Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Luanvan THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH cải CÁCH HÀNH CHÍNH tại HUYỆN sìn hồ, TỈNH LAI CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.39 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TỐNG MẠNH HÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH TẠI HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ N1ỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TỐNG MẠNH HÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH TẠI HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số

: 8340402

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. VŨ TUẤN HƯNG



HÀ NỘI, 2018
2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam thì cải cách hành chính được cho là một trong những nội
dung quan trọng nhất, là khâu đột phá chiến lược của Đảng và Nhà nước.
Hoạt động cải cách hành chính hướng đến xây dựng một nền hành chính gọn
nhẹ, năng động và hiệu quả nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu của hộ nhập kinh tế
quốc tế.
Chúng ta luôn xác định rõ cải cách hành chính được xem là mục tiêu
hàng đầu khi xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh,
chuyên nghiệp, lấy dân làm gốc nhằm thúc đẩy đất nước nhanh chóng hội
nhập khu vực và thế giới. Sau hơn 30 năm của công cuộc đổi mới toàn diện về
mọi mặt, mọi lĩnh vực của đất nước thì nền kinh tế của Việt Nam đã có những
bước tiến vượt bậc với những đóng góp quan trọng của cải cách hành chính.
Cải cách hành chính là điều kiện cần trong việc đẩy nhanh sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Sìn Hồ là huyện vùng cao biên giới của tỉnh Lai Châu, nằm cách thành
phố Lai Châu khoảng 60 km về phía Tây. Thực hiện Nghị quyết 30c/NQ-CP
ngày 08/11/2011 về việc ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 của Chính phủ và Quyết định 1331/QĐUBND tỉnh phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nước Lai Châu 2016
- 2020, thì trong việc thực hiện chính sách cải cách hành chính ở huyện Sìn
Hồ, đã đạt được những kết quả nhất định: Bộ máy tổ chức hành chính của
huyện đã được tinh gọi, hoạt động một cửa đã được áp dụng và nhận được
những phản hồi tích cực của người dân… Những kết quả đạt được trong cải
cách hành chính đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện Sìn Hồ

chuyển biến, tăng trưởng, phát triển mạnh. Đặc biệt theo Quyết định số
3


502/QĐ-UBND ngày 22/5/2018 của UBND tỉnh Lai Châu về việc công bố kế
quả thực hiện công tác cải cách hành chính (Chỉ số cải cách hành chính) năm
2017 của các sở, ban, ngành tỉnh; UBND các huyện, thành phố trên địa bàn
tỉnh Lai Châu thì chỉ số này của huyện Sìn Hồ là 81,13%, xếp loại khá và
đứng thứ 6 trong các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Tuy nhiên, kết quả thực hiện chính sách cải cách hành chính trên địa
bàn huyện Sìn Hồ chưa đáp ứng được sự thay đổi liên tục của kinh tế - xã hội
của huyện, một số nội dung chưa đạt được hiệu quả đề ra. Quá trình tổ chức
thực hiện chính sách cải cách hành chính trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai
Châu còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc
thực hiện các mục tiêu chính sách như cơ sở vật chất và đội ngũ công chức,
viên chức vừa thiếu vừa yếu, sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan chưa
chặt chẽ, một số thủ tục còn rườm rà, quá trình triển khai, thể chế hóa chủ
trương thiếu đồng bộ, chưa có đột phá mang tính nổi bật… Từ những lý do
nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách cải cách hành chính
tại huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính
sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cải cách hành chính, chính sách cải cách hành chính và quá trình thực
hiện chính sách cải cải cách hành chính được nhiều tác giả, nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu tìm hiểu, ở nhiều góc độ và phương diện khác nhau: Đề
tài đã tìm hiều và nghiên cứu một số công trình chủ yếu sau:
Tác giả nêu ra một số công trình tiêu biểu như sau: “Cải cách hành
chính nhà nước - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của tác giả Thang
Văn Phúc[24], Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001; “Thủ tục hành chính;
Lý luận và thực tiễn”của tác giả Nguyễn Văn Thâm (Chủ biên), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội 2002[30]; “Hành chính nhà nước”tác giả Nguyễn Hữu
4


