VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
QUÁCH THỊ MINH PHƯỢNG
CHÍNH SÁCH DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
QUÁCH THỊ MINH PHƯỢNG
CHÍNH SÁCH DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Chính sách công
Mã số: 934.04.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐỖ PHÚ HẢI
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của
luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Tác giả
Quách Thị Minh Phượng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .. .................................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................... 14
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu............................................................ 14
1.2. Đánh giá tổng quan về những công trình nghiên cứu và những vấn đề đặt
ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu ........................................................................ 39
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH DỊCH VỤ
CÔNG TRỰC TUYẾN ....................................................................................... 44
2.1. Khái quát về chính sách công, dịch vụ công, dịch vụ công trực tuyến ......... 44
2.2. Chính sách dịch vụ công trực tuyến .............................................................. 55
2.3. Chính sách cung ứng dịch vụ công trực tuyến tại một số quốc gia trên thế
giới và kinh nghiệm cho Việt Nam ....................................................................... 70
Chương 3: THỰC TIỄN CHÍNH SÁCH DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN
Ở VIỆT NAM ...................................................................................................... 78
3.1. Bối cảnh triển khai cải cách hành chính và thực tiễn xây dựng chính phủ điện
tử tác động đến chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nay .............. 78
3.2. Thực trạng xây dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách dịch vụ
công trực tuyến ..................................................................................................... 91
3.3. Đánh giá chung ............................................................................................ 109
Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................... 122
4.1. Quan điểm về hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam....... 122
4.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam ....... 125
KẾT LUẬN....................................................................................................................... 144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ........................................... 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 148
PHỤ LỤC.......................................................................................................................... 158
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chính phủ điện tử
CPĐT
Công nghệ thông tin
CNTT
Dịch vụ công
DVC
Dịch vụ công trực tuyến
DVCTT
Cơ quan nhà nước
CQNN
Chính sách công
CSC
Cải cách hành chính
CCHC
Cán bộ, công chức
CBCC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Danh mục các nhiệm vụ, đề án cải cách hành chính giai đoạn 20162020 .................................................................................................................. 79
Bảng 3.2: Thứ hạng chính phủ điện tử của Việt Nam theo đánh giá của Liên
Hợp quốc năm 2016 ......................................................................................... 88
Bảng 3.3: Thống kê số lượng hồ sơ giải quyết dịch vụ công trực tuyến ở mức độ
3,4 tại một số địa phương ............................................................................... 101
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Hình 2.1: Mô hình các cơ quan chuyên môn tổ chức hành chính của Việt Nam ..... 63
Hình 3.1: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI năm 2018 .................................. 82
Hình 3.2: Xếp hạng Chính phủ điện tử cấp Bộ và cơ quan ngang bộ....................... 89
Hình 3.3: Xếp hạng Chính phủ điện tử các cơ quan thuộc Chính phủ ..................... 89
Hình 3.4: Xếp hạng Chính phủ điện tử cấp tỉnh ....................................................... 90
Hình 3.5: Đề xuất của người dân đối với CQNN...................................................... 96
Hình 3.6: Đề xuất của doanh nghiệp đối với CQNN ................................................ 96
Hình 3.7: Mức độ hài lòng đối với cập nhật thông tin phục vụ người dân ............. 103
Hình 3.8:Mức độ hài lòng đối với cập nhật thông tin phục vụ doanh nghiệp ........ 104
Hình 3.9: Mức độ hài lòng của người dân đối với thái độ phục vụ của CQNN
thông qua mạng .............................................................................................. 105
Hình 3.10: Mức độ hài lòng của doanh nghiệp đối với thái độ phục vụ của
CQNN thông qua mạng .................................................................................. 106
Hình 3.11: Mức độ hài lòng của người dân trong bảo mật thông tin ...................... 107
Hình 3.12: Mức độ hài lòng của doanh nghiệp trong bảo mật thông tin ................ 107
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách công là hệ thống các quyết định của chủ thể có thẩm quyền trong
bộ máy nhà nước nhằm giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra với những mục tiêu, giải
pháp cụ thể. Khi thực tiễn đặt ra vấn đề cần giải quyết, Đảng, Nhà nước sẽ phải
hoạch định, xây dựng và ban hành chính sách nhằm giải quyết vấn đề đó. Thời gian
vừa qua, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, sự phát triển của công nghệ thông tin
và truyền thông đã góp phần thay đổi tất cả mọi hoạt động, mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có hoạt động của Nhà nước. Ứng dụng công nghệ thông tin
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành, xây dựng chính quyền kiến
tạo, liêm chính, phục vụ, hành động; đảm bảo cải thiện môi trường kinh doanh, tạo
thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp đã trở thành mục tiêu của chính phủ nhiều
quốc gia trên thế giới. Do đó, rất cần có một hệ thống chính sách về việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong hoạt
động tổ chức thực hiện pháp luật của hệ thống cơ quan hành pháp. Chính sách đó
được cụ thể hóa trong chính sách về xây dựng chính phủ điện tử. Cung cấp các dịch
vụ công trực tuyến là một nội dung trọng tâm trong tiến trình cải cách hành chính,
triển khai chính phủ điện tử. Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các
dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi
trường mạng [9]. Từ đó cho thấy vai trò và tính quyết định của chính sách dịch vụ công
trực tuyến trong triển khai thành công chính phủ điện tử như mục tiêu đặt ra.
