Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Giáo dục kỹ năng ứng phó với hành vi xâm hại thân thể cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.26 KB, 7 trang )

KHOA HỌC XÃ HỘI

Giáo dục KỸ NĂNG ỨNG PHÓ
VỚI HÀNH VI XÂM HẠI THÂN THỂ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Bùi Thị Loan
Trường Đại học Hùng Vương

Nhận bài ngày 5/11/2017, Phản biện xong ngày 27/12/2017, Duyệt đăng ngày 28/12/2017

TÓM TẮT

L

ựa chọn phối hợp các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, điều tra,
quan sát, thống kê toán học, bài viết tập trung làm rõ thực trạng kỹ năng ứng phó
với hành vi xâm hại thân thể cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Phú Thọ; xác
định một số yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng ứng phó của các em. Từ đó, bài viết đề
xuất một số biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng ứng phó cho học sinh tiểu học, giúp
các em vượt qua những thách thức, trở ngại, rủi ro trong cuộc sống, biết cách ứng phó
với những tình huống có thể khiến bản thân gặp nguy hiểm.
Từ khóa: Kỹ năng ứng phó, xâm hại thân thể, học sinh tiểu học

1.Đặt vấn đề

Thế giới bên ngoài luôn ẩn chứa những
cạm bẫy, nguy hiểm với các em lứa tuổi học
sinh tiểu học (HSTH) và mỗi khi các em rời
xa tầm tay của cha mẹ, của những người thân
yêu, họ lại thường lo lắng và tìm cách ngăn
cấm con trước những nguy cơ rủi ro nhưng
lại không giải thích cho trẻ vì sao và hậu quả


có thể xảy ra như thế nào? [3]. Do đó, nếu
trẻ em không có những kiến thức cần thiết
để nhận diện và biết cách lựa chọn cách ứng
phó tích cực để vượt qua những thách thức
mà hành động theo cảm tính thì rất dễ gặp
trở ngại, rủi ro trong cuộc sống. Vì vậy, giáo
dục kỹ năng ứng phó với hành vi xâm hại
thân thể cho HSTH được coi là một vấn đề
cấp bách.

Kỹ năng ứng phó với hành vi xâm hại
thân thể ở HSTH là khả năng các em vận
dụng tri thức, vốn kinh nghiệm đã có để
ứng phó những nguy hiểm từ hành động
của người khác nhằm tránh gây tổn thương
về cơ sở giải phẫu và hoạt động sinh lý, đảm
bảo cho thân thể được an toàn, khỏe mạnh
và phát triển đầy đủ [5].
Biểu hiện của kỹ năng ứng phó với hành
vi xâm hại thân thể ở HSTH [5]:
•Ứng phó với hành vi xâm hại tình dục
hoặc hành vi bạo lực từ người khác:
Khi bị người khác đánh hoặc trấn lột,
bị đe dọa, bỏ đói, bắt lao động quá
sức hoặc bị người khác cố tình sờ
mó vào cơ quan sinh dục, bị người
khác bắt khỏa thân để họ thỏa mãn
Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017  3



KHOA HỌC XÃ HỘI

mục đích của mình như chụp hình,
nhìn, sờ… [5].
•Biết ứng phó với những tình huống
như: Người lạ rủ đi chơi, cho quà bánh,
người lạ yêu cầu mở cửa khi ở nhà một
mình, người lạ yêu cầu cung cấp thông
tin của gia đình qua điện thoại lúc ở
nhà một mình [5].
•Ứng phó với những nguy hiểm xảy ra
từ hành động của bản thân: Leo trèo,
chơi, với tay ở ban công, chơi ở những
nơi vắng vẻ như ao hồ, sông suối…
•Ứng phó với các nguy hiểm từ môi trường
xung quanh: Nước, lửa, dao kéo, các vật
dụng dễ vỡ, hóa chất, vật nuôi [2]…

