Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ (Các lớp tại tỉnh) Năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.34 KB, 97 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TỐT NGHIỆP

CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

1


MỤC LỤC

I. KHOA DÂN VẬN
VẤN ĐỀ 1: PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ.
* Khái niệm:
Phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là mẫu hành
vi mà người lãnh đạo, quản lý lựa chọn nhằm tác động và ảnh hưởng có hiệu quả
đến cấp dưới và quần chúng nhân dân tại cơ sở.
* Những biểu hiện đặc trưng của phong cách lãnh đạo của cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở cơ sở:
1. Tác phong làm việc dân chủ:
Tác phong làm việc dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo
ở cấp xã, nó sẽ khơi dậy được mọi sự tham gia nhiệt tình và những đóng góp
sáng tạo của quần chúng trong việc tạo ra các quyết định, chỉ thị, trong việc tổ
chức thực hiện những đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước ở cơ sở có hiệu quả.
2. Tác phong làm việc khoa học:
Tác phong làm việc khoa học thể hiện đặc điểm nghiệp vụ tổ chức của
phong cách lãnh đạo cấp cơ sở. Lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở hiện nay khác hẳn
với thời kỳ bao cấp. Người lãnh đạo, quản lý không chỉ có nhiệt tình cách mạng,
có đạo đức mà cần thiết phải có trình độ chuyên môn, trí tuệ.
Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện nên đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý
phải có năng lực tổ chức, kỹ năng giao tiếp, am hiểu con người và sử dụng con


người đúng việc, đúng chỗ.
3. Tác phong làm việc hiệu quả, thiết thực:
Tính hiệu quả, thiết thực là tiêu chí đánh giá tài, đức của cán bộ lãnh đạo,
đánh giá sự phù hợp hay không của phong cách lãnh đạo.
Cấp cơ sở là nơi hiện thực hóa, đưa đường lối chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, vì vậy đòi hỏi tác phong làm
việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải đảm bảo tính hiệu quả và thiết
thực khi đưa ra các quyết định quản lý và tổ chức thực hiện.
4. Tác phong đi sâu đi sát quần chúng:

2


Tác phong đi sâu đi sát quân chúng là đặc trưng riêng biệt của phong cách
lãnh đạo cấp cơ sở. Có đi sâu đi sát quần chúng mới có được tác phong khoa
học, dân chủ, tác phong hiệu quả và thiết thực.
5. Tác phong tôn trọng và lắng nghe ý kiến quần chúng:
Dân là gốc nước, dân là chủ, mọi nguồn sức mạnh, trí tuệ sáng tạo đều từ
nhân dân mà ra. Chính vì thế tác phong tôn trọng và lắng nghe quần chúng
không chỉ là đặc trưng cơ bản của phong cách lanh đạo cấp cơ sở mà còn là
nguyên tắc làm việc, nguyên tắc ứng xử của người lãnh đạo.
6. Tác phong khiêm tốn học hỏi và thực sự cầu thị:
Khiêm tốn học hỏi sẽ giúp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở tiến bộ,
có thêm kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có phong cách khiêm tốn học hỏi và
thực sự cầu thị sẽ dễ gần được quần chúng, chiếm được sự cảm tình, tôn trọng
của quần chúng.
7. Tác phong làm việc năng động và sáng tạo:
Người lãnh đạo năng động, sáng tạo phải là người nhạy bén trong việc
phát hiện cái mới, ủng hộ những cái mới tích cực, nhân nó lên thành diện rộng,

thành phong trào để đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở cơ sở ngày càng
được cải thiện, đổi mới, văn minh hơn.
8. Tác phong làm việc gương mẫu và tiên phong:
Tính gương mẫu, tiên phong của cán bộ, đảng viên là yếu tố đảm bảo vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, tạo được sự tín nhiệm, niềm tin của nhân
dân. Để tạo ra một bước chuyển biến mới trong đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, … rất cần đến phong cách, tác phong gương mẫu, tiên phong của người cán
bộ lãnh đạo, quản lý để qua đó người dân mến phục, noi theo và tin tưởng.
* Phương hướng xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh đạo cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở:
1. Rèn luyện phong cách lãnh đạo lêninnít:
Phong cách lãnh đạo lêninnít là phong cách lãnh đạo của ĐCS cầm quyền.
Người cán bộ lãnh đạo cơ sở cần rèn luyện phong cách lãnh đạo lêninnít là
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; tính tư tưởng cao, tính nguyên tắc Đảng;
mối liên hệ thường xuyên với quần chúng; chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách; tính thiết thực, hiệu quả, thông thạo công việc.
2. Khắc phục phong cách lãnh đạo quan liêu:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, HCM đã nhiều lần nhấn
mạnh: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; đảng viên, lãnh đạo đều “từ
trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Người lãnh đạo theo quan điểm
HCM là “công bộc của dân”, “là đầy tớ trung thành của nhân dân”. Chính vì thế
3


trong công tác lãnh đạo phải xuất phát từ quan điểm: Dân là gốc. Nếu xa dân,
tách rời dân chúng sẽ dẫn đến phong cách quan liêu.
Phong cách lãnh đạo không tự nhiên mà có. Xây dựng và hoàn thiện
phong cách lãnh đạo của người cán bộ cơ sở là một quá trình có chủ đích, có
định hướng, đòi hỏi mỗi người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải tự rèn luyện bồi
dưỡng mới có được, đặc biệt là kỹ năng áp dụng linh hoạt, hợp lý các phong

cách, thủ thuật lãnh đạo với một đối tượng cụ thể trong một tình huống cụ thể.
Muốn khắc phục phong cách lãnh đạo quan liêu cần:
- Chú trọng tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hình thành ý
thức và tâm lý xã hội về chống phong cách quan liêu không chỉ trong đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý mà trong toàn xã hội.
- Xây dựng cơ sở pháp lý chống phong cách lãnh đạo quan liêu.
- Hoàn thiện thể chế lãnh đạo, quản lý trong đó quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng vị trí chức danh, quy định sự tương ứng giữa chức vụ, thẩm
quyền và trách nhiệm.
- Chú trọng sử dụng thông tin đại chúng, dư luận xã hội để khắc phục
phong cách quan liêu. Tăng cường vai trò kiểm soát của nhân dân.
- Xây dựng văn hóa lãnh đạo, tăng cường thực hiện pháp chế và trật tự
pháp luật cho mỗi cán bộ, công chức.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay những giải pháp nêu trên cần được
tiến hành đồng bộ, gắn liền với những nội dung cải cách hành chính, nhất là cải
cách cơ cấu tổ chức bộ máy và quá trình chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ,
công chức nói chung và cấp cơ sở nói riêng, khắc phục phong cách quan liêu cần
chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp khác.
3. Tăng cường rèn luyện, nâng cao lập trường tư tưởng - chính trị của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
Những phẩm chất tư tưởng - chính trị là linh hồn sống của người lãnh đạo,
có vai trò định hướng cho hoạt động của người lãnh đạo, là cơ sở của phong
cách lãnh đạo có tính nguyên tắc đảng, định hướng xã hội chủ nghĩa, thống nhất
giữa lời nói với việc làm, lý luận với thực tiễn, liên hệ mật thiết với quần chúng.
Xây dựng, rèn luyện đổi mới phong cách lãnh đạo cấp cơ sở theo hướng
dân chủ, khoa học và thiết thực.
Thực hiện liên hệ mật thiết với quần chúng còn là cơ sở để thực hiện
nguyên tắc dân chủ trong lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở. Thực hiện yêu cầu chính
trị và tư tưởng quan trọng để đảm bảo cho quần chúng thực sự tham gia công tác
lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đòi hỏi người lãnh dạo, quản lý cấp

cơ sở phải biết kết hợp linh hoạt giữa chế độ dân chủ với chế độ thủ trưởng
trong công tác của mình.
4. Rèn luyện những phẩm chất tâm lý - đạo đức của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
4