Xét về thực tiễn, ở Việt Nam, chính sách dịch vụ công trực tuyến thường được
thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo căn cứ pháp lý để thi hành.
Từ việc ban hành các văn bản của Đảng, thể chế hóa trong các văn bản pháp luật
của Nhà nước những quyết định đưa vào Chương trình, kế hoạch triển khai, các đề
án, dự án phát triển công nghệ thông tin, ứng dụng trong hoạt động quản lý nhà
nước, xây dựng chính phủ điện tử, triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến.
Quan điểm của Đảng được thể hiện trước tiên tại Chỉ thị số 58-CT/TW ngày
17/10/2000 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
1
hiện đại hóa (Chỉ thị 58). Trên cơ sở đó, rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật,
các đề án, chương trình nhằm triển khai cung ứng dịch vụ công theo hình thức trực
tuyến (dựa vào ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông). Nhận thức được tầm
quan trọng của việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển
công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Từ
đó đặt ra vấn đề: Cần tổ chức triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước nhằm phục vụ người dân và doanh nghiệp, tập trung
vào các nội dung chính là cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng
công nghệ thông tin tại bộ phận một cửa.
Bên cạnh hạn chế trong việc hoạch định, xây dựng chính sách, thực tiễn còn
cho thấy việc triển khai thực hiện chính sách dịch vụ công trực tuyến của nhiều bộ,
ngành, địa phương chưa đạt mục tiêu đặt ra, mới chỉ dừng lại ở mức lập phương án
triển khai. Trong đó, nhiều cơ quan cho biết còn vướng mắc, khó khăn trong một số
khâu: hệ thống hóa các hồ sơ, quy trình xử lý thủ tục hành chính do giấy tờ, thủ tục
nhiều, không có mẫu biểu điện tử; số lượng dịch vụ công nhiều trong khi kinh phí
triển khai hạn hẹp; thiếu hướng dẫn trong việc thuê dịch vụ công nghệ thông tin để
cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Nguyên nhân việc triển khai các dịch vụ công
trực tuyến chưa thực sự hiệu quả trong thời gian qua là do thiếu một hệ thống chính
sách đầy đủ, đồng bộ, toàn diện; sự quan tâm của các cấp chính quyền trong tổ chức
triển khai thực hiện chính sách chưa thực sự mang lại hiệu quả, công tác tuyên
truyền, nâng cao nhận thức của các chủ thể liên quan chưa được triển khai thực
chất, hiệu quả. Cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính và hiện
đại hóa nền hành chính triển khai còn chậm, chưa đồng đều và đồng bộ, dẫn đến
mục tiêu chính sách chưa đạt được.
Mặt khác, môi trường truyền thông cũng là một yếu tố quan trọng tác động
đến chính sách dịch vụ công trực tuyến. Dịch vụ công trực tuyến cần được hiểu và
chấp nhận bởi mọi chủ thể tham gia nhằm đảm bảo lợi ích cho toàn xã hội. Truyền
thông dịch vụ công trực tuyến đến tất cả các thành phần xã hội là hết sức quan trọng
2
trong triển khai thành công dịch vụ công trực tuyến. Sự hiểu biết của thành phần
liên quan đến dịch vụ công trực tuyến bao gồm: Người dân, doanh nghiệp, nhân
viên Chính phủ; lãnh đạo; chính trị gia; các nhà đầu tư nước ngoài: sự hiểu biết của
các thành phần liên quan về văn hóa truyền thông và các kênh truyền thông; triển
khai kế hoạch truyền thông; am hiểu về công nghệ thông tin và truyền thông; chia
sẻ thông tin và kiến thức.