2.Đối tượng và phương pháp
nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện trên 120 học
sinh (HS), 18 giáo viên (GV), 25 phụ huynh
học sinh (PHHS) thuộc các trường trên địa
bàn thị xã Phú Thọ: Trường tiểu học Hùng
Vương, Trường tiểu học Lê Đồng, Trường
tiểu học Phong Châu, Trường tiểu học
Trường Thịnh. Thời gian khảo sát từ ngày
12/9/2017 đến 15/11/2017.
Để có được kết quả nghiên cứu khách

quan, chúng tôi sử dụng phối hợp các
phương pháp như: phân tích, tổng hợp, điều
tra, quan sát, thống kê toán học, nghiên cứu
trường hợp điển hình. Có 3 mức độ đánh giá
kỹ năng ứng phó với hành vi xâm hại thân
thể của HSTH là Yếu, Trung bình và Tốt.
Mức “Yếu” được đánh giá bằng điểm trung
bình (ĐTB) thấp nhất là 1 và mức “Tốt” có
ĐTB cao nhất là 3. Điểm càng cao thì mức
độ biểu hiện kỹ năng ứng phó với hành vi
xâm hại thân thể của HSTH càng tốt (mức
Tốt: 2,41–3 điểm; mức Trung bình: 1,71–2,4
điểm; mức Yếu: 1–1,7 điểm).
4  Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017

3.Những kết quả đạt được của
nghiên cứu thực trạng

Qua Bảng 1 cho thấy: Kỹ năng ứng phó
với hành vi xâm hại thân thể của HSTH tại
thị xã Phú Thọ nhìn chung là còn thấp, chưa
thể hiện được sự thành thục và linh hoạt.
Cụ thể: Khả năng ứng phó với những tình
huống có thể khiến bản thân gặp nguy hiểm
trong mối tương tác với người khác đạt mức
độ thấp với mức điểm trung bình là 1.61.
Khả năng ứng phó với những nguy hiểm
từ môi trường và các vật dụng xung quanh
đạt mức độ thấp với mức điểm trung bình
là 1.54.

Lý do có thể dễ dàng giải thích như sau:
Việc nhận diện những nguy hiểm với bản
thân đã khó, việc ứng phó trong những tình
huống nhất định gây xâm hại thân thể lại
càng khó hơn. Điều này đòi hỏi trẻ không chỉ
có kiến thức về việc ứng phó mà trẻ còn cần
phải có những trải nghiệm trong cuộc sống
thì kỹ năng mới thành thục và linh hoạt.
Khả năng ứng phó với hành vi xâm hại
tình dục hoặc hành vi bạo lực từ người khác
đạt mức độ thấp nhất với mức điểm trung
bình là 1.36. Những bài tập để khảo sát kỹ
năng này ở học sinh tiểu học, đa phần được
lấy từ các câu chuyện thực tế, qua các ví dụ
điển hình cho nên tính thực tiễn rất cao.
Chẳng hạn:
Tình huống: Chiều ngày 30.6.2012, Phú
rủ cháu D 6 tuổi là hàng xóm, qua phòng trọ
của mình chơi. Tại đây, Phú thực hiện hành
vi xâm hại với cháu như sờ mó vào ngực,
mông và bộ phận sinh dục của cháu... Xong
việc, Phú cho cháu 5.000 đồng tiền mua kẹo
và dặn cháu D: Không được nói với ai, nếu
không chú sẽ đánh chết [1].
Câu hỏi: Nhận xét về hành động của bạn
nhỏ trong câu chuyện.


KHOA HỌC XÃ HỘI
Bảng 1. Đánh giá kỹ năng ứng phó với hành vi xâm hại thân thể của học sinh tiểu học tại Thị xã Phú Thọ

Kỹ năng
Ứng phó với những tình huống có thể
khiến bản thân gặp nguy hiểm trong mối
tương tác với người khác.

Mức độ
Tốt
Trung bình
Kém
X

Ứng phó với những nguy hiểm từ môi
trường và các vật dụng xung quanh.

Tốt
Trung bình
Kém

Ứng phó với hành vi xâm hại tình dục
hoặc hành vi bạo lực từ người khác.

Tốt
Trung bình
Kém

X

X

Nếu là bạn nhỏ trong câu chuyện em sẽ

làm gì, em có dám kể lại chuyện với người
khác: Bố mẹ, bạn bè, anh em không?
Nhiều học sinh tiểu học đã trả lời: Em sẽ
không dám nói với cha mẹ vì sợ bị chú đánh.
Thực tế đã có nhiều trường hợp trẻ bị xâm hại
tình dục nhiều lần nhưng do sợ không dám
nói với người lớn. Chính vì hiện tượng tâm lý
này, khi cha mẹ phát hiện tình trạng của con
thì trẻ cũng đã bị xâm hại nhiều lần rồi.
Khi trao đổi phỏng vấn với đa số các phụ
huynh về tình huống này và hỏi họ đã bao
giờ hướng dẫn con cách xử lý tình huống
tương tự như trên chưa thì đa số phụ huynh
thừa nhận, chưa bao giờ trò chuyện và
hướng dẫn con. HSTH cần phải được giáo
dục rằng: Cho dù người khác dụ dỗ, cho
mình những món quà, đồ ăn, thức uống mà
mình yêu thích, thậm chí cho mình tiền thì
cũng không được đồng ý cho người ta thực
hiện những hành vi xâm hại như bạn nhỏ
trong câu chuyện. Nếu người khác có thực
hiện hành vi trên với mình thì cần kể lại cho
cha mẹ biết ngay.
Mặt khác, ngay kể cả giáo viên tiểu học
ở những trường khảo sát, khi chúng tôi trò
chuyện nhằm tìm hiểu thực tế giảng dạy kỹ