Khiển - Phạm Văn Hùng, Nxb Đại học sư phạm TP HCM, 2006[23]; “Đổi
mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam” Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa,
(đồng chủ biên), Nxb Thống kê 2006[2]; “Đánh giá kết quả của cải cách
hành chính và các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước
ta” tác giả Đào Trí Úc, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội 2007[36]; “Cải cách
hành chính nhà nước ở Việt Nam từ góc nhìn của các nhà khoa học” Học viện
Hành chính Quốc gia, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Lao động 2011[20].
Bên cạnh những tài liệu trên, vấn đề cải cách hành chính còn được đề
cập trong một số bài nghiên cứu, báo cáo như:
Tác giả Phạm Minh Hùng (2016), “Kết quả thực hiện Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và phương
hướng đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước trong thời gian tới” [21]. Đề
tài đã đưa ra những nhận định, đánh giá về thực hiện chương trình cải cách
hành chính nhà nước trong giai đoạn 2011-2015. Những thành công, hạn chế
đã đươc tác giả phân tích và tìm ra nguyên nhân, qua đó đề xuất các phương
hướng, kiến nghị nhằm đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện cải cách hành
chính Nhà nước giai đoạn 2016 – 2020. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu phân
tích quá trình thực hiện cải cách hành chính tại một địa phương nào cụ thể mà
chỉ đánh giá tổng thể chương trình cải cách hành chính của quốc gia.
Tác giả Đỗ Phú Hải (2014), Về chính sách công hiện nay ở nước ta,
[14], tác giả bài viết đã có những phân tích đánh giá về chính sách công và
thực hiện các chính sách công tại nước ta trên cơ sở các khái niệm, đặc điểm
của nền hành chính công của Việt Nam. Các hạn chế trong việc thực hiện
chính sách công được tác giả đưa ra, phần nào gợi mở cho người đọc phương
hướng hoàn thiện chính sách công trong lĩnh vực của mình đang thực hiện.
Tuy nhiên, tác giả mới dừng lại ở khái luận về chính sách công trong bối cảnh

5


hiện nay của Việt Nam mà chưa đi sâu nghiên cứu được nhiều ở một số chính
sách công cụ thể như chính sách cải cách hành chính.
Tác giả Trần Văn Tuấn (2009), Tiếp tục thực hiện chương trình tổng
thể cải cách hành chính trong tình hình hiện nay, [26], tác giả bài viết đã đánh
giá đúng thực trạng của hành chính nước ta trong giai đoạn trước đó và đây là
cơ sở quan trọng giúp người đọc nhìn nhận rõ hơn về Chương trình cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020.
Các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu nghiên cứu lý luận và thực
tiễn cải cách hành chính trên bình diện rộng, hoặc nghiên cứu chính sách cải
cách hành chính ở một cấp, lĩnh vực, địa phương khác nhau và chưa có đề tài
nào nghiên cứu việc thực hiện cải cách hành chính tại các địa phương cụ thể
như cấp huyện, cấp xã như tại huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Bên cạnh đó, việc
thực hiện Chương trình quốc gia về cải cách hành chính liên tục có sự cập
nhật với những quy định và kinh nghiệm từ các địa phương, kết hợp với đặc
thù là huyện miền núi với nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống thì việc
nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện chính sách cải cách hành chính trên địa
bàn huyện Sìn Hồ có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn và rất cần thiết
trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài khái quát chung một số vấn đề về thực hiện chính sách cải cách
hành chính. Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
thực hiện chính sách cải cách hành chính tại huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để
từ đó đề xuất, đưa ra những giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách cải cách hành chính tại huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


6


Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến cải cách hành
chính trên địa bàn huyện
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách cải cách hành
chính tại huyện huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
- Đề xuất kiến nghị và góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách cải cách hành chính tại huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là chính sách cải cách hành chính và tổ chức thực hiện chính sách cải
cách hành chính từ thực tiễn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách cải cách hành
chính tại UBND huyện và các xã, thị trấn trên địa bàn huyện từ năm 2011 đến
nay. Từ hoạt động thực tiễn cải cách hành chính để từ đó có những kiến nghị,
đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cải cách hành chính tại huyện Sìn
Hồ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng phương pháp luận của
củ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách cải cách hành chính.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp thống kê và so sánh.

7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về cải cách hành chính
tại một địa phương cấp huyện của tỉnh miềm núi Tây Bắc.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đề xuất được các giải pháp khả thi góp phần thực hiện tốt
chính sách cải cách hành chính trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và
có thể triển khai áp dụng rộng rãi tại các địa phương khác của tỉnh Lai Châu
và cả nước. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm đến lĩnh vực chính sách công và cho các cơ sở
đào tạo về chính sách công.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Khái luận về thực hiện chính sách cải cách hành chính
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách CCHC tại huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách CCHC tại huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.