Xét về mặt lý luận, hiện nay đang thiếu cách tiếp cận, nghiên cứu triển khai
dịch vụ công trực tuyến dưới góc độ chính sách: từ xác định được bản chất, vấn đề,
mục tiêu, giải pháp, chủ thể, thể chế và những yếu tố tác động đến chính sách dịch
vụ công trực tuyến cũng như xác định chu trình chính sách qua các giai đoạn: hoạch
định (khởi sự), xây dựng (thiết kế chính sách); tổ chức thực hiện và đánh giá chính
sách dịch vụ công trực tuyến. Chỉ khi xây dựng được cơ sở lý luận cơ bản về chính
sách dịch vụ công trực tuyến, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, đề xuất những
giải pháp để có được hệ thống chính sách dịch vụ công trực tuyến toàn diện đảm
bảo đồng bộ, phù hợp, khả thi.
Từ luận giải đó cho thấy, để triển khai cung ứng dịch vụ công trên môi trường
mạng, yêu cầu đặt ra là cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, toàn diện
về dịch vụ công trực tuyến. Việc nghiên cứu hoàn thiện chính sách dịch vụ công
trực tuyến đang đặt ra như một nhu cầu khách quan cấp bách của thực tiễn hiện nay.
Do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Chính sách dịch vụ công trực tuyến ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ với mục đích góp phần hoàn thiện
chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án xây dựng khung lý thuyết về chính sách dịch vụ công trực tuyến và
thực hiện khảo sát thực tiễn chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam làm cơ
sở khoa học để luận án đề xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách dịch
vụ công trực tuyến ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án tập trung triển khai những nhiệm
vụ cụ thể sau:
3
- Tập hợp, chắt lọc những vấn đề lý thuyết cơ bản nhất về chính sách công,
dịch vụ công, dịch vụ hành chính công, dịch vụ công trực tuyến trong mối quan hệ
với chương trình cải cách hành chính; Hình thành khung lý thuyết về chính sách
dịch vụ công trực tuyến theo chu trình chính sách từ hoạch định, xây dựng chính
sách; tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách;
- Thống kê, khảo sát số liệu về triển khai chính sách dịch vụ công trực tuyến,
lồng ghép những nhận định, đánh giá mặt được, mặt hạn chế trong xây dựng, tổ
chức thực thi và đánh giá chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam, từ đó tìm
ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó;
- Trên cơ sở phân tích quan điểm chung của Đảng về đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nêu quan điểm của cá nhân trong
hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực tuyến để đề xuất, phân tích, luận giải những
nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo hoàn
thiện từng khâu của chu trình chính sách: giải pháp để hoàn thiện khâu hoạch định,
xây dựng chính sách: giải pháp nâng cao nhận thức, năng lực của chủ thể xây dựng
chính sách, đảm bảo chất lượng của đề án chính sách như: về xác định vấn đề, mục tiêu
chính sách, giải pháp chính sách dịch vụ công trực tuyến, giải pháp tăng cường sự phối
hợp giữa các nhóm chủ thể, hoàn thiện môi trường pháp lý; tăng cường đầu tư nguồn
tài chính cho hoạt động xây dựng chính sách, đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông
tin và truyền thông, giải pháp đảm bảo thể chế pháp lý cho hoạt động xây dựng chính
sách...; nhóm giải pháp nhằm tăng cường tổ chức thực hiện chính sách và giải pháp mở
rộng hoạt động đánh giá chính sách dịch vụ công trực tuyến.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Về đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu chính sách dịch vụ công
trực tuyến ở Việt Nam giới hạn trong phạm vi nghiên cứu đối với dịch vụ công là
dịch vụ hành chính công; Dịch vụ sự nghiệp công trực tuyến và dịch vụ công ích
trực tuyến không được xem xét trong nghiên cứu này.
3.2. Về phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi nội dung: luận án lựa chọn nghiên cứu chính sách dịch vụ công trực
tuyến theo chu trình chính sách nhưng tập trung ở giai đoạn hoạch định, xây dựng
4
chính sách và nghiên cứu chủ yếu đối với dịch vụ hành chính công, gắn với chính
sách cải cách hành chính. Sở dĩ tác giả giới hạn như vậy vì ở Việt Nam hiện nay,
chính sách dịch vụ công trực tuyến còn chưa hình thành một cách có hệ thống, đồng
bộ, toàn diện và độc lập nên luận án lựa chọn tập trung hoàn thiện giai đoạn hoạch
định, xây dựng chính sách trong chu trình chính sách. Đồng thời, việc khảo sát,
đánh giá thực tiễn kết quả thực hiện chính sách dịch vụ công trực tuyến chủ yếu dựa
vào kết quả khảo sát sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp trong việc thụ hưởng
dịch vụ hành chính công trực tuyến.