Tính đầy đủ
(%)
42.7

56.6
2.7
1.58
34.1
56.7
10.2
1.75
53.3
36.0
10
1.46

Tiêu chí
Tính thành
Tính linh
thạo (%)
hoạt (%)
31.1
53.7
65.2
43.3
3.7
3.0
1.73
1.49
42.7
52.4
56.7
45.1
0.6

2.4
1.58
1.50
65.9
61.0
34.1
39.0
0
0
1.34
1.39

Đánh giá
chung
X = 1.60
Mức độ thấp

X = 1.61
Mức độ thấp

X = 1,39
Mức độ thấp

năng phòng chống xâm hại tình dục cho học
sinh tiểu học thì nhiều giáo viên còn thấy e
ngại, không biết dùng từ ngữ thích hợp để
giải thích cho trẻ. Họ cho rằng, đây là những
vấn đề nhạy cảm rất khó dạy cho trẻ.

3.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng

ứng phó với hành vi xâm hại thân thể cho
HSTH
■■ Yếu tố ảnh hưởng từ gia đình:

Có 25.2% PHHS thừa nhận là ít khi cho
con có cơ hội trải nghiệm cuộc sống: cha mẹ
hạn chế không cho trẻ chơi với bạn bè hoặc
tham gia các hoạt động ngoài trời vì sợ con
bị bắt nạt, bị nhiễm các thói quen xấu từ bạn.
Có 25.1% PHHS có suy nghĩ sai lầm:
HSTH còn nhỏ nên luôn cần được cha mẹ
ở bên cạnh bảo vệ. Những tai nạn xảy ra với
các em còn chưa nhiều nên chưa cần dạy
trẻ kỹ năng ứng phó với hành vi xâm hại
thân thể.
Có 10.6% PHHS khẳng định: Cách ứng
xử chưa đúng của cha mẹ khi bản thân gặp
những tình huống thiếu an toàn, nguy hiểm
khiến trẻ bắt chước. Một PHHS chia sẻ là
đã rất bất ngờ và cả hoảng sợ khi nhìn thấy
hành động lấy mũi dao nhọn để gãi ngứa sau
Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017  5


KHOA HỌC XÃ HỘI

lưng của cậu con trai lớp 3 của mình. Khi
mắng cháu thì cháu nói rằng: “Hôm trước
con cũng thấy bố làm như vậy. Tại sao con
làm giống như bố mà lại bị mẹ mắng?”. Từ

câu chuyện trên cho thấy, việc bắt chước của
trẻ diễn ra tự phát và vô thức. Do vậy, cha
mẹ, thầy cô cần chú ý tới từng hành động
của bản thân để trẻ noi theo.
Có 19.6% PHHS cho rằng: Cha mẹ ít dành
thời gian cho con cũng như chưa tận dụng
những tình huống thực tế trong cuộc sống
của trẻ trên các phương tiện truyền thông
và tham khảo sách, truyện… để giáo dục kỹ
năng giữ an toàn thân thể cho con.
Có 15.5% PHHS cho rằng: Cha mẹ thiếu
phương pháp giáo dục kỹ năng ứng phó
với hành vi xâm hại thân thể ở HSTH. Họ
thường ngăn cản gay gắt con trước những
rủi ro mà không giải thích nguyên nhân,
hoặc cha mẹ thường làm thay khi trẻ gặp
những tình huống khó khăn…
■■ Yếu tố ảnh hưởng từ nhà trường:
Bảng 2 cho thấy: Bản thân học sinh chưa
tích cực rèn kỹ năng ứng phó hành vi xâm
hại thân thể. Đây là nguyên nhân chiếm vị
trí quan trọng nhất.