Những phẩm chất tâm lý - đạo đức là cơ sở tạo nên cái riêng trong phong
cách của người lãnh đạo, quản lý. Phong cách của người lãnh đạo bao gồm tính
trung thực, độc lập, kiên quyết, cương nghị và linh hoạt, đòi hỏi cao, thái độ ân
cần, lịch thiệp, sự nhạy bén, sáng tạo. Những phẩm chất này được biểu hiện
hàng ngày trong hoạt động, trong phong cách làm việc của người lãnh đạo và
gắn liền với hiệu quả làm việc.
Người cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở cần chú ý rèn luyện tính dân chủ trong
công tác, quan hệ của người lãnh đạo, tính đòi hỏi cao và giữ nguyên tắc; sự tế
nhị, lịch thiệp và tự chủ trong giao tiếp; sự khiêm tốn và chân thành, thường
xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng – cần, kiệm, liêm, chính. Biểu hiện cao
nhất của đạo đức cách mạng mà xã hội trông chờ ở người lãnh đạo là trong hành
động luôn lấy sự nghiệp chung, lợi ích chung làm trọng.
5. Chú trọng bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực tổ chức cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở để rèn luyện, đổi mới phong cách
lãnh đạo:
Trong phong cách lãnh đạo những đặc điểm về mặt nghiệp vụ - tổ chức có
vị trí hết sức quan trọng vì nó phản ánh hoạt động của người lãnh đạo, quản lý.
Để xây dựng, đổi mới phong cách lãnh đạo theo hướng dân chủ, khoa học,
thiết thực đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải chú trọng rèn luyện để
có được quan điểm khoa học, tính tổng hợp, tầm nhìn xa, kỹ năng tổ chức, kiểm
tra và giám sát.
Một yêu cầu không thể thiếu được đối với người lãnh đạo, quản lý ở nước
ta hiện nay trong công tác cần phải chú trọng rèn luyện kỹ năng đánh giá và sử

dụng cán bộ, kỹ năng đổi mới kỹ thuật và đổi mới tổ chức, cần biết tiếp thu và
vận dụng linh hoạt, sang tạo những thành tựu của khoa học lãnh đạo hiện đại,
hình thành những kỹ năng lãnh đạo hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả trong công
tác; phải tháo vát, nhạy bén, có kỹ năng cập nhật những thay đổi trong quá trình
phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v ...
6. Rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo thông qua thực tiễn sự
nghiệp đổi mới, hội nhập khu vực và quốc tế:
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Muốn lãnh đạo được dân tin, dân yêu,
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở phải học tập, rèn luyện từ thực tiễn. Chính thực tiễn sôi
động của sự nghiệp đổi mới, hội nhập khu vực và quốc tế giúp cho người cán bộ
cơ sở tự ý thức được sự hạn chế, thiếu hụt của bản thân để có kế hoạch học tập
và rèn luyện. Đồng thời, giúp cán bộ cơ sở bổ sung hoàn thiện thêm những thiếu
hụt về kiến thức, năng lực, kinh nghiệm và kỹ năng công tác, vận động quần
chúng đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Thực tiển là môi trường rèn luyện tài – đức của cán bộ lãnh đạo. Lãnh đạo
ở cấp trung gian và cấp cơ sở là nơi hiện thực hóa, đưa đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Vì thế đòi hỏi tác
phong làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải được rèn luyện
5


trong thực tiễn sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế sâu rộng, đảm bảo các
quyết định quản lý khi đưa ra phải phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, tránh xa
rời thực tiễn. Muốn vậy, người cán bộ cấp cơ sở phải học tập chính ngay từ thực
tiễn công việc hàng ngày, học từ người dân; học từ đòng chí, đồng nghiệp, học
từ việc tổng kết thực tiễn, tổng kết mô hình mới, những cách làm hay. Trong giai
đoạn hiện nay người lãnh đạo, quản lý không chỉ lãnh đạo hành chính đơn thuần
mà còn thực hiện vai trò lãnh đạo kinh tế. Sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế
đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ thụ động chờ hướng dẫn, chỉ đạo của
cấp trên mà phải chủ động, nắm bắt thực tiễn, tìm ra hướng đi, hướng chuyển

dịch cơ cấu kinh tế phù hợp cho địa phương mình. Thực tiễn chính là trường học
lớn giúp người cán bộ cơ sở phải vừa lăn lộn chỉ đạo thực tiễn vừa đúc rút
những kinh nghiệm quý cho chính mình, thực tiễn là người thầy nghiêm khắc
nhất để người cán bộ cấp cơ sở rèn luyện phong cách lãnh đạo, quản lý.
Sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa – giáo dục, công tác xóa đói, giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng v.v. đòi hỏi các cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở phải tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước sát đòi hỏi thực tiễn, hiệu quả, thiết thực, tránh phô trương, hình
thức, qua loa, đại khái, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân.
Chính vì vậy đổi mới phong cách lãnh đạo thông qua thực tiễn sự nghiệp đổi
mới, hội nhập khu vực và quốc tế cũng là một yêu cầu cơ bản trong xây dựng
phong cách người lãnh đạo ở nước ta hiện nay.

6


VẤN ĐỀ 2: XỬ LÝ TÌNH HUỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI Ở CƠ SỞ.
* Khái niệm điểm nóng chính trị - XH:
Là xung đột XH ở mức cao, ở mức căng thẳng, đối đầu hoặc khg tương
dung. Là hiện tượng XH không bình thường, căng thẳng, mất ổn định, rối loạn.
Trong đó diễn ra sự xung đột, chống đối giữa các lực lượng. Chủ thể tham gia
trong ĐNCTXH có thể là cơ quan quyền lực nhà nước hoặc các lực lượng chính
trị khác nhau.
* Tích chất của điểm nóng CT-XH:
So với các xung đột xã hội, các tình huống CT-XH thông thường khác,
ĐNCTXH có một số tính chất sau:
- Hành vi của những người tham gia xung đột đã vượt ra ngoài hoặc có
khả năng vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luậ và chuân mực đạo đức.
- Sự chống đối của đám đông quần chúng hoặc các lượng chính trị đã
hướng trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước, đe dọa cơ cấu quyền lực hiện

tồn.
- Diễn ra tại một địa điểm nhưng có khả năng ảnh hưởng và lan tỏa sang
nới khác.
- Đặt chủ thể lãnh đạo, quản lý không thể trì hoãn, phải xử lý như một tình
hướng CT-XH.
- ĐNCTXH thường nổ ra trong những bối cảnh KT-XH đặc thù:
+ Khủng hoảng KT-XH;
+ Có sự chuyển giao quyền lực giữa các thế hệ, các nhóm lãnh đạo, cầm
quyền.
+ Thay đổi chế độ xã hội;
+ Nạn tham nhũng trầm trọng;
+ Tốc độ phát triển KT-XH nhanh, quy mô phát triển lớn vượt ra tầm kiểm
soát của các lực lượng lãnh đạo, quản lý, các lực lượng CT-XH (phát triển
nóng).
* Quy trình xử lý điểm nóng:
1. Bước một: Nắm tình hình, phân tích nguyên nhân, mâu thuẫn,
nhận dạng điểm nóng.
Đây là bước có ý nghĩa quyết định, vì nó cung cấp những căn cứ cho
những giải pháp đúng trong quá trình xử lý. Những thông tin cần phải có là:
- Tính chất, quy mô, hình thức đấu tranh, yêu sách của quần chúng.
- Lực lượng tổ chức, cầm đầu.
- Ai, cấp nào có trách nhiệm giải quyết.
7