* Phạm vi không gian: Luận án triển khai nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc
với những nguồn dữ liệu chung thông qua các báo cáo kết quả thực hiện cải cách
thủ tục hành chính, những báo cáo đánh giá, xếp hạng chính phủ điện tử, chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Đồng thời sử dụng kết quả điều tra xã hội học tại 02
tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Đà Nẵng. Sở dĩ tác giả tiến hành khảo
sát ở 02 thành phố này vì đây là 02 địa phương có sự triển khai tương đối mạnh về
dịch vụ công trực tuyến. Dịch vụ công trực tuyến không phải là một dịch vụ mới do
chính phủ cung ứng mà là cách thức cung ứng thay vì trực tiếp tại trụ sở cơ quan
nhà nước thì chủ thể có thể thụ hưởng trên môi trường mạng nhờ ứng dụng công nghệ
thông tin. Do đó, tác giả cho rằng bên cạnh lựa chọn khảo sát ở những địa phương, nơi
đã đáp ứng đủ điều kiện để áp dụng phương thức cung ứng dịch vụ công trên môi trường
mạng, tác giả sẽ sử dụng những số liệu thống kê và số liệu thông tin thứ cấp của những
địa phương là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, hải đảo chưa có đủ
điều kiện triển khai để tính toán những đề xuất phù hợp cho hoàn thiện chính sách dịch
vụ công trực tuyến ở nước ta. Kết quả khảo sát, đánh giá của hai địa phương đã triển khai
tương đối tốt, tác giả đưa ra những tham vấn trong xây dựng chính sách dịch vụ công
trực tuyến để có thể triển khai áp dụng trên phạm vi cả nước.
* Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu chính sách dịch vụ công trực tuyến
từ khi có chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động các cơ quan
nhà nước (Chương trình IT 2000) cho đến nay (2018); trọng tâm là giai đoạn từ năm
2014- khi có Nghị quyết của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin - đến năm 2018.
5
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Luận án tiếp cận và luận giải các vấn đề của chính sách dịch vụ công trực
tuyến trên cơ sở lý luận phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi xem xét
vấn đề nghiên cứu của luận án đặt trong mối quan hệ biện chứng với các yếu tố về
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Đồng thời dựa trên quan điểm, chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông, chính sách chính phủ điện tử, chính sách dịch vụ công
trực tuyến. Bên cạnh đó, luận án sử dụng lý thuyết về tổng quan chính sách công,
dịch vụ công, dịch vụ hành chính công trực tuyến, chính sách dịch vụ công trực
tuyến, chu trình chính sách... để luận giải các vấn đề có liên quan đến luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
* Về phương pháp tiếp cận:
Luận án tiếp cận vấn đề từ góc độ khoa học chính sách công: trên cơ sở lý
thuyết về tổng quan chính sách công từ nội dung về xác định vấn đề, mục tiêu, giải
pháp chính sách, chu trình chính sách. Cụ thể, tác giả từ lý thuyết chung về dịch vụ
hành chính công, dịch vụ hành chính công trực tuyến, khoa học chính sách công để
tiếp cận khung lý thuyết của chính sách dịch vụ công trực tuyến. Trên cơ sở đó, tác
giả khảo sát thực tiễn chính sách dịch vụ công trực tuyến theo chu trình chính sách,
trọng tâm là giai đoạn hoạch định, xây dựng chính sách với việc xác định vấn đề,
mục tiêu và giải pháp chính sách trong đề án chính sách, đánh giá thực tiễn chính
sách, tìm ra nguyên nhân của hạn chế để làm cơ sở đề xuất các giải pháp hoàn thiện
chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính toàn
diện của luận án, tác giả sử dụng kết hợp phương pháp tiếp cận liên ngành với sự
phối hợp giữa kinh tế học, xã hội học, luật học, lịch sử vì luận án có phạm vi nghiên
cứu liên quan đến nhiều khoa học chuyên ngành.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các biện pháp nghiên cứu kết hợp giữa định lượng với định
