả đối với các tiềm lực khác. Việc xây dựng tiềm lực quan
trọng này đòi hỏi vừa phải kế thừa những giá trị đã đạt được trong thời gian qua;
đồng thời, có sự vận dụng, phát triển phù hợp trong điều kiện mới. Đó là phát huy
các giá trị về lòng yêu nước, ý chí, niềm tin, truyền thống lịch sử, văn hóa,… trong
bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến động nhanh, phức tạp, khó lường, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; các thế lực thù địch thường xuyên chống phá;
16


điều kiện thế và lực của đất nước được tăng cường, v.v. Trong đó, trọng tâm là xây
dựng lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua
đó, tạo sự đồng thuận, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách
mạng của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

---------------------------------------

17


Câu 7
Phân tích quan điểm chỉ đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam
-------------------Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó
lường. Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước.
Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập
quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc
của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức

ngày càng đa dạng và phức tạp.
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều
thách thức. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực
của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị
- xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những
xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và
lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt
với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham
nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay
vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau.
Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ
tiến hành công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước
Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với
phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Giữ vững hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời sáng
tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam cũng như diễn biến hòa bình của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với
từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ, trong bất kỳ tình huống nào cũng tránh
không để rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, củng cố hòa bình, an ninh, tạo
môi trường thuận lợi cho đất nước phát triển.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và
18



thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đưa các mối quan hệ đã được
thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững.
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ
hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ,
trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực,
với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu
vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương
Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động đàm phán và ký kết
với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn khổ quan hệ hữu nghị và hợp
tác toàn diện cho thế kỷ 21. Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã được ký kết
như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định về biên
giới trên bộ, Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá với Trung
Quốc, Hiệp định về phân định thềm lục địa với In-đô-nê-xia... Các mối quan hệ
song phương và đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng củng
cố môi trường hoà bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội
dung quan trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật
diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay. Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên
cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị
trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức khu
vực như ASEAN, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC),
Diễn đàn á - Âu (ASEM) và đang tích cực đàm phán để sớm gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động
của các tổ chức, diễn đàn quốc tế đã góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự tham gia và hoạt động tích cực của Việt Nam

ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá tích cực và đó là cơ sở để Việt
Nam ứng cử vào ghế Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
nhiệm kỳ 2008-2009.
Với nhận thức sâu sắc rằng thế giới hiện nay đang phải đối phó với những
vấn đề toàn cầu mà không một nước nào có thể tự đứng ra giải quyết được, Việt
Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để
cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói
nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, ... Đặc biệt
từ sau sự kiện 11/9/2001, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ lực chung của các
nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở song phương và đa phương
19


nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh và ổn định của các
quốc gia.
Những nỗ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình
đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế, góp phần vào sự nghiệp chung của nhân dân
thế giới vì hòa bình, ổn định và phát triển

------------------------------

20


Câu 8
Phân tích, làm rõ tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng
đối với báo chí truyền thông
------------------------* Thực trạng Đảng lãnh đạo báo chí
Trong thời gian qua, bên cạnh những thành tích đạt được, sự lãnh đạo của
Đảng đối với báo chí truyền thông còn một số hạn chế như:

Một là, chậm trễ, thiếu kiên quyết và chưa có biện pháp cụ thể khắc phục
một số thiếu sót, sai phạm của báo chí. Việc báo chí bị khuynh hướng thương mại
và cơ chế thị trường chi phối, có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích chính trị, một
số cán bộ, phóng viên báo chí vi phạm về chính trị, đạo đức, phẩm chất nghề
nghiệp ... là những vấn đề đã được nhận diện, nhắc nhở, kiểm điểm trong nhiều chỉ
thị, nghị quyết của Đảng nhưng đến nay vẫn chưa được khắc phục, thậm chí còn có
những biểu hiện vi phạm ở mức độ tinh vi, nghiêm trọng hơn. Thực tế này lại trở
thành nguyên nhân của một số khuyết điểm khác trong hoạt động báo chí.
Hai là, việc sắp xếp hệ thống báo chí chưa đạt yêu cầu đề ra. Có tình trạng
“thừa” tương đối báo chí, thể hiện ở tình trạng trùng lặp nội dung giữa các báo chí,
những khác biệt có tính đặc trưng giữa các loại hình báo chí thể hiện không rõ.
Ba là, chế độ, chính sách đối với hoạt động báo chí trong hoàn cảnh mới
chưa được xem xét, ban hành đầy đủ, đồng bộ và kịp thời. Các chính sách đầu tư,
chính sách thuế, chế độ lương, nhuận bút đối với hoạt động báo chí chưa thỏa
đáng. Mâu thuẫn giữa chức năng tư tưởng, văn hóa với hoạt động kinh tế; giữa
thông tin, tuyên truyền và tính thương mại của báo chí ngày càng gia tăng, tính
chất “hàng hóa đặc biệt” của báo chí không phải lúc nào cũng được hiểu đúng, dẫn
đến tình trạng vận dụng và thực hiện tùy tiện.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước về quản lý báo chí – truyền thông.
Trên cơ sở những văn kiện của Đảng ta, có thể thấy những quan điểm sau
đây cần được nhận thức, quán triệt và thực hiện trong quá trình quản lý nhà nước
về báo chí cũng như họat động báo chí.
- Công tác báo chí là một bộ phận cấu thành hữu cơ trong bộ máy hoạt
động của Đảng ta, là yếu tố cầu thành hoạt động tư tưởng, lý luận. Không chỉ là
yếu tố cấu thành hữu cơ, báo chí là vũ khí xung kích trên mặt trận tư tưởng, lý
luận. Báo chí có vai trò quan trọng đối với công tác tư tưởng, lý luận và tổ chức.
Quan điểm này đã được thể hiện xuyên suốt trong hoạt động của Mác-Ănghen,
Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trong lịch sử đấu tranh cách mạng của
Đảng ta. Báo chí là bộ phận hữu cơ và đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp
của Đảng.


21


- Báo chí nước ta phải góp phần tích cực vào tuyên truyền lý luận MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Báo chí phải góp phần tích cực xây dựng lý tưởng xã hội
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, góp
phần ổn định chính trị tư tưởng, bình ổn đời sống tinh thần để huy động nguồn lực
phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống. Xây dựng lý tưởng xã
hội, tuyên truyền tư tưởng của Đảng là một công việc lâu dài, khó khăn, phức tạp,
nhất là trong tình hình hiện nay, cho nên đòi hỏi phải kiên trì, sự nhiệt thành, trung
thành, hiểu biết và tính chuyên nghiệp cao.
- Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và
là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lí của
Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư tưởng,
tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí.
Báo chí của ta là cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, triệt để của Đảng và quản lý của Nhà nước.
- Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc định hướng chính trị, bằng và thông qua
nhà nước, thông qua công tác tổ chức - cán bộ, thông qua giám sát, kiểm tra hoạt
động thường xuyên trong thực tiễn. Quản lý nhà nước về báo chí còn bằng sức
mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí
sắc bén của họ”. Mỗi nhà báo là một cán bộ hoạt động trong lĩnh vực công tác tư
tưởng - văn hóa của Đảng, là nhà truyền thong - vận động xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của nhà nước. Nhà báo là chủ thể tích cực trong quá trình họat
động báo chí cũng như quản lý nhà nước về báo chí.
-------------------------

22



Câu 9
Phân tích nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí truyền
thông. Liên hệ thực tiễn?
----------------------------------* Nội dung
Thứ nhất, Đảng đề ra chủ trương, đường lối phát triển hệ thống báo chí.
Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng to lớn và đa dạng của nhân dân về thông
tin, Đảng ta chủ trương phát triển mạnh mẽ đi đôi với quản lý tốt hệ thống báo chí,
truyền thông.
Cùng với các nghị quyết chuyên đề về công tác tư tưởng lý luận, công tác
báo chí truyền thông, văn kiện các kỳ đại hội của Đảng dành một phần nội dung đề
cập đến công tác báo chí, đánh giá về thành công, hạn chế của hoạt động báo chí,
đồng thời đưa ra những định hướng, nhiệm vụ phát triển báo chí phù hợp với tình
hình thực tiễn, vừa tạo điều kiện cho báo chí khắc phục những yếu kém, khuyết
điểm, vừa giúp báo chí phát triển.
Thứ hai, Đảng định hướng chính trị, tư tưởng về nội dung thông tin, truyền
thông của báo chí. Đảng chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời
cho báo chí để đảm bảo cho báo chí có lập trường chính trị vững chắc, mục tiêu
chính trị rõ ràng. Thông qua tuyên truyền, phổ biến thông tin đến công chúng, định
hướng việc phân tích, bình luận để thống nhất nhận thức xã hội, tránh việc công
chúng vì thiếu thông tin mà bị lợi dụng bới các thông tin xuyên tạc, bịa đặt thông
tin có dụng ý xấu của các thế lực thù địc, phản động.
Thứ ba, Đảng làm đầu mối chỉ đạo, phối hợp hoạt động giữa các phương
tiện truyền thông đại chúng. Là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, Đảng tổ chức
sự phối hợp giữa các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân
trong việc lãnh đạo và hỗ trợ báo chí hoạt động, đồng thời lãnh đạo sự phối hợp
hoạt động của báo chí đẻ tạo nên sức mạnh tổng lực trên mặt trận thông tin.
* Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí truyền thông
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo bằng cách đề ra chỉ thị, nghị quyết đối với báo