2. Bước hai: “Rút ngòi nổ”, hạn chế ảnh hưởng xấu và sự lan tỏa sang
nơi khác.
Để thực hiện bước này, trước hết phải thiêt lập được sự lãnh đạo, chỉ huy
thống nhất, có hiệu lực của hệ thống chính trị để giữ vững quyền lực chính trị
trong quá trình xử lý. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Trong quá trình xử lý

điểm nóng, không bao giờ trao quyền cho một lực lượng khác. Lúc này cần phải
có người chỉ uy, người đứng đầu có uy tín, bản lĩnh, có phương pháp đúng và có
khả năng sử dụng được các lực lượng của hệ thống chính trị. Thông thường, nên
cử đồng chí đứng đầu cơ quan lãnh đạo đảng các cấp, ít ra phải thường trực,
thường vụ.
Tiếp theo là lựa chọn phương thức giải quyết, những lượng và phương
tiện phù hợp. Cần trả lời các câu hỏi: Giáo dục thuyết phục hay chấn áp? Dùng
các cơ quan bạo lực (quân đội, công an) hay lực lượng quần chúng? Sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng, các phương tiện thông tin liên lạc như thế nào?
Cần lưu ý là không để các phương tiện truyền thông và thông tin liên lạc lọt vào
lực lượng chống đối.
Để giải tán đám đông quần chúng, phải xem xét: Nếu yêu sách của quần
chúng đúng, cần cam kết thực hiện yêu sách. Đồng thời tranh thủ lôi kéo, phân
hóa răn đe, cô lập người cầm đầu. Trong trường hợp thật cần thiết, phải dùng bộ
máy công an và quân đội để giải tán đám đông.
Đối sách với người cầm đầu: Cần thương lượng và sử dụng nghệ thuật
thương lượng. Vạch mặt, cô lập nếu người cầm đầu là kẻ xấu. Trong trường hợp
cần thiết có thể bắt kẻ cầm đầu, nhưng bắt phải hợp pháp, hợp lý, để tình hình
không trầm trọng thêm. Trong quá trình này, cần chú ý một số nguyên tắc:
- Kiên định nguyên tắc, mềm dẻo linh hoạt về phương pháp, biện pháp (dĩ
bất biến ứng vạn biến).
- Cần chọn các giải pháp tốt nhất, sau mới đến giải pháp ít tốt hơn (thượng
sách, trung sách, hạ sách). Những giải pháp tốt hơn lag những giải pháp ít dùng
bạo lực.
- Nếu điểm nóng do mâu thuẫn địch – ta (thù địch) thì kịch bản duy nhất
là ta thắng, địch thua. Nếu là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì chọn kịch bản
“thắng – thắng” tức là chính quyền cũng thắng mà dân cũng thắng, mỗi bên đều
đạt được mục tiêu cơ bản trên tinh thần xây dựng.
- Phải tuần hủ nguyên tắc hợp pháp, hợp lý, hợp tình.
- Trong bất kì tình huống nào cũng phải dựa vào sự lãnh đạo của Đảng,

phải tin dân và phải dựa vào dân.
3. Bước ba: Khắc phục hậu quả sau khi điểm nóng đã được dập tắt
Trước hết, phải đưa xã hội nơi xảy ra điểm nóng trở lại hoạt động bình
thường: hệ thống chính trị, cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh, bệnh viện,
trường học, cac dịch vụ công cộng, các công trình phúc lợi xã hội v.v…Thứ hai,
8


là tâp trung sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, và sự quản lý của chính quyền cơ sở
khắc phục những thiệt hại về người và của (nếu có). Thứ ba, xác định trách
nhiệm của các bên gây ra điểm nóng. Khi đã xác định trách nhiệm của các bên
thì tiến hành xử lý vi phạm từ tất cả các phía; củng cố, thay thế, bổ sung, sàng
lộc độ ngũ của hệ thống chính trị.
4. Bước bốn: Rút kinh nghiêm, dự báo tình hình, áp dụng những biện
pháp để điểm nóng không tái phát
Khi tiến rút kinh nghiệm, cần đánh giá lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, qua
điểm nóng bộc lộ rõ ai là người thế nào. Đánh giá lại hệ thống tổ chức quyền lực
(bộc lộ những mạnh yếu qua điểm nóng). Đánh giá phương thức lãnh đạo, chỉ
đạo. Đánh giá những thiếu sót, bất cập trong chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước. Cần khách quan đánh giá lại cơ sở chính trị xã hội của
Đảng trong quần chúng: 1) Ai là lực lượng thực sự chống quan liêu, tham
nhũng; 2) Ai là lực lượng kích động, lôi kéo chống chính quyền. Đồng thời với
tổng kết, rút kinh nghiệm xử lý điểm nóng, thực hiện dự báo cáo tình hình và áp
dụng các biện pháp để điểm nóng không tái phát. Để công tác dự báo có kết quả,
cần dự báo theo các thông số thu thập được về các mặt kinh tế - xã hội; theo
những kịch bản nhất định, kể cả những kịch bản xấu nhất. Cũng cần dự báo cả
phương thức xử lý khi điểm nóng tái phát.
Xng đột xã hội là hiện tượng vẫn tồn tại cùng với quá trình vận động và
phát triển xã hội. Giải quyết, giải tỏa và quản lý tốt xung đột xã hội theo xu
hướng phát triển khách quan thì xung đột xã hội không sinh ra những tình huống

chính trị - xã hội hoặc điểm nóng chính trị - xã hội.
Mặc dù vậy, các tình huống chính trị - xã hội và điểm nóng chính trị - xã
hội, dù không mong muốn vẫn sẽ là hiện tượng tồn tại trong đời sống xã hội và
đời sống chính trị, đặc biệt là khi xã hội còn phân chia giai cấp, còn những khác
biệt về lợi ích, còn bất bình đẳng trong quá trình thực hiện hóa các lợi ích, trong
thụ hưởng những thành quả phát triển chung, và những phúc lợi xã hội. Điểm
nóng chính trị - xã hội còn là hiện tượng gắn liền với những chuyển biến mạnh
mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, khi mà sự phát triển vượt ra ngoài tầm kiểm
soát của Nhà nước và xã hội v.v.
Tính chất, quy mô, hình thức biểu hiện, phương thức xử lý của các xung
đột xã hội, cũng như các tình huống chính trị - xã hội, các điểm nóng chính trị xã hội rất đa dạng muôn hình, muôn vẻ. Kinh nghiệm cho thấy, khi điểm nóng
chính trị - xã hội nổ ra, người lãnh đạo biết phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức
Đảng, của các đoàn thể nhân dân, biết tin dân và dựa vào dân, có kỷ năng xử lý
tốt thì không những điểm nóng sớm giải tỏa, sớm ổn định tình hình, mà còn
tránh được hậu quả nặng nề kéo dài về sau.