tính như sau:
- Để thu thập dữ liệu, thông tin: luận án sử dụng phương pháp thu thập thông
tin thứ cấp: Phương pháp này được sử dụng để thu thập, khai thác, tổng hợp thông
6
tin từ các nguồn tư liệu đã có sẵn có liên quan đến nội dung của luận án. Nguồn tài
liệu thứ cấp còn là các công trình nghiên cứu từ các nhà khoa học, các báo cáo, số
liệu thống kê, kết quả điều tra… của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức, cá
nhân có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề nghiên cứu. Nguồn tư liệu sẵn
có được thu thập từ nguồn tài liệu trong nước lẫn nước ngoài có liên quan. Thông
tin còn có thể được nghiên cứu các tài liệu trực tiếp như nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước về cải cách hành chính, cung ứng dịch vụ
công trực tuyến, xây dựng chính phủ điện tử, về chính sách dịch vụ công trực tuyến.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: phân tích các nội dung về mục tiêu, chủ
thể, thể chế, giải pháp, yếu tố tác động đến chính sách dịch vụ công trực tuyến để
tổng hợp, hình thành hệ thống lý thuyết đồng bộ, đầy đủ, thống nhất, toàn diện về
chính sách dịch vụ công trực tuyến, áp dụng chủ yếu khi nghiên cứu viết Chương 2,
Chương 4;
- Phương pháp thống kê: thu thập số liệu, tổng hợp và trình bày số liệu phục
vụ cho quá trình phân tích, tổng hợp phục vụ nghiên cứu Chương 3 và Chương 4
- Phương pháp điều tra xã hội học: là phương pháp trong đó khảo sát một
nhóm đối tượng trên một phương diện nhất định để điều tra quan điểm, thái độ của
các đối tượng chính tham gia vào chính sách dịch vụ công trực tuyến. Tác giả đã tổ
chức khảo sát, điều tra gồm: 2 Mẫu phiếu (xem Phụ lục III và Phụ lục IV) trên hai
nhóm đối tượng là người dân và doanh nghiệp tại 2 địa điểm (thành phố Hồ Chí
Minh và thành phố Đà Nẵng) với 400 phiếu chia 2 tỉnh; mỗi tỉnh 200 phiếu. Nhóm
1: 150 phiếu/tỉnh; nhóm 2: 50 phiếu/tỉnh. Kết quả khảo sát xem Phụ lục VI.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: tác giả tiến hành phỏng vấn sâu các chủ thể có
thẩm quyền trong cung ứng dịch vụ công trực tuyến với 10 phiếu (01 bảng hỏi - xem
Phụ lục V và tổng hợp kết quả - xem Phụ lục VII): lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền
quản lý như các cơ quan thông tin, truyền thông; lãnh đạo cơ quan ứng dụng như
các bộ, sở, ban, ngành cung ứng dịch vụ hành chính công.
Phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp phỏng vấn sâu phục vụ
nghiên cứu Chương 3 của luận án.
7
Sau khi kết quả điều tra được xử lý, tác giả tiến hành phân tích thông tin trên
cơ sở của sự kết hợp giữa các phương pháp định tính và định lượng. Thông tin
nghiên cứu được thể hiện dưới các hình thức: Văn bản; Bảng số liệu; …
Để có thể triển khai tốt luận án, bên cạnh việc xác định phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu, cần xây dựng cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu.. Đối
với luận án, lý thuyết về tổng quan chính sách công, phân tích chính sách (trả lời
câu hỏi nghiên cứu 1); lý thuyết đánh giá chính sách (trả lời câu hỏi 2, 3).
Cụ thể câu hỏi nghiên cứu của luận án và phương án giải quyết các câu hỏi
này như sau:
Câu hỏi 1: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến chính sách dịch vụ công trực
tuyến ở Việt Nam?
Cơ sở lý thuyết: Để trả lời được câu hỏi nghiên cứu này, đề tài vận dụng lý
thuyết tổng quan về chính sách công, đặc biệt là những yếu tố ảnh hưởng đến chính
sách công.
Giả thuyết nghiên cứu: chính sách dịch vụ công trực tuyến là một chính sách
công hướng đến thay đổi phương thức cung ứng dịch vụ công của Chính phủ thông
qua môi trường mạng, chịu tác động của các yếu tố chung của chính sách công.