8


Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Chính sách công
Khái niệm chính sách đã được nhiều tác giả đưa ra theo các quan điểm
khác nhau. Theo tác giả James Aderson: chính sách là một quá trình hành
động có mục đích được theo đuổi bởi một hay nhiều chủ thể trong việc giải
quyết các vấn đề mà họ quan tâm. Chính sách là chương trình hành động do
các nhà lãnh đạo hay các nhà quản lý đề ra để quản lý một vấn đề nào đó
thuộc phạm vị thẩm quyền của mình [22, tr.12].
Theo Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách của Học viện Hành
chính (2008) thì chính sách được hiểu là những hành động ứng xử của chủ thể
với các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục
đích tiêu chuẩn nhất định [19, tr.47].
Theo William Jenkins, “chính sách công là một tập hợp các quyết định
có liên quan với nhau được ban hành bởi một nhà hoạt động chính trị hoặc
một nhóm các nhà hoạt động chính trị liên quan đến lựa chọn các mục tiêu và
các phương tiện để đạt mục tiêu trong một tình huống cụ thể thuộc phạm vi
thẩm quyền của họ” [37, tr.6].
Theo tác giả Nguyễn Duy Gia (1998) thì Chính sách công được hiểu là
một tập hợp các quyết định hành động của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề
đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định [11, tr.7].
Tóm lại chính sách công có các thuộc tính căn bản như: tính nhà nước,
tính công cộng, tính hành động thực tiễn, tính hệ thống, tính kế thừa lịch sử và

9


gắn với một quốc gia cụ thể với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội nhất định. Đây là nhận thức bước đầu về chính sách công theo hướng tiếp
cận của khoa học tổ chức nhà nước.
1.1.2. Chính sách cải cách hành chính
Nghiên cứu về chính sách cải cách hành chính đã nhận được nhiều sự

quan tâm của các tác giả, có quan niệm cho rằng cải cách hành chính là sự cải
tổ và điều chỉnh cơ cấu tổ chức do đó dẫn đến sự thay đổi về chức năng,
phương thức quản lý và cơ cấu nhân viên. Có tác giả cho rằng cải cách hành
chính có tính cộng đồng xã hội nhất định khi thúc đẩy khoa học hoá sự quản
lý công việc của toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước và phải phục tùng nhu
cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội [27].
Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của từng thời kỳ khác nhau,
mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi đất nước, mà hoạt
động cải cải cách hành chính có những nhiệm vụ chủ chốt khác nhau. Trên cơ
sở đó triển khai các nội dung về cải cách hành chính như thủ tục hành chính,
hiện đại hóa nền hành chính hay ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách
hành chính…
Từ đó, khái niệm chính sách cải cách hành chính là: “là một tập hợp
các quyết định có liên quan của Đảng và Nhà nước, qua đó lựa chọn và thực
hiện các mục tiêu cụ thể của hoạt động này và hệ thống các công cụ chính
sách để giải quyết các vấn đề của nền hành chính theo mục tiêu tổng thể đã
được xác định ban đầu”.
1.1.3. Thực hiện chính sách cải cách hành chính
Sau khi chính sách cải cách hành chính được hoạch định và ban hành
chính sách đó cần được thực thi trong cuộc sống. Các cơ quan nhà nước,
trước hết bộ máy hành chính là chủ thể chủ yếu hoạch định chính
10


sách cải cách hành chính, cũng đồng thời là chủ thể tổ chức thực thi chính
sách đó [23].
Thực hiện chính sách cải cách hành chính bao gồm thực hiện chính
sách ở các khía cạnh cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; cải
cách thủ tục hành chính; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; cải
cách tài chính công; hiện đại hóa hành chính.

1.2. Sự cần thiết thực hiện chính sách cải cách hành chính
Việt Nam đang hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và
hoạt động cải cách hành chính là nội dung quan trọng và nằm trong khuôn
khổ của định hướng này và những lý do chủ yếu dẫn đến sự cần thiết phát
thúc đẩy nhanh chóng thực hiện chính sách cải cách hành chính là:
Thứ nhất, quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung
sang kinh tế thị trường định hướng XHCN: Cải cách hành chính hướng tới
việc nâng cao khả năng hoạt động của bộ máy hành chính để giúp cho quá
trình quản lý xã hội của Nhà nước được tốt hơn, trước hết là quản lý nền kinh
tế, định hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước.
Nhà nước cần thúc đẩy quá trình cải cách hành chính nhằm tạo bước đệm
trong phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Đặc
biệt, Nhà nước cần có những giải pháp nhằm điều chỉnh, bổ sung và làm rõ
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính trong việc thực hiện chức
năng quản lý nhà nước trong giai đoạn tới.
Thứ hai, nền hành chính Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập thể hiện
trên các mặt: chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý nhà nước của bộ máy
hành chính còn cồng kềnh, chưa xác định rõ nhiệm vụ của các bộ phận, tình
trạng chồng chéo vẫn còn xảy ra; phương thức quản lý hành chính còn quan
liêu chưa thúc đẩy được sự tự chủ trong hoạt động tài chính của các đơn vị;
11


đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về năng lực chuyên môn, tình
trạng trái ngành vẫn còn xảy ra…
Thứ ba, quá trình toàn cầu hóa, đặc biệt trong cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 khiến cho các quốc gia trở nên gần nhau hơn, có mối quan hệ chặt
chẽ hơn với sự phụ thuộc nhiều hơn ở các lĩnh vực khác nhau. Các cơ hội và
thách thức đang đan xen với nhau tác động đến tất cả các quốc gia, thúc đẩy
bộ máy quản lý nhà nước và hành chính phải vận động nhanh nhạy hơn để

tăng cường khả năng cạnh tranh trong quá trình hợp tác và phân công lao
động quốc tế. Để làm được những điều trên, thể chế chính sách và hệ thống
luật pháp của Việt Nam cần phải tiệm cận với thế giới qua đó thúc đẩy nhanh
quá trình hội nhập về kinh tế và xã hội của đất nước.