9


VẤN ĐỀ 3: CÔNG TÁC MẶT TRẬN TỔ QUỐC.
* Khái niệm:
Khoản 2, Điều 1 , Luật MTTQ VN quy định: “MTTQ VN là bộ phận của
hệ thống chính trị của nước CHXHCN VN do ĐCS VN lãnh đạo, là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí. nguyện vọng, tập hợp khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối
hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh”.
* Chức năng của MTTQ Việt Nam:

Việc pháp luật khẳng định MTTQ VN “là một bộ phận của hệ thống chính
trị của nước CHXHCN VN” có nghĩa là pháp luật xác định địa vị pháp lý và
chính trị của Mặt trận là một thành tố cấu thành thể chế chính trị của nước ta.
MTTQ VN với tư cách là thành viên của hệ thống chính trị có chức năng, nhiệm
vụ riêng và tồn tại, hoạt động trong mối quan hệ với các thành viên khác của hệ
thống chính trị.
- Từ những văn bản chính trị, pháp lý trên đây, có thể thấy vai trò của
MTTQ VN trong hệ thống chính trị nước ta thể hiện ở những nội dung sau:
+ MTTQ VN có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ MTTQ VN là cơ sở chính trị của Đảng và của chính quyền nhân dân.
+ MTTQ VN là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của các tầng lớp nhân dân.
- Từ vị trí, vai trò trên đây, MTTQ VN có chức năng đại diện cho lợi ích
của nhân dân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng cho các thành viên.
+ MTTQ VN cũng như các tổ chức đoàn thể nhân dân, trước hết là tổ chức
của nhân dân nên có chức năng đại diện, bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp
của các tầng lớp nhân dân trước các cơ quan quyền lực là Đảng và Nhà nước.
Đây là lý do tồn tại và là chức năng chủ yếu của bất cứ tổ chức chính trị-xã hội
nào.
+ MTTQ VN có chức năng tập hợp, xây dựng và cũng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
(theo tinh thần NQ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng).
Đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nội dung chủ đạo của tư
tưởng HCM và đã được Đảng ta khẳng định trong đường lối cách mạng: Đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có
10



ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc VN XHCN.
Xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội; trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của
MTTQ VN. MTTQ VN tập hợp, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết trên cơ sở
vì lợi ích chung của dân tộc và bằng cách vận động, thuyết phục, hiệp thương
dân chủ - thống nhất hành động. Bởi vậy, có thể nói rằng, tổ chức và hoạt động
của Mặt trận là sự thống nhất từ đa dạng, không có sự đa dạng khác nhau thì
không thành Mặt trận, nhưng không có sự tương đồng và thống nhất về lợi ích
chung của Tổ quốc thì cũng không thành Mặt trận.
+ Chức năng tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đây thực chất là chức năng dân vận của MTTQ VN (và cũng là chức năng
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước thông qua các tổ chức thành viên và các cuộc vận động
chung của các tổ chức quần chúng); tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức vận động
các phong trào cách mạng mang tính toàn dân. Đây cũng là một trong những yếu
tố quy định vai trò của MTTQ VN là cơ sở của chính quyền nhân dân.
+ Chức năng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân.
Chức năng này được quy định rõ trong QĐ 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị
ngày 12/12/2013 v/v ban hành quy chế MTTQ, các đoàn thể CT-XH và nhân
dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân là trách nhiệm của mọi thành
viên hệ thống chính trị và xã hội. Thực hiện chức năng này, không chỉ đảm bảo
góp phần làm cho Đảng và Nhà nước mạnh hơn, qua đó thực thi chủ quyền của
nhân dân tốt hơn mà còn làm cho bản thân tổ chức Mặt trận mạnh hơn bởi vì
Đảng là thành viên và cũng là hạt nhân lãnh đạo Mặt trận, còn Nhà nước là thiết
chế đảm bảo các điều kiện cho hoạt động của mọi thành viên hệ thống chính trị

(pháp luật, chính sách, tài chính, …).
- Chức năng giám sát và phản biện xã hội.
Chức năng này được quy định rõ trong QĐ 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị
ngày 12/12/2013 v/v ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ
VN và các đoàn thể CT-XH. Quyền giám sát của MTTQ VN đã được khẳng
định trong Hiến pháp năm 2013. Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền,
hoạt động phản biện xã hội là nhu cầu tự thân đối với việc nâng cao chất lượng
lãnh đạo của Đảng. Sự phản biện xã hội từ phía nhân dân thông qua Mặt trận
giúp Đảng và Nhà nước tránh được sự chủ quan, duy ý chí trong việc xác định
đường lối, chủ tương, chính sách.
Sở dĩ giám sát và phản biện xã hội trở thành một chức năng cơ bản của
MTTQ VN là vì những lý do sau:
11


Mặt trận là tổ chức quần chung rộng lớn nhất, đại diện cho mọi tầng lớp
nhân dân. Chỉ có thông qua hoạt động giám sát và phản biện xã hội, Mặt trận
mới có thể giúp nhân dân kiểm soát được việc sử dụng quyền lực đã ủy quyền
của mình cho các cơ quan quyền lực (họa động giám sát và phản biện Xã hội tạo
ra sự chế ước từ bên ngoài để Đảng cầm quyền và Nhà nước không thể tùy tiện
trong việc hoạch định đường lối và tổ chức thực thi các quyết sách. Giám sát và
phản biện xã hội góp phần vào việc giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức, đảng
viên về đạo đức, lối sống, ý thức và kỹ năng thực thi công vụ).
Thực hienej giám sát và phản biện xã hội là Mặt trận đã thực hiện sự ủy
quyền của mọi tầng lớp nhân dân và các tổ chức CT-XH. Nếu không thực hiện
tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội thì MTTQ VN không thể hoàn thành
vai trò đại diện bảo vệ lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân.
* Nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam:
Điều 2, Luật MTTQ VN quy định nhiệm vụ của MTTQ VN là:
- Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về

chính trị và tinh thần trong nhân dân.
- Tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp
và phát luật.
- Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ,
công chức Nhà nước.
- Tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng,
Nhà nước.
- Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước
chăm lo, báo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với
nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
* Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của MTTQ VN:
Luật MTTQ VN quy định: “MTTQ VN tổ chức và hoạt động theo Điều lệ
của MTTQ VN phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Tổ chức, hoạt động của
MTTQ VN được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ,
phối hợp và thống nhất hành động”.
Tổ chức, hoạt động của MTTQ VN được thực hiện theo nguyên tắc tự
nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Ủy ban MTTQ
VN ở mỗi cấp là cơ quan chấp hành của MTTQ VN cùng cấp, do Đại hội đại
biểu MTTQ VN cấp đó hiệp thương bầu ra, có trách nhiệm tổ chức thực hiện
nhiệm vụ của MTTQ VN.
Các thành viên gia nhập MTTQ VN trên cơ sở tự nguyện, tán thành Điều
lệ MTTQ VN, được Ủy ban MTTQ VN cùng cấp xem xét công nhận. Trong tổ
12


chức và hoạt dộng của Mặt trận, các thành viên đều có quyền trình bày ý kiến
của mình, cùng trao đổi bàn bạc, hiệp thương dân chủ để đạt sự thống nhất,
không dùng mệnh lệnh, áp đặt. Nếu có những ý kiến khác nhau trên những vấn