Đứng ở vị trí thứ 2, giáo viên chưa được
tập huấn nhiều về phương pháp giáo dục kỹ
năng ứng phó với hành vi xâm hại thân thể
ở HSTH.
Đứng ở vị trí thứ 3, nội dung giáo dục kỹ
năng ứng phó với hành vi xâm hại thân thể
ở HSTH cho trẻ còn ít và chưa có quy định

thống nhất về nội dung giáo dục kỹ năng này
trong trường tiểu học.
Ngoài ra theo các giáo viên, còn một số
nguyên nhân khác: Thời gian dành cho việc
giáo dục kỹ năng ứng phó với hành vi xâm
hại thân thể ở HSTH trong chương trình
còn ít. Giáo viên chưa thực sự chủ động
trong việc xây dựng nội dung kế hoạch giảng
dạy, còn ngại chưa đưa một số bài mới vào
chương trình.
Khi chúng tôi đặt câu hỏi về việc nhà
trường có tổ chức tuyên truyền cho học sinh
thường xuyên không, tất cả giáo viên được
hỏi đều có chung quan điểm: Nhà trường
có tổ chức tuyên truyền nhưng cũng không
thường xuyên, chủ yếu là chỉ tổ chức vào một
dịp lễ nào đó có lồng ghép nội dung này.
Như vậy, có thể khẳng định: Nhận thức
không đầy đủ chính là nguyên nhân sâu xa

Bảng 2. Những yếu tố ảnh hưởng (từ phía nhà trường) đến giáo dục kỹ năng phòng chống xâm hại tình
dục cho học sinh tiểu học
Yếu tố ảnh hưởng
• Nội dung giáo dục kỹ năng ứng phó hành vi xâm hại thân thể cho học sinh tiểu học còn
nghèo nàn. Một số nội dung liên quan còn e dè chưa đưa vào chương trình dạy
học sinh.
• Lý luận về giáo dục kỹ năng ứng phó hành vi xâm hại thân thể của học sinh tiểu học
còn hạn chế, tài liệu khan hiếm.
• Bản thân học sinh chưa tích cực rèn kỹ năng ứng phó hành vi xâm hại thân thể.
• Giáo viên chưa được tập huấn về phương pháp giáo dục kỹ năng ứng phó hành vi xâm

hại thân thể của học sinh tiểu học.
• Cơ sở vật chất, phòng học còn thiếu thốn, trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho các hoạt
động còn hạn chế.
• Thiếu sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong giáo dục kỹ năng ứng phó hành vi
xâm hại thân thể của học sinh tiểu học.
• Các yếu tố khác.

6  Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017

Mức độ thực hiện
Số lượng
%
10
55.6
7

38.9

15
12

83.3
66.7

8

44.4

9


50

3

16,7


KHOA HỌC XÃ HỘI

dẫn đến kỹ năng ứng phó hành vi xâm hại
thân thể cho HSTH còn hạn chế. Từ cách
nhìn nhận này có thể thấy, công tác tuyên
truyền, nâng cao nhận thức cho các em còn
hạn chế; tiếp đó là do yếu tố chủ quan từ
chính các em – đang còn ở lứa tuổi tiểu học
với đặc điểm nổi bật trong đời sống tâm lý là
sống bằng cảm xúc, dễ tin người. Đây cũng
chính là khoảng trống để đối tượng xấu lợi
dụng thực hiện hành vi xâm hại đối với trẻ.

3.2.Một số biện pháp giáo dục kỹ năng
ứng phó với hành vi xâm hại thân thể cho
HSTH trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Biện pháp 1: Tạo cơ hội cho trẻ tương
tác, được trải nghiệm nhằm rèn luyện kỹ
năng ứng phó với hành vi xâm hại thân thể
cho HSTH.
■■ Ý nghĩa:
Để giáo dục và hình thành ứng phó hành
vi xâm hại thân thể cho học sinh tiểu học thì