chí. Bằng các nghị quyết nói chung và đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề về
công tác tư tưởng - văn hóa, các chỉ thị đối với báo chí, Đảng dã thực hiện sự lãnh
đạo đối với báo chí ngày càng có hiệu quả. Chính các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
vè báo chí đã hàm chứa tư tưởng, nội dung mà báo chí cách mạng nếu xa rời nó sẽ
trở nên trống rỗng và không còn ý nghĩa.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật
về báo chí. Thông qua các cơ quan tham mưu và can bộ của Đảng trong cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí, trong cơ quan báo chí, Đảng thực hiện sự lãnh đạo
đối với các cơ quan nhà nước. Từ quan điểm báo chí đặt dưới sự lãnh đạo của
23


Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, nhà nước
thể chế hóa, cụ thẻ hóa đường lối, quan điểm của Đảng thành luật pháp, kế hoạch,
chính sách và kiểm tra công việc quản lý của Nhà nước đối với báo chi, đảm bảo
cho báo chí hoạt động theo đúng định hướng của Đảng.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo thông qua các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là Hội
Nhà báo. Thông qua việc định hướng chính trị cho hoạt động của Hội, lãnh đạo
việc tổ chức đại hội Hội Nhà báo để hướng dẫn, kiện toàn tổ chức Hội nhằm làm
cho Hội hoạt động hiệu quả. Đảng trực tiếp chỉ đạo việc xác lập tính chất, mục
đích, cơ cấu tổ chức của Hội, đồng thời tạo lập mối quan hệ giữa Hội Nhà báo với
các thành viên khác trong hệ thống chính trị, giữa Hội Nhà báo với các cơ quan chỉ
đạo quản lý báo chí, các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương, quan hệ hợp
tác giữa Hội với các tổ chức báo chí các nước, các tổ chức báo chí khi vực và quốc
tế.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng trong các cơ quan báo
chí. Đó là các tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan báo chí, Đảng đoàn hội nhà
báo các cáp. Cùng với hệ thống quan điểm báo chí của Đảng, sự lãnh đạo của
Đảng đối với các vấn đề cụ thể, hàng ngày dựa vào chính các tổ chức đảng và đảng
viên trong cơ quan báo chí và trong các cấp hội nhà báo.

Thứ năm, Đảng lãnh đạo trực tiếp các cơ quan báo chí của Đảng. Báo chí
có nhiều loại, có báo chí của các cấp bộ đảng, của cơ quan nhà nước, báo chí của
các đoàn thẻ quần chúng. Vì vậy có sự khác nhau nhất định trong cách lãnh đạo
của Đảng đối với từng loại hình báo chí. Đảng chỉ trực tiếp lãnh đạo và quản lý các
cơ quan báo chí của Đảng với tư cách là cơ quan chủ quan.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong cơ quan báo chí. Đảng chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ
báo chí “vừa hồng, vừa chuyên”, không chỉ đủ về số lượng mà phải mạnh về chất
lượng.
Thứ bảy, Đảng lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra. Công tác kiểm tra của
Đảng đối với báo chí - xuất bản tiến hành đồng thời với thanh tra của Nhà nước,
tạo sự thống nhất giữa lãnh đạo và quản lý, giữa định hướng chính trị và việc chấp
hành các quy định cụ thể của pháp luật.
-------------------------------------

24



×