đề cụ thể thì cùng nhau trao đổi, thuyết phục, giúp nhau giải quyết. Khi phối hợp
và thống nhất hành động, các thành viên phải thỏa thuận với nhau về chương
trình hành động chung và có nghĩa vụ phối hợp, giúp đỡ nhau để thực hiện
chương trình hành động đã được thảo thuận, đồng thời các tổ chức thành viên
của Mặt trận vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình.
* Nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ VN trong tổ chức
và thực hiện các phong trào, các cuộc vận động:
- Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư” cần bám sát 6 nội dung sau:
+ Đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, phát huy các thành phần kinh
tế, huy động được nhiều nguồn lực để phát triển sản xuất, tạo việc làm, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế sát hợp.
+ Đoàn kết phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Tương thân
tương ái”, có nhiều hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” và nhân đạo từ thiện.
+ Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, mọi người sống và làm
việc theo pháp luật, theo quy ước, hương ước của cộng đồng; thực hiện tốt quy
chế dân chủ ở cơ sở.
+ Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và thuần phong mỹ tục trong nhân dân, xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh.
+ Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, chăm sóc sức khỏe ban đầu và
chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình.
+ Đoàn kết xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, gắn bó với nhân dân tong
khu dân cư.
- Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” và xây dựng “Quỹ vì người
nghèo” cần bám sát 2 nội dung sau:
+ Nắm chắt những hộ nghèo và số hộ nghèo có nhà tạm, dột nát ở khu dân
cư để có kế hoạch giúp đỡ, hỗ trợ sát hợp, kịp thời.
+ Cuộc vận động được tiến hành thường xuyên nhưng tập trung vào tháng
cao điểm từ ngày 17/10 đến ngày 18/11 hằng năm. Tiến hành cuộc vận động có

trọng tâm, trọng điểm hướng vào những người có thu nhập không cao, những cơ
sở sản xuất kinh doanh có lai đóng trên địa bàn, coi trọng vận động giúp đỡ tại
chỗ của cộng đồng bà con dòng họ. Nếu khu dân cư quá khó khăn thì đề xuất
kiến nghị với Mặt trận cấp trên để hỗ trợ từ “Quỹ vì người nghèo”.
- Tổ chức Ngay hội đoàn kết toàn dân ngày 18/11 hằng năm.

13


+ Ngày Hội đại đoàn kết toàn dân tộc được tổ chức tập trung ở khu dân cư
vào dịp kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam ngày
18/11 hằng năm, nhằm tuyên truyền, giáo dục về truyền thống cách mạng vẽ
vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, về vai trò, vị trí của MTTQ VN
trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và góp phần đẩy mạnh
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.
+ Thành phần tham dự gồm đại diện các hộ gia đình, các đồng chí lãnh
đạo Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể, các vị chức sắc tôn giáo, các
nhân sĩ, trí thức đang làm việc, sinh sống ở khu dân cư. Chương trình ngày hội
tùy khả năng và sáng tạo của mỗi khu dân cư gồm hai phần: phần lễ với nội
dung chủ yếu là ôn lai lịch sử truyền thống của MTTQ VN, báo cáo kết quả thực
hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư”, khen thưởng, đăng ký thi đua và phần hội là các hoạt động giao lưu văn
hóa, thể thao, trò chơi dân gian truyền thống của địa phương.

14


VẤN ĐỀ 4: HỘI PHỤ NỮ
* Khái lược về Hội Liên hiệp Phụ nữ VN:
Hội là thành viên của MTTQ VN, là thành viên của Liên đoàn Phụ nữ dân

chủ Quốc tế và là thành viên của Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp
hội các nước Đông Nam Á).
Mục đích của Hội là hoạt động vì sự bình đẳng phát triển của phụ nữ,
chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của phụ nữ.
* Chức năng và nhiệm vụ của Hội:
- Chức năng:
+ Đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích chính đáng và hợp pháp
của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước.
+ Hội đoàn kết, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ nâng cao hiểu biết về giới và
trình độ mọi mặt để góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
chăm lo quyền lợi phụ nữ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN XHCN.
-Nhiệm vụ:
+ Động viên phụ nữ tự lực, tự cường nâng cao hiểu biết về giới, về pháp
luật, chính sách và trình độ mọi mặt. Tham gia tích cực vào các chương trình
phát triển KT-XH của đất nước.
+ Tham gia xây dựng và kiểm tra, giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp
luật, chính sách của Nhà nước có liên quan đến quyền lợi, đời sống của phụ nữ,
trẻ em nhằm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiệ bình đẳng và phát triển.
+ Hướng dẫn, giúp đỡ phụ nữ hiểu biết về nuôi dạy con, giữ gìn giá trị đạo
đức, truyền thống tốt đẹp của phụ nữ VN, tổ chức cuộc sống gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
+ Xây dựng, củng cố các cấp hội vững mạnh, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
hội, giới thiệu phụ nữ có đức, có tài tham gia vào các cơ quan lãnh đạo của
Đảng, chính quyền các cấp, …
+ Đoàn kết, hợp tác rộng rãi với phụ nữ các nước, các tổ chức và cá nhân
tiến bộ trong khu vực và trên thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
2. Nghiệp vụ công tác Hội Phụ nữ và vận động phụ nữ ở cơ sở:
2.3. Nghiệp vụ tổ chức Hội tham gia phát triển kinh tế, tạo việc làm
tăng thu nhập cho hội viên:
Báo cáo chính trị của Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu

chủ trương nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ.
Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp, chính sách đối với lao động nữ,
tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình, tham gia phát triển KTXH, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hội viên phụ nữ. Giải quyết việc làm, có cơ
chế, chính sách để tạo điều kiện cho phụ nữ tự tạo việc làm cho mình. Trong
15


chương trình tạo việc làm phải quan tâm đến đối tượng nữ, tránh phân biệt nam,
nữ. Tăng cường đào tạo nghề cho lao động nữ. Trả lương cho lao động nữ phải
bình đẳng với nam giới. Chăm lo cải thiện điều kiện lao động, bố trí, sử dụng
lực lượng nữ phù hợp với đặc điểm của phụ nữ, đưa khoa học-kỹ thuật-công
nghệ vào sản xuất, giảm cường độ lao động cho phụ nữ. Đối với cán bộ khoa
học nữ, tạo điều kiện về mọi mặt để họ tham gia vào việc nghiêm cứu khoa học,
vừa nâng cao trình độ chuyên môn vừa tăng thu nhập.
2.4. Nghiệp vụ vận động phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc:
Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, xây dựng người
phụ nữ VN có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có
lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu là những nội dung quan trọng trong công tác
phụ nữ.
Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, có trách nhiệm với gia
đình, xã hội; đấu tranh xóa bỏ các hủ tục tập quán lạc hậu, thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí; phòng chống có hiệu quả tệ nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ
em, bạo lực gia đình; nhăn ngừa tình trạng lấy chồng nước ngoài bất hợp pháp,
vì vụ lợi.
Xây dựng hệ thống chính sách cơ bản nhằm phát triển gia đình VN thời
kỳ CNH, HĐH theo tiêu chí “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Cần chú
trọng các lĩnh vực dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe, phòng
chống dịch bệnh và HIV/AIDS; bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em; phát triển các
dịch vụ hỗ trợ gia đình, cải thiện môi trường sống. Có chính sách thai sản đối

với phụ nữ nghèo không có chế độ bảo hiểm xã hội; chính sách phát triển nhà
trẻ, mẫu giáo; nâng cao kiến thức, kỹ năng nuôi dạy con cho các bà mẹ.
Phụ nữ gắn với gia đình và là trụ cột, “linh hồn” của mỗi gia đình. Gia
đình là điểm dựa, là cơ sở để phụ nữ lao động, học tập, cống hiến và hưởng thụ.
Gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc là ước mong lớn nhất, là điều
quan trọng nhất đối với phụ nữ. Để xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, trước hết người phụ nữ phải có nhận thức về chính trị, văn hóa, xã
hội cần thiết. Phụ nữ phải được học, được tuyên truyền, giải thích; phụ nữ cần
có việc làm, cần có thu nhập, cần có tay nghề, cần có sức khỏe, … Những yêu
cầu trên của phụ nữ chỉ có thể được đáp ứng khi bản thân mỗi chị em nỗ lực.
Đồng thời, phải có chế độ, chính sách cảu Đảng, Nhà nước, của các cấp, ngành,
các tổ chức kinh tế-văn hóa-xã hội, các đoàn thể quần chúng, gia đình, người
thân cùng phối hợp hành động và quan tâm thực sự.