Thứ tư, cuộc cách mạng kỹ thuật - công nghệ trên thế giới có ảnh
hưởng không nhỏ tới mọi mặt của đời sống xã hôi, trong đó có hoạt động
quản lý hành chính nhà nước. Những tác động này đặt ra cho nền hành chính
truyền thống của Việt Nam nhiều thách thức và cần phải thay đổi với những
bước tiến mới trong việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hành
chính sự nghiệp.
Thứ năm, những yêu cầu và đòi hỏi đặt ra đối với nền hành chính Nhà
nước của các tổ chức và nhân dân. Khi nền kinh tế có sự phát triển nhất định
thì đời sống về vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao và nhận
thức của người dân cũng được nâng lên. Nhân dân đã hiểu được vai trò làm
chủ đất nước của mình và trách nhiệm của họ với đất nước nên họ cần sự
minh bạch, rõ ràng và dân chủ trong hành chính.
1.3. Mục đích và yêu cầu của việc thực hiện chính sách cải cách hành
chính
12


1.3.1. Mục đích
Trong quá trình phát triển của mình, mọi quốc gia trên thế giới đều
hướng đến thúc đẩy hoạt động cải cách hành chính. Hoạt động cải cách hành
chính Nhà nước về bản chất là tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của bộ
máy hành chính Nhà nước đối với các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước hết, hoạt động này cần tạo ra môi trường nhằm thúc đẩy quá trình phát
triển của đất nước trong lĩnh vực kinh tế, đầu tư. Thành công của công cuộc
đổi mới đất nước là làm cho đời sống của nhân dân không ngừng được cải

thiện và nâng cao, đồng thời duy trì được mục tiêu tiến lên XHCN. Trong
công cuộc đổi mới của đất nước thì hoạt động cải cách hành chính nhà nước
đã trở thành một trong những đòi hỏi cần thiết và khách quan của sự phát triển
đất nước trong thời kỳ mới với những yêu cầu mới. Qua đó, tầm quan trọng
của hoạt động cải cách hành chính nhà nước với tư cách là một bộ phận không
thể tách rời và là mắt xích quan trọng tạo nên sự thành công của công cuộc
đổi mới và cải cách kinh tế - xã hội đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đã xác
định khi xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì cải cách hành chính là nội
dung trọng tâm của công cuộc đổi mới và cải cách Nhà nước.
1.3.2. Yêu cầu
Thứ nhất, yếu tố tiên quyết để dẫn đến thành công của việc thực hiện
chính sách cải cách hành chính là cần phải có sự chỉ đạo xuyên suốt, quyết
liệt, kiên trì và quyết tâm của tất cả các cấp chính quyền.
Thứ hai, cần có kế hoạch thống nhất từ Trung ương đến địa phương
trong việc thực hiện chính sách cải cách hành chính.
Thứ ba, các công tác theo dõi, kiểm tra giám sát cần được thực hiện
một cách thường xuyên, liên tục với sự đa dạng về hình thức và phương pháp
kiểm tra. Đặc biệt, đối với các đơn vị còn yếu kém, nhiều sai sót thì cần được
13


quan tâm hơn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hành chính cũng như hiệu quả
thực hiện các giải pháp tăng cường cải cách hành chính.
Thứ tư, bên cạnh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thì để hoạt động
cải cách hành chính được triển khai sâu, rông và có hiệu quả cần phải sự quan
tâm hơn nữa của chính quyền các cấp và quần chúng nhân dân; cần có đòn
bẩy để tăng cường công tác này thông qua việc đầu tư cơ sở hạ tầng, năng lực
cán bộ thực hiện…
Thứ năm, trong việc thực hiện chính sách cải cách hành chính, cần phải
xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm cần ưu tiên thực hiện trước trong sự thống