điều quan trọng nhất là phải luôn tạo cơ hội
để trẻ được thực hành, luyện tập các hành vi
thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi; có như vậy,
trẻ mới hình thành nên kỹ năng một cách
bền vững.
Kỹ năng này được hình thành thông qua
tương tác với người lớn, với bạn cùng học.
Trong khi tương tác, trẻ được thể hiện các
ý tưởng của mình, được trải nghiệm, được
đánh giá, xem xét về những kinh nghiệm mà
mình đã có trước đây. Hơn nữa, việc tổ chức
cho trẻ trải nghiệm những tình huống thực tế
sẽ vừa tạo hứng thú cho trẻ, đồng thời nhiều
kinh nghiệm quý báu được hình thành, kể cả
khi trẻ chưa thực hiện đúng trong quá trình
thao tác.
■■ Cách tiến hành:
Việc tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm có thể
được tiến hành thông qua việc xây dựng các

tình huống và tổ chức các hoạt động phù
hợp, cũng có thể được thực hiện bằng cách
cho trẻ trực tiếp quan sát trong thực tế.
Trong cuốn sách “Học qua trải nghiệm”,
David Kolb đã mô tả việc học là một quá
trình gồm bốn bước. Các bước này là:
(1) Quan sát, (2) Suy nghĩ (tâm trí), (3) Cảm
nhận (cảm xúc), (4) Hành động (cơ bắp).
■■ Điều kiện vận dụng:
•Giáo viên phải tin tưởng vào trẻ và

năng lực của trẻ.
•Giáo viên tạo các hoạt động, cơ hội để
trẻ được trải nghiệm, thực hành mọi
lúc mọi nơi qua các hoạt động ở trường
mầm non: giờ học, hoạt động vui chơi,
hoạt động ngoài trời, khi đi tham quan
ngoại khóa…
Biện pháp 2: Xây dựng và đưa nội dung
giáo dục kỹ năng ứng phó hành vi xâm hại
thân thể cho HSTH một cách toàn diện hơn
theo hướng tích hợp với các hoạt động dạy,
hoạt động vui chơi và các hoạt động khác.
■■ Ý nghĩa:
Việc giáo dục kỹ năng ứng phó hành vi
xâm hại thân thể cho HSTH theo hướng
tích hợp với các hoạt động dạy, vui chơi và
các hoạt động khác là quan điểm hiện đại,
không những phù hợp với tâm lý trẻ mà còn
phù hợp với xu hướng giáo dục của thế giới
hiện nay, góp phần nâng cao hiệu quả chất
lượng giáo dục kỹ năng này.
■■ Cách tiến hành:
•Xây dựng mục tiêu tích hợp nội dung
giáo dục kỹ năng ứng phó hành vi xâm
hại thân thể cho HSTH. Ví dụ, trong
chủ đề về “Bản thân”, chúng ta có thể
giáo dục giới tính và tích hợp giáo dục
kỹ năng ứng phó hành vi xâm hại thân
thể cho HSTH.
Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017  7



KHOA HỌC XÃ HỘI

+ Rà soát toàn bộ chương trình giáo
dục tiểu học, xem xét nội dung nào
có thể lồng ghép nội dung kỹ năng tự
bảo vệ cho trẻ. Tùy vào những chủ đề
theo tuần, tháng, học kỳ mà GV lựa
chọn những kỹ năng sống phù hợp
để giáo dục cho trẻ. Ví dụ trong chủ
đề về “Bản thân” chúng ta có thể giáo
dục giới tính và kỹ năng phòng chống
bắt cóc.
+ Xây dựng mục tiêu của từng nội
dung và của kỹ năng ứng phó hành vi
xâm hại thân thể cho HSTH cần đạt
được về kiến thức, kỹ năng, thái độ.
+ Xác định các mức độ cần đạt được
dựa vào các tiêu chí và mức độ của
từng kỹ năng.
•Xây dựng kế hoạch bài học theo hướng
lồng ghép giáo dục kỹ năng ứng phó
hành vi xâm hại thân thể cho HSTH:
+ Xây dựng nội dung bài học.
+ Xác định phương pháp.
+ Thiết kế các hoạt động phù hợp.
■■ Điều kiện vận dụng:
•GV phải nắm chắc về chương trình
giáo dục mầm non 2017.

•Biết những nội dung cần thiết của kỹ
năng ứng phó hành vi xâm hại thân
thể cho HSTH.
•Những nội dung của kỹ năng phải
được lồng ghép ứng phó hành vi xâm
hại thân thể cho HSTH một cách khéo
léo, linh hoạt, mềm dẻo theo chủ đề.
Ngoài ra, còn 1 số biện pháp giáo dục
kỹ năng ứng phó hành vi xâm hại thân thể
cho HSTH:
■■ Tích cực đẩy mạnh công tác tuyên
truyền về đấu tranh phòng chống tệ nạn xã
hội nói chung và phòng chống xâm hại tình
8  Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017