16


II. KHOA MÁC - LÊNIN
VẤN ĐỀ 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT.
* Khái niệm Lực lượng sản xuất:
Là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất tạo ra
một sức sản xuất nhất định trong sản xuất vật chất.
LHTT với tỉnh đồng chí đang làm việc
- Người lao động:
+ Về trí lực: …
+ Về thể lực: …
+ Về phẩm chất: …
+ Về nhân cách: …
- Tư liệu sản xuất:

+ Công cụ lao động hiện đại chưa: …
+ Đối tượng lao động: …
+ Tư liệu lao động khác: …
* Khái niệm Quan hệ sản xuất:
Là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất. Quan hệ sản
xuất được cấu thành từ các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức
quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ phân phối sản phẩm lao động,
trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Quan hệ sản
xuất được hình thành một cách khách quan trên cơ sở một trình độ phát triển của
lự lượng sản xuất.
* Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất:
Đây là 1 quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của XH loài người.
Nội dung của quy luật được thể hiện trên ba điểm chủ yếu sau:
Biện chứng giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ khách quan, vốn có của
mọi quá trình sản xuất vật chất. Hay nói cách khác, để tiến hành sản xuất vật
chất con người phải thực hiện mối quan hệ “đôi”, quan hệ “kép”, quan hệ song
trùng này. Thiếu 1 trong 2 quan hệ đó, quá trình sản uất vật chất không được
thực hiện.
Trong quá trình xây dựng CNXH trước đây ở nhiều nước, trong đó có cả
nước ta do nóng vội, chủ quan duy ý chí đã sớm thiết lập 1 nền kinh tế thuần
nhất dưới 2 hình thức sở hữu tư liệu sản xuất (sở hữu tập thể và sở hữu nhà
nước), nên đã để lãng phí rất nhiều năng lực sản xuất trong nước và trên thế giới
(do không có những quan hệ sản xuất tương ứng).
17


Trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai trò quyết định.
Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều hướng
tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và

phát triển của LLSX, trước hết là công cụ lao động. Do đó, trong 1 phương thức
sản xuất, LLSX bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Hay nói cách khác, QHSX
phải phù hợp với trình độ của LLSX.
Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là 1 trạng thái mà
trong đó QHSX là “hình thức phát triển” tất yếu của LLSX. Nghĩa là trạng thái
mà ở đó QHSX, các yếu tố cấu thành của nó “tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX
phát triển.
Như vậy, trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của QHSX đạt tới thích ứng
với trình độ phát triển của LLSX, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết
hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Sự phù hợp đó biểu hiện rõ rệt ra kết quả
LLSX phát triển, kinh tế phát triển, phát huy được mọi năng lực sản xuất và
năng suất lao động cao.
Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp
biện chứng, sự phù hợp bao hàm mâu thuẫn. Đây là sự phù hợp giữa 1 yếu tố
động (LLSX luôn luôn biến đổi) với 1 yếu tố mang tính ổn định tương đối hơn
(QHSX ổn định hơn, ít biến đổi hơn). QHSX từ chỗ thích ứng với sự phát triển
của LLSX, nhưng do LLSX luôn luôn biến đổi, phát triển, lại trở thành xiềng
xích, kìm hãm sự phát triển của LLSX (không phù hợp). Con người phát hiện
những yếu tố dẫn đến không phù hợp, tức là phát hiện mâu thuẫn và giải quyết
mâu thuẫn đó đem lại sự thích ứng mới của QHSX với LLSX. Sự vận động và
phát triển của sản xuất xã hội cứ tiếp diễn theo tiến trình đó.
Cho nên sự phù hợp – không phù hợp – phù hợp là biểu hiện khách quan
của quá trình tương tác giữa LLSX và QHSX của mọi phương thức sản xuất
trong lịch sử.
Trước đây, trong cải tạo và xây dựng nền kinh tế mới ở các nước XHCN
chúng ta đã nhận thức về sự phù hợp của QHSX với LLSX 1 cách chủ quan,
giản đơn, máy móc, cứng nhắc. Đó là những quan niệm cho rằng nền sản xuất
TBCN luôn diễn ra sự không phù hợp giữa QHSX với LLSX, vì ở đó QHSX
được xây dựng trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Còn nền
sản xuất XHCN thường xuyên có sự phù hợp của QHSX đối với LLSX, vì ở đây

QHSX được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất. Cả
2 quan niệm trên đều trái với phép biện chứng khách quan của LLSX và QHSX.
CNTB, CNXH đều tồn tại khách quan về sự phù hợp này. Nghĩa là trong CNTB
hay trong CNXH, nền sản xuất vật chất của xã hội đều chứa đựng từ trong nó
mâu thuẫn của sự phù hợp - không phù hợp – phù hợp … như là yếu tố nội sinh.
Vấn đề là ở chỗ, nhân tố chủ quan có phát hiện kịp thời và giải quyết 1 cách có
hiệu quả mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX hay không.
Giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX cũng không phải chỉ bằng
cách duy nhất là xoá bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới. Giải quyết mâu thuẫn
18


giữa LLSX và QHSX là 1 quá trình, mà biện pháp thường xuyên là đổi mới, cải
cách điều chỉnh QHSX trước mỗi sự phát triển của trình độ LLSX. Dĩ nhiên cải
cách, điều chỉnh QHSX bao giờ cũng có giới hạn của nó. Khi mâu thuẫn giữa
QHSX và LLSX đã trở nên gay gắt không thể giải quyết thông qua biện pháp cải
cách, điều chỉnh được nữa, thì tất yếu phải xoá bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX
mới cho phù hợp với sự phát triển của LLSX.
Thực tiễn lịch sử xã hội loài người đã chứng tỏ điều đó. Ngày nay, nền sản
xuất TBCN đã tạo ra 1 ra LLSX đồ sộ, tính chất xã hội hoá ngày cành cao, dẫn
đến mâu thuẫn ngày càng gây gắt với QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân
TBCN về tư liệu san xuất. Mâu thuẫn đó đang đòi hỏi phải được giải quyết bằng
biện pháp cách mạng. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà mâu thuẩn đó chưa
bùng nổ bằng 1 cuộc cách mạng. Biện pháp mà các nước tư bản đang cố giải
quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là cải cách, điều chỉnh QHSX tạo ra sự
thích nghi nhất định. Biện pháp đó trước mắt vẫn tạo ra được tiềm năng để phát
triển kinh tế. Tuy nhiên, như thực tế đã chỉ ra, biện pháp đó không giải quyết
được triệt để mâu thuẫn. Xu hướng của sự phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến việc
phải sử dụng biện pháp cách mạng, xoá bỏ QHSX TBCN, thiết lập QHSX mới
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.