nhất đối với các nhiệm vụ khác. Cần có các tiêu chí phù hợp thúc đẩy quá
trình thực hiện chính sách cải cách hành chính.
Thứ sáu, quy chế dân chủ ở cơ sở là một trong những điểm quan trọng
nhất của cải cách hành chính qua đó phát huy sức mạnh tập thể, tạo sự đồng
thuận cao trong thực hiên, kiểm tra và đấu tranh với các biểu hiện, hành vi
tiêu cực… nhằm thúc đẩy hơn nữa sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Đề làm
được điều đó, cần có những hội nghị trực tuyến, hội nghị thường xuyên nhằm
tuyên truyền, phổ biến các kế hoạch, chương trình, nội dung hoạt động cải
cách hành chính nhà nước ở địa phương một cách minh bạch, rõ ràng.
Thứ bảy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, đặc biệt là các cơ
quan thông tin đại chúng nhằm tuyên truyền hiệu quả, kịp thời và chính xác
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về các chính sách cải cách hành
chính.
Thứ tám, cải cách hành chính có thể ví như công cuộc cách mạng trong
lĩnh vực hành chính sự nghiệp. Các cán bộ, công chức và người lao động cần
phải có những kiến thức chuyên sâu, tư duy, quan điểm, lập trường, kinh

14


nghiệm thực tiễn thì cần phải thực sự có tâm, có tầm, có ý chí để thực hiện các
mục tiêu và nhiệm vụ của công tác cải cách hành chính.
1.4. Các bước thực hiện chính sách cải cách hành chính
1.4.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách cải cách hành chính
Để đưa chính sách công nói chung và chính sách thực hiện cải cách
hành chính nói riêng đi vào thực tế cuộc sống cần phải xây dựng Kế hoạch
triển khai thực hiện chính sách. Hiệu quả thực hiện chính sách cải cách hành
chính chính phụ thuộc rất nhiều vào tính chính xác, tính khả thi của bản kế
hoạch thực hiện chính sách được đề ra ban đầu.
Kế hoạch cải cách hành chính phải bám sát theo lộ trình và từng giai

đoạn cụ thể để thực hiện hiệu quả nhất khi Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản, có từng giai đoạn cụ thể trong hoạt động cải cách hành chính. Ở từng giai
đoạn khác nhau thì kế hoạch cải cách hành chính có những điều kiện thực
hiện khác nhau nhưng vẫn có những nội dung cơ bản sau: Cải cách thể chế;
Cải cách tổ chức bộ máy; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tài chính
công; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, viên chức; Hiện đại
hóa nền hành chính.
Các đơn vị, cơ quan thực hiện cải cách hành chính cần phải giao nhiệm
vụ cụ thể, rõ ràng đến từng CBCC, viên chức trong cơ quan mình và có cơ
chế khen thưởng những tập thể, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ và hình thức
kỷ luật với những cơ quan, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Việc lập kế hoạch tốt làm cho việc thực thi dễ dàng, hiệu quả, khả thi để đạt
kết quả tốt nhất.
1.4.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách cải cách hành chính

15


Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách cải cách hành chính của
Đảng và Chính phủ đề ra là một nội dung hoạt động quan trọng trong thực
hiện chính sách cải cách hành chính. Việc phổ biến, tuyên truyền cải cách
hành chính giúp cán bộ, công chức, viên chức làm nhiệm vụ cải cách hành
chính nắm được tổng thể chương trình cải cách hành chính, với Nhân dân sẽ
năm bắt được những ưu điểm và điểm mới của cải cách hành chính qua từng
giai đoạn thực tế.
Để cán bộ và Nhân dân hiểu rõ được tầm quan trọng của cải cách hành
chính thì cần phải phổ biến và tuyên truyền về thực hiện cải cách hành chính
qua đó nhằm thay đổi dần những tư tưởng lạc hậu, cố chấp gây cản trở quá
trình cải cách hành chính trước đây.
Tuyên truyền trên hệ thống thông tin đại chúng như truyền hình, đài

phat thanh…là các biện pháp hiệu quả về phổ biến và tuyên truyền về thực
hiện cải cách hành chính. Ở các địa phương, cơ sở thì tuyên truyền bằng các
áp phích, khẩu hiệu, băng rôn trên các trục đường chính, hệ thống phát thanh
huyện, xã… nhằm tuyên truyền đến từng Đảng viên và nhân dân tại các chi bộ
để họ nắm được chương trình cải cách hành chính của nhà nước. Các ban
ngành đoàn thể như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Cựu chiến
binh tuyên truyền đến từng hội viên của mình về các nội dung và chủ trương
cải cách hành chính của Nhà nước.
1.4.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách cải cách hành chính
Việc phân công hợp lý và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các
cấp, các ngành trong thực hiện chính sách tạo ra hiệu quả cho việc thực hiện
chính sách cải cách hành chính. Cấp huyện lập Ban Chỉ đạo cải cách hành
chính do Chủ tịch UBND huyện làm Trưởng ban, Trưởng Phòng Nội vụ làm
Phó Ban thường trực và các thành viên đại diện Văn phòng Ủy ban,
16


Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Giáo dục, Phòng Y tế,
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra, phòng Tài chính - Kế hoạch,
phòng Tư pháp, Chi cục thuế, Bảo hiểm xã hội huyện... Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam huyện và các đoàn hội thành viên của Mặt trận huyện làm
thành viên.
Cấp xã lập Ban Chỉ đạo cải cách hành chính do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã trực tiếp điều hành chỉ đạo các cán bộ, công chức trong 7 chức danh
công chức tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo Nghị định số
09/2015/NĐ-CP về triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, cùng các đoàn thể ở xã.
Người dân và doanh nghiệp: có trách nhiệm giám sát, đánh giá việc
triển khai thực hiện công tác cải cách hành chính, nhất là cải cách hành chính
theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại, từ đó người dân có quyền

được hưởng lợi từ các chính sách liên quan đến chính sách cải cách hành
chính.
1.4.4. Duy trì, điều chỉnh chính sách cải cách hành chính
Duy trì chính sách cải cách hành chính là hoạt động cần thiết trong tổ
chức thực hiện chính sách, hoạt động này nhằm bảo đảm cho chính sách cải
cách hành chính tồn tại và phát huy được tác dụng trong môi trường thực tế.
Trong tổ chức thực hiện chính sách cải cách hành chính nếu gặp các khó khăn
do môi trường biến động các cơ quan nhà nước, các chủ thể tham gia tổ chức
thực hiện chính sách cần sử dụng các công cụ quản lý tác động tạo môi trường
thuận lợi cho việc thực hiện chính sách.
Đến một lúc nào đó, các yếu tố của nền hành chính nếu không có
những thay đổi, cải cách sẽ trở thành lực cản, làm cho hiệu lực, hiệu quả nền
hành chính nhà nước kém đi, đó là lúc nền hành chính cần phải được cải cách
17


một cách tổng thể hoặc cải cách một số yếu tố đang bất cập. Nhà nước ta đã
xác định việc thực hiện cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của cải
cách nhà nước nên việc đầu tư và chỉ đạo triển khai thực hiện xuyên suốt là
điều cần thiết để duy trì chính sách qua đó, cần duy trì thực hiện chính sách
cải cách hành chính trong thời gian dài và từng bước triển khai thực hiện rồi
đánh giá chính sách, đánh giá sát với thực tế, từ đó có sự điều chỉnh chính
sách trong thời gian tới để mang lại hiệu quả với những mục tiêu được xác
định ngay từ ban đầu ban hành chính sách. Hoạt động cải cách hành chính,
chung quy lại chỉ để làm sao cho nhà nước quản lý có hiệu quả mọi ngành,
mọi lĩnh vực, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
1.4.5. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách cải cách hành
chính
Thực hiện chính sách cải cách hành chính diễn ra trên phạm vi rộng lớn
với nhiều thành phần và đối tượng tham gia, các đối tượng này là các cơ quan

quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân ở các lĩnh vực khác nhau, có trình độ
chuyên môn, năng lực và kỹ năng cũng rất khác nhau, do đó các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải tiến hành theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
chính sách cải cách hành chính nhằm kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách,
chấn chỉnh tổ chức thực hiện chính sách để nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách.
Để thực hiện tốt 05 mục tiêu cải cách hành chính với các nội dung tập
trung vào cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách bộ máy, cải
cách đội ngũ cán bộ công nhân viên cải cách tài chính công, hiện đại hóa hành
chính. Chính phủ cần có những chỉ đạo quyết liệt, kết hợp với công tác kiểm
tra, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện cải cách hành chính tại các cấp từ trung
ương đến địa phương. Đặc biệt, thái độ và tinh thần phục nhân dân trong các

18


cơ quan quản lý nhà nước cần được thường xuyên theo dõi và kiểm tra, tránh
tình trạng quan liêu, tiêu cực trong thực hiện cải cách hành chính.
1.4.6. Tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách cải cách hành chính
Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách cải cách hành
chính là nội dung, nhiệm vụ cuối cùng nhưng rất quan trọng trong tổ chức
thực hiện chính sách. Chính phủ đã ban hành hướng dẫn kế hoạch tổ chức
đánh giá giữa kỳ thực hiện mục tiêu cải cách hành chính trong phạm vi cả
nước nhằm thực hiện việc đánh giá những kết quả đạt được so với tiến độ
thực hiện chương trình cải cách hành chính Nhà nước. Qua đánh giá, rút ra
những kiến nghị, đề xuất thực hiện mục tiêu đẩy mạnh cải cách hành chính,
nêu bật những hạn chế, tồn tại và thiếu sót, đưa ra bài học kinh nghiệm và
phương hướng, giải pháp trong chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách
trong thời gian tới, đưa công tác cải cách hành chính của cả nước đạt được
những kết quả tốt nhất, có hướng tiếp cận cải cách hành chính phù hợp và