dục nói riêng không chỉ trong gia đình, nhà
trường mà trong toàn xã hội: Cần mở rộng
đối tượng tuyên truyền, không chỉ cán bộ
phụ nữ, người làm công tác bảo vệ và chăm
sóc trẻ em mà cả các bậc phụ huynh. Việc tổ
chức tuyên truyền cần lan rộng trong nhân
dân, tập trung nhiều hơn cho các xã, bản,
huyện vùng sâu, miền núi – nơi nhận thức
của người dân còn hạn chế và đây chính
là kẽ hở để đối tượng xấu có nhiều cơ hội
để đưa trẻ vào tình huống nguy hiểm, có
nguy cơ bị xâm hại. Đối với người phạm
tội, cần xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng
pháp luật, kiên quyết đấu tranh không để
lọt tội phạm.

■■ Phát huy vai trò của cha mẹ và GV chủ
nhiệm trong việc quan tâm, chăm sóc và theo
dõi những bất thường ở HSTH:
•Dạy cho các em 3 quy tắc động chạm
dành cho các bộ phận tế nhị:
1) Nếu các con tự chạm vào những bộ
phận trên cơ thể mình thì đó là điều
bình thường;
2) Sẽ là không bình thường nếu con
chạm vào những bộ phận tế nhị trên
cơ thể người khác;
3) Không để cho người khác chạm vào
những vùng tế nhị của con (ngoại trừ
bác sĩ, y tá khi con đi khám bệnh).
•Làm rõ các quy tắc: Hãy dạy cho các
con hiểu rằng, nếu người lớn có những
hành động động chạm, xâm hại đến
những vùng trên cơ thể con thì đó là
điều không bình thường và trái với
các quy tắc thông thường. Cho các con
hiểu rằng cơ thể các con là của riêng
các con và nếu có bất kì ai chạm vào
nó làm con cảm thấy khó chịu thì con
hoàn toàn có thể nói “không”.


KHOA HỌC XÃ HỘI

4.Kết luận


Xâm hại thân thể trẻ em là một trong
những vấn nạn đang có chiều hướng gia
tăng phức tạp, đặc biệt ở các vùng nông thôn,
miền núi. HSTH khi bị xâm hại thường phải
đối diện với nguy cơ của sự phát triển không
bình thường về tâm lý, xấu hổ, mặc cảm. Để
phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng xâm hại
thân thể trẻ em, cần có sự chung tay và phối
hợp chặt chẽ của cả gia đình, nhà trường,
xã hội và bản thân trẻ trong việc trang bị
kiến thức; định hướng thái độ và rèn luyện
kỹ năng ứng phó cho HSTH trước nguy cơ
bị xâm hại thân thể, giúp các em nâng cao
khả năng tự bảo vệ bản thân. Bởi như nhà
giáo dục học Dorothy đã nói: “Cây giáo dục
chỉ đơm hoa thơm và kết trái ngọt khi có
sự chăm sóc và vun xới của nhà trường, gia
đình và xã hội”.

Tài liệu tham khảo
[1]  Bạch Băng (2011), Tuyển tập những câu
chuyện vàng về khả năng tự bảo vệ mình,
NXB Kim Đồng.
[2]  Liêm Chinh (2004), Dạy con kỹ năng sống,
NXB Phụ nữ.
[3]  Huyền Linh (2011), Cẩm nang tự vệ an toàn
(trong nhà), NXB Thanh niên.
[4]  Cù Thị Thúy Lan, Dương Minh Hào (2009),
Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh tránh
xa những cám dỗ nguy hiểm, NXB Giáo dục

Việt Nam.
[5]  Mai Hiền Lê (2014), Kỹ năng giữ an toàn
thân thể của trẻ mẫu giáo 5–6 tuổi, Luận án
Tiến sĩ tâm lý học, Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam.
[6]  Mai Xuân Phương (2007), Trẻ em bị xâm hại
tình dục những điều cần biết, Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch – Tổng cục Du lịch.

SUMMARY
Sexual assault, physical abuse prevention and education
for primary school children

Bui Thi Loan
Hung Vuong University

B

ased on a combination of selected research methods, such as analysis, synthesis,
investigation, observation, mathematical statistics, this survey was conducted in
some areas of Phu Tho town to gather information on how primary school students
are trained about child sexual abuse prevention, and to find key factors that affect on
their readiness. Moreover, the paper proposed some measures to improve the coping
skills of primary students to help them overcome the challenges, obstacles, risks in
life; as well as to handle dangerous situations.
Keywords: the coping skills, physical abuse, primary school students

Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017  9




×