Dưới CNXH, sự phù hợp và không phù hợp … của QHSX với LLSX cũng
tồn tại khách quan, bên trong của nền sản xuất vật chất như là yếu tố nội sinh
của sự phát triển. Chính vì thế, CNXH cũng phải thường xuyên phát hiện mâu
thuẫn và giải quyết mâu thuẫn 1 cách có hiệu quả tạo ra sự phù hợp của QHSX
với trình độ phát triển LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển, kinh tế phát triển.
- Sự tác động trở lại của QHSX đối với sự phát triển của LLSX.
QHSX được xây dựng trên cơ sở trình độ phát triển của LLSX, do LLSX
quyết định. Nhưng sau khi được xác lập nó có sự tác động trở lại sự phát triển
của LLSX.
QHSX quy định mục đích của sản xuất, quy định tổ chức, quản lý sản xuất
và tác động trực tiếp vào lợi ích của các bên tham gia sản xuất, lợi ích của người
lao động, của chủ đầu tư, của xã hội, từ đó hình thành hệ thống những yếu tố
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX, nó sẽ tạo địa bàn cho
sự phát triển LLSX, trở thành 1 trong những động lực thúc đẩy LLSX phát triển.
Ngược lại, không phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại cả LLSX.
Tác động theo chiều hướng tiêu cực của QHSX đối với sự phát triển
LLSX chỉ có ý nghĩa tương đối. QHSX không phù hợp với LLSX sớm muộn gì
cuối cùng cũng được chỉnh sửa, điều chỉnh hoặc thay thế bằng 1 QHSX phù
hợp. Đó là xu thế tất yếu của sự phát triển sản xuất, sự phát triển kinh tế, mà
không 1 giai cấp nào, 1 chủ thể nào có thể cưỡng lại được.
HTKTXH là 1 phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thang nhất định, với 1 kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng thiết lập trên trình độ nhất định của lực lượng sản
19


xuất và với 1 kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất đó.
HTKTXH là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, nhưng có 3
mặt cơ bản là quan hệ sản xuất, lực lượng sx và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt

này có vị trí riêng, nhưng tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Trong
đó, lực lượng sx là cái nền giữ vai trò quyết định quan hệ sản xuất và là nền
tảng vật chất, kỹ thuật của mỗi HTKTXH. Các quan hệ sản xuất là cái khung
sườn tạo thành cơ sở hạ tầng của HTKTXH, nó quyết định kiến trúc thượng tầng
và các quan hệ XH khác. Quan hệ sản xuất thống trị là tiêu chuẩn khách quan, là
dấu hiệu cơ bản để phân biệt HTKTXH này với HTKTXH khác. Kiến trúc
thượng tầng là da thịt của xã hội do cơ sở hạ tầng sinh ra và quy định nhưng nó
có nhiệm vụ bảo vệ, duy trì, phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Sự phát triển của các HTKTXH là do những quy luạt vốn có của bản thân
nó, đó là sự phát triển của việc sx vật chất, nền tảng của sự tồn tại, vận động,
phát triển của các HTKTXH. Hay nói cách khác sự phát triển của HTKTXH là
do llsx quyết định dẫn đến sự thay đổi quan hệ sản xuất, sự thay đổi quan hệ sx
sẽ dẫn đến sự thay đổi về KTTT.
Xã hội chúng ta đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, cùng
với một giai đoạn của sự phát triển là một HTKTXH. Đứng trên lập trường duy
vật lịch sử chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định: “sự phát triển của các
HTKTXH là quá trình lịch sử, tự nhiên”. Khẳng định đó dựa trên những căn cứ:
Một là, sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại, vận động và
phát triển các hình thái kinh tê-xã hội.
Con người làm ra lịch sử của mình , tạo ra các quan hệ xã hội của mình
nhưng kg pải một cách chủ quan tùy tiện mà trên nền tảng sản xuất vật chất
trong nước và trên thế giới. Hay nói cách khác, con người kg được tự do lựa
chọn hình thái kinh tế - xã hội của mình. Con người được lựa chọn hình thái này
hay hình thái khác nhưng trên cơ sở nền tảng sản xuất vật chất trong nước và
trên thế giới.
Hai là, sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, sự chuyển
biến từ hình thái này sang hình thái khác bị chi phối bởi các qui luật khách quan.
Các hình thái kinh tế xã hội như những nấc thang của quá trình lịch sử. Sự
vận động, phát triển của chịu sự tác động, chi phối của các quy luật xã hội trong
đó quy luật về sự phù hợp của quan hệ sx với trình độ phát triển của llsx, biện

chứng giữa CSHT và KTTT là những quy luật cơ bản nhất.

20


VẤN ĐỀ 2: HÌNH THÁI KTXH LÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ
NHIÊN
* Khái niệm Hình thái KTXH:
Là 1 phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thang nhất định, với 1 kiểu QHSX
đặc trưng thiết lập trên trình độ nhất định của LLSX và với 1 kiểu kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những QHSX đó.
Theo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin, có 5 hình thái KTXH trong lịch sử
là: hình thái công xã nguyên thủy, hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thái phong
kiến, hình thái TBCN, hình thái XHCN. Do đó, có thể nói sự phát triển các hình
thái KTXH là một quá trình lịch sử-tự nhiên.
Xã hội phát triển phải trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, cùng với một
giai đoạn của sự phát triển là một hình thái KTXH. Đứng trên lập trường duy vật
lịch sử chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định “sự phát triển của những hình thái
KTXH là quá trình lịch sử, tự nhiên”. Khẳng định đó dựa trên những căn cứ sau:
Một là, sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại, vận động và
phát triển các hình thái KTXH.
Con người làm ra lịch sử của mình , tạo ra các quan hệ xã hội của mình,
nhưng không phải một cách chủ quan tùy tiện mà trên nền tảng sản xuất vật chất
trong nước và trên thế giới. Hay nói cách khác, con người không được tự do lựa
chọn hình thái KTXH của mình. Con người được lựa chọn hình thái này hay
hình thái khác nhưng trên cơ sở nền tảng sản xuất vật chất trong nước và trên thế
giới.
Hai là, sự vận động, phát triển của các hình thái KTXH, sự chuyển biến từ
hình thái này sang hình thái khác bị chi phối bởi các quy luật khách quan.
Quy luật xã hội là quy luật hoạt động có ý thức, có mục đích của con

người, nhưng tồn tại và tác động một cách khách quan độ lập với ý thức và
mong muốn của con người. Con người không thể sáng tạo ra quy luật, cũng
không thể xóa bỏ quy luật mỗi khi vật mang quy luật còn tồn tại. Vai trò của con
người là nhận thức và vận dụng quy luật khách quan.
Sự vận động, phát triển các hình thái KTXH chịu sự chi phối của các quy
luật xã hội trong đó quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển
của LLSX, biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến thúc thượng tầng là những quy
luật cơ bản nhất.
Loài người đã trải qua năm hình thái KTXH theo trật tự từ thấp đến cao.
Đó là quá trình phát triển tuần tự của sự phát triển lịch sử. Song đối với mỗi
nước cụ thể do điều kiện lịch sử khách quan có thể “bỏ qua” những giai đoạn
lịch sử nhất định, “bỏ qua” 1 hoặc vài hình thái KTXH. Nhân loại đã chứng kiến
nhiều nước do điều kiện lịch sử của mình đã bỏ qua một, hai hình thái KTXH
nào đó tiến lên giai đoạn lịch sử cao hơn dưới hình thức này hay hình thức khác.
21


Quá trình phát triển “bỏ qua” đó cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Cũng do nền tảng sản xuất vật chất quy định và phải tuân theo các quy luật
khách quan.