hiệu quả hơn trong giai đoạn 2016 - 2020.
1.5. Nội dung của chính sách cải cách hành chính
Chương trình tổng thể cải cách hành chính của nước ta giai đoạn 2011 2020 đã đề ra những nhiệm vụ, nội dung chính bao gồm: Cải cách thể chế;
Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước;
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, viên chức; Cải cách tài
chính công; Hiện đại hóa hành chính.
1.5.1. Cải cách thể chế
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, sử đổi bổ sung năm 2013, hoàn thiện
hệ thống pháp luật trong mọi lĩnh vực của đất nước cụ thể: xây dựng và hoàn
thiện thể chế, chính sách gắn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo sự công bằng và khoảng cách thu nhập
19


của người dân; Các hoạt động xây dựng pháp luật cần tiếp tục được thực hiện
trên tinh thần đổi mới và hoàn thiên; Hoàn thiện các cơ chế về thành phần
kinh tế, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng cho mỗi thành phần kinh tế, thúc đẩy
sự phát triển của kinh tế tư nhân, nhưng lấy kinh tế Nhà nước và kinh tế tập
thể làm chủ đạo; Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức
và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; Bên cạnh đó, tiếp tục
hoàn thiện các thể chể, chính sách xã hội hóa trong các lĩnh vực mà trước đây
chủ yếu là Nhà nước đầu tư; xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về
mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân [8].
1.5.2. Cải cách thủ tục hành chính
Cải cách thủ tục hành chính nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các cơ
quan nhà nước với nhau và cơ quan nhà nước với công dân và tổ chức trong
xã hội theo hướng đơn giản, gọn nhẹ và công khai, minh bạch. Những nhiệm
vụ cụ thể đặt ra trong cải cách thủ tục hành chính giai đoạn 2011-2020 bao
gồm: Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh
vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân,

doanh nghiệp; thực hiện cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải thiện môi
trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát
triển nhanh, bền vững. Một số lĩnh vực trọng tâm cần tập trung là: Đầu tư; đất
đai; xây dựng; sở hữu nhà ở; thuế; hải quan; xuất khẩu, nhập khẩu; y tế; giáo
dục; lao động; bảo hiểm; khoa học, công nghệ và một số lĩnh vực khác do Thủ
tướng Chính phủ quyết định theo yêu cầu cải cách trong từng giai đoạn;
Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các
ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước; Kiểm soát
chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định của pháp

20


luật; Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức
thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ
chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà
nước; duy trì và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính; Đặt
yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với
doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức
và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia
về thủ tục hành chính; giảm mạnh các thủ tục hành chính hiện hành; công
khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực
hiện; Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy
định hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính
và giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà
nước các cấp [8].
1.5.3. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Lĩnh vực cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước hướng tới xây

dựng một bộ máy hành chính đơn giản, gọn nhẹ, vận hành thông suốt từ trung
ương tới cơ sở với chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà
nước và các cấp hành chính không chồng chéo, trùng lắp. Những nhiệm vụ cụ
thể đặt ra trong lĩnh vực này bao gồm:
Hệ thống cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương, đứng đầu
là Chính phủ - cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất cần được xác định rõ
hơn về chức năng, nhiệm vụ; việc phân công, phân cấp giữa Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
trách nhiệm của Chính phủ, trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành;
phân cấp Chính phủ với chính quyền địa phương phải “trên cơ sở tách chức

21


năng quản lý Nhà nước với hoạt động kinh doanh, xúc tiến việc đổi mới tổ
chức bộ máy, cơ chế hoạt động và quy chế làm việc của các cơ quan Nhà
nước…; phân cấp trong hệ thống hành chính đi đôi với nâng cao tính tập
trung thống nhất trong việc ban hành thể chế”. Cụ thể là:
Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung thực hiện chức năng xây
dựng, ban hành thể chế, kế hoạch chính sách quản lý vĩ mô đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện; Từng bước điều chỉnh
những công việc của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc
Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhiệm để khắc phục những chồng
chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ
chức phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những việc về dịch vụ công
không cần thiết phải do cơ quan hành chính Nhà nước trực tiếp thực hiện.
Chính phủ thực hiện việc “cung cấp các dịch vụ công” khi xét thấy không có
chủ thể nào trong xã hội đảm nhận được; Xây dựng các quy định mới về phân
cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng cao thẩm quyền và trách
nhiệm của chính quyền địa phương. Gắn phân cấp công việc với với phân cấp