22


VẤN ĐỀ 3: VAI TRÒ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ.
* Khái niệm sở hữu:
Sở hữu tư liệu sản xuất là hình thức nhất định được hình thành trong lịch
sử về việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải được làm ra.
Sở hữu chính là quan hệ giữa người về việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và
cảu cải làm ra từ việc sử dụng những tư liệu sản xuất đó. Sở hữu có thể được thể

hiện ở các loại hình khái quát nhau như: công hữu nguyên thủy, tư hữu ở các
mức độ khác nhau, hay công hữu dưới nhiều mức độ khác nhau.
* Vai trò sở hữu:
Sở hữu là một trong 3 mặt thể hiện QHSX xã hội.
Quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất được gọi là QHSX.
QHSX thể hiện trên 3 mặt chủ yếu: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ
tổ chức quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm. Trong đó, quan hệ sở hữu tư liệu
sản xuất quy định mục đích của sản xuất, hình thức tổ chức sản xuất, phương
thức quản lý, phân phối sản phẩm; quyết định cơ cấu giai tầng, giai cấp. Giai cấp
nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu thì cũng nắm quyền phân phối
sản phẩm xã hội. Giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các giá trị
vật chất thì giai cấp đó cũng nắm quyền thống trị đời sống tinh thần của xã hội.
Quá độ lên CNXH là quá trình tiến tới một chế độ xã hội mới với nền
kinh tế phát triển có lực lượng sản xuất hiện đại dựa trên nền tảng của chế độ
công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chế độ công hữu là cơ sở của
CNXH. Vì vậy, hình thành từng bước chế độ sở hữu công cộng (công hữu) là
nhiệm vụ tất yếu của suốt thời kỳ quá độ.
Sở hữu vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển của LLSX, là
hình thức xã hội có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm LLSX. Muốn nhận biết và
phân biệt sự giống và khác nhau của các giai đoạn lịch sử xã hội thì không thể
bỏ qua nhận thức về sở hữu, phải truy nguyên mọi hiện tượng KTXH về cái gốc
là quan hệ sở hữu. Tuy vậy, mỗi loại hình, hình thức sở hữu chưa thể mất đi khi
chúng còn phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, và cũng không thể tùy tiện
dựng lên, hoặc thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất không đòi hỏi. Do vậy, khi
định hướng quá độ lên CNH, HĐH phải tính đến sự biến đổi phức tạp từ QHSX,
trong đó trực tiếp là chế độ tư hữu. Khi nói thủ tiêu chế độ tư hữu là một cacsh
nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội, việc cải tạo
này là kết quả tất yếu của sự phát triển LLSX. Cho nên, những người cộng sản
hoàn toàn đúng khi đề ra việc thủ tiêu chế độ tư hữu thành yêu cầu chủ yếu của
mình để hướng tới xây dựng chế độ mới, tiến bộ trong tương lai của nhân loại.

Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ tư hữu nói
chung, mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản. Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ
của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm của xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản
chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.
Sở hữu của người tiểu sản xuất, của người tiểu nông, là do chính sự tiến bộ của
23


công nghiệp trong xã hội TBCN đã xóa bỏ và hàng ngày, vẫn tiếp tục xóa bỏ cái
đó.
Quan niệm của Mác-Lênin muốn thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công
hữu là nhằm tạo ra sự liên hiệp chung của tất cả mọi thành viên trong xã hội
nhằm mục đích cùng nhau khai thác LLSX một cách có thể thỏa mãn nhu cầu
cảu mọi người. Song để có được điều đó, phải trải qua một quá trình phát triển
lâu dài và phức tạp của nền sản xuất xã hội.
Đã có lúc người ta hiểu xóa bỏ tư hữu có thế ngay lập tức và cũng là xóa
một trong hai điều kiện phát sinh và tồn tại của quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Sự
thực, quan hệ hàng tiền đã và vẫn tiếp tục tồn tại cả trước và sau sự hiện diện
của chế độ tư hữu. Về sau, chính Ăngghen đã nói tới sự cần thiết phải xóa bỏ tư
hữu một cách từ từ. Đối với tư hữu nhỏ lại càng hết sức thận trọng.
Sự phát triển của LLSX là tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết để cải biến
chế độ tư hữu, “vì không có nó thì tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ
biến; mà với sự thiếu thốn tột độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để
dành những cái cần thiết, thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng sự ti
tiện trước đây”.
Vì vậy, không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được, cũng y như
thể không làm cho LLSX hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây
dựng nền kinh tế công hữu một cách tuyệt đối tràn lan. Chỉ có thể cải tạo xã hội
hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư
liệu sản xuất cần cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu.

Ngay cả quan hệ sở hữu TBCN cũng không ngừng biến đổi, trong điều
kiện của chủ nghĩa đế quốc đã có những bước nhảy vọt về LLSX: tích tụ, tập
trung tư bản thúc đẩy tập trung sản xuất dẫn tới tư bản độc quyền. Tiếp theo đó
là sự hình thành tư bản tài chính, bọn đầu sỏ tài chính. Sự thống trị của các tổ
chức độc quyền, sự mở rộng thống trị ra phạm vi quốc tế, hình thành các công ty
xuyên quốc gia, đa quốc gia, chia nhau khu vực ảnh hưởng kinh tế cũng như
phân chia về mặt lãnh thổ thế giới … tất cả đã tạo nên sự thay đổi cục bộ về
QHSX TBCN mà cơ sở là sở hữu tư nhân TBCN. Quan hệ sở hữu được xã hội
hóa ngày càng cao, xã hội hóa sở hữu đến mức: quốc tế hóa sở hữu và quanr lý
đã đi trước quốc tế hóa sản xuất. Và do đó, bọn đầu sỏ tài chính quốc tế tham
vọng thống trị kinh tế, chính trị trong nước cũng như ngoài nước.
Tổng kết có tính lý luận – thực tiễn những thập kỹ qua của thế giới đương
đại cho thấy có thể xây dựng chế độ công hữu XHCN mà không cần và không
thể không xóa ngay quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Trái lại, phải sử dụng quan hệ đó
làm phương thức quản lý các doanh nghiệp kể cả quản lý đối với chính ngay
doanh nghiệp nhà nước. Ở đây thực sự đòi hỏi phải biết tổ chức “hạch toán kinh
tế” và vận dụng quy luật giá trị để vận hành toàn bộ nền kinh tế trên cơ sở phân
tích sâu sắc sự vận động phức tạp của quan hệ sở hữu.

24


Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Lê nin đx chỉ ra sự tồn tại khách quan
lâu dài của các thành phần kinh tế, các loại hình sở hữu, phải sử dụng ngay cả sở
hữu tư nhân TBCN để xây dựng CNXH.
Cải biến tư hữu nhỏ phải là quá trình lâu dài, kiên trì trên nguyên tắc “tự
nguyện”. Đây là vấn đề cốt lõi để đưa nông dân lao động đi lên CNXH.

25



×