về tài chính, tổ chức và cán bộ. Định rõ việc nào địa phương được quyền
quyết định, việc nào phải có ý kiến của Trung ương; Cơ cấu lại các bộ và bộ
máy làm việc của Chính phủ một cách khoa học có hiệu lực, hiệu quả, giảm
mạnh các cơ quan thuộc Chính phủ và tổ chức trực thuộc Thủ tướng Chính
phủ. Chỉ duy trì một số ít cơ quan thuộc Chính phủ có tính chất chuyên môn,
nghiệp vụ phục vụ cho công việc quản lý vĩ mô của Chính phủ. Cải cách bộ
máy chính quyền địa phương (gồm HĐND và UBND các cấp) trên cơ sở xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền ở đô thị với chính quyền ở nông
thôn; sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp theo tinh thần
gọn nhẹ, tăng tính chuyên nghiệp cho các cơ quan loại này. Đồng thời, cần có
những văn bản pháp lý có giá trị cao quy định các tiêu chí cụ thể đối với từng
22


loại hình đơn vị hành chính ở nước ta để đi đến ổn định, chấm dứt tình trạng
chia tách nhiều như thời gian qua. Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm
việc của cơ quan hành chính các cấp, loại bỏ những việc làm hình thức, không
có hiệu quả thiết thực, giảm hội họp, giấy tờ hành chính. Từng bước hiện đại
hoá nền hành chính, triển khai và áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính Nhà nước, phấn đấu “tăng
cường đầu tư để đến năm 2020, các cơ quan hành chính có trang thiết bị
tương đối hiện đại, cơ quan hành chính cấp xã trong cả nước có trụ sở và
phương tiện làm việc bảo đảm nhiệm vụ quản lý; mạng tin học diện rộng
được thiết lập tới xã”. Đây cũng là bước khởi đầu cho quá trình xây dựng
“Chính phủ điện tử” ở Việt Nam trong tương lai không xa. [8].
1.5.4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên
chức
Chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là yếu tố cơ bản,
quyết định tới hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước nói riêng và cả bộ máy hành chính nhà nước nói riêng. Do đó, đây là

một trong những nội dung được chú trọng nhất trong tiến trình cải cách hành
chính ở nước ta. Những nhiệm vụ chủ yếu đặt ra trong giai đoạn 2011-2020
trong lĩnh vực này bao gồm:
Phấn đấu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số
lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân
dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; Xây dựng được đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có
năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thông qua các
hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả; Hoàn thiện hệ thống các
quy định pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức,

23


viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý; Xây dựng cơ cấu cán
bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm; Hoàn thiện quy định
của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ,
năng lực, sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế độ
thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm
vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung
ương), giám đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống; Hoàn thiện
quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở
kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn
những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với
nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức
tương ứng với trách nhiệm và có chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp
luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên
chức; Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng
dẫn tập sự trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức,

viên chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi
dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng
hàng năm; Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương,
chế độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương
của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc
sống của cán bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong
xã hội. Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công
vụ của cán bộ, công chức, viên chức [8].
1.5.5. Cải cách tài chính công
Tiếp tục hoàn thiện chính sách về thuế, tiền lương, tiền công; thực hiện
cân đối ngân sách tích cực; tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối
24


với doanh nghiệp nhà nước; Huy động, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách
cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số
lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất
lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục
tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; tăng đầu tư, đồng thời
đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, y tế,
dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao; Đổi mới căn bản cơ chế sử
dụng kinh phí nhà nước; phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ,
các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ chính
sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và
công nghệ. Đổi mới phương thức quản lý tài chính công bằng cách vừa tiếp
thu, duy trì phương thức truyền thống là giao, giám sát, kiểm tra, báo cáo và
tổng kết, vừa phải chú trọng xây dựng giải pháp bổ sung: tự chịu trách nhiệm.
Khi ấy cơ quan hành chính Nhà nước và công chức sẽ phải tiết kiệm, phải chủ
động, phải hạch toán, phải suy nghĩ để có được một tổ chức tinh gọn và hiệu

quả..Mạnh dạn và cương quyết đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính.
Phân cấp phải đi liền với phân quyền, nếu phân cấp mà không phân quyền thì
phân cấp cũng như không. Vì vậy, phân cấp, phân quyền quản lý tài chính cho
địa phương, cho cơ sở để địa phương, cấp dưới phát huy tính chủ động, sáng
tạo mà dám chịu trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn mà dân giao cho. Cần đưa hoạt động kiểm toán là một hoạt động
bắt buộc thường xuyên đối với các cơ quan; mỗi cơ quan, đơn vị nên bố trí
một kiểm toán viên là biên chế của đơn vị mình. Thực hiện dân chủ, công khai
về tài chính công, tất cả các chi tiêu tài chính đều được công bố công khai.
Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới như: cho
thuê đơn vị sự nghiệp công; cho thuê đất để xây dựng cơ sở nhà trường,
25


×