Kết quả dự kiến: Chính sách dịch vụ công trực tuyến giải quyết vấn đề thực
tiễn hiện nay ở Việt Nam đang đặt ra. Đó là sự thiếu và yếu trong triển khai chính
sách dịch vụ công trực tuyến. Vấn đề này đặt ra xuất phát từ thực tiễn triển khai
dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam từ khi quyết định triển khai tin học hóa chính
phủ (những năm 90 của thế kỷ trước). Để giải quyết được vấn đề này, cần có những
quyết định đưa ra, thể hiện là những giải pháp, công cụ trong thể chế chính sách của
các chủ thể chính sách (chính phủ, người dân, doanh nghiệp...). Nhiều phương án
chính sách được xây dựng và đưa vào áp dụng để đánh giá, lựa chọn những quyết
định nào là phù hợp nhất để giải quyết vấn đề thực tiễn về triển khai dịch vụ công
trực tuyến ở Việt Nam. Luận án kết hợp lý thuyết về đánh giá chính sách công để
lựa chọn phương án chính sách phù hợp. Từ đó nhận định các yếu tố tác động đến
chính sách dịch vụ công trực tuyến gồm: yếu tố về nhận thức của chủ thể chính
sách, về năng lực làm chính sách, về mức độ hài lòng của nhóm chủ thể thụ hưởng
8
dịch vụ công (người dân, doanh nghiệp) quyết định hiệu quả của chính sách, về tính
chính xác trong xác định các giai đoạn trong chu trình chính sách: từ xác định vấn
đề, mục tiêu, giải pháp, chủ thể, thể chế của chính sách dịch vụ công trực tuyến, các
yếu tố về hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, thực tiễn triển khai chính
phủ điện tử, điều kiện kinh tế - xã hội... Chính sách dịch vụ công trực tuyến phải
xuất phát từ lợi ích của người dân, doanh nghiệp; coi người dân, doanh nghiệp là
trung tâm để hoạch định, xây dựng và ban hành chính sách, bao gồm nhóm chính
sách cơ bản sau đây: Chính sách phát triển hạ tầng công nghệ; Chính sách nguồn
nhân lực về công nghệ thông tin; Chính sách tạo môi trường pháp lý; Chính sách
đảm bảo an toàn, an ninh mạng; Chính sách về kinh tế - xã hội.
Câu hỏi 2: Đánh giá thực trạng chính sách dịch vụ công trực tuyến và tác
động sớm của chính sách ở Việt Nam như thế nào?
Để làm rõ câu hỏi này, tác giả dự kiến sử dụng lý thuyết về đánh giá chính
sách công. Vì như trong phần luận giải ở trên, chính sách dịch vụ công trực tuyến là
một chính sách công nên khi đánh giá thực trạng chính sách dịch vụ công trực tuyến
ở Việt Nam cần áp dụng lý thuyết về đánh giá chính sách công.
Giả thuyết nghiên cứu: chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện
nay có nhưng chưa toàn diện, chủ yếu thể hiện dưới dạng công cụ là các văn bản
pháp luật rời rạc, nội dung chủ yếu nhấn mạnh đến ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động quản lý nhà nước về chính phủ điện tử.
Tác giả sẽ sử dụng các phương pháp định tính, định lượng để đánh giá thực
tiễn chính sách dịch vụ công trực tuyến. Từ kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu
có thể thấy rằng giả thuyết về một hệ thống chính sách dịch vụ công trực tuyến ở
Việt Nam thời gian qua là hoàn toàn có cơ sở. Dự kiến luận án sẽ đánh giá được
chính xác vấn đề, mục tiêu, giải pháp của chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt
Nam thời gian qua còn mang tính chất chung chung, lồng ghép với chính sách xây
dựng chính phủ điện tử, chưa có sự tiếp cận hệ thống theo góc độ chính sách công,
với vấn đề chi phối toàn bộ mục tiêu, giải pháp chính sách dịch vụ công trực tuyến
đó là vấn đề về lợi ích nhóm (dung hòa lợi ích của các nhóm chủ thể tham gia chính
sách). Luận án còn chỉ rõ hạn chế trong việc xác định chủ thể, thể chế chính sách,
9
các yếu tố tác động đến định hướng chính sách dịch vụ công trực tuyến (chủ yếu
mới xác định chủ thể là chính quyền, rất chăm chút xây dựng cơ sở dữ liệu, đào tạo,
đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin cho phía chủ thể chính quyền...; thể chế chủ
yếu nhằm vào các quy định trong văn bản pháp lý, đề án, kế hoạch, chương trình...).
Luận án chỉ rõ những hạn chế, tồn tại làm cơ sở để hoàn thiện chính sách dịch vụ
công trực tuyến ở Việt Nam: Chưa xác định cụ thể về: sự tham gia, dung hòa lợi
ích, nguồn tài chính, thói quen, văn hóa.., điều kiện kinh tế - xã hội, sự kiên quyết
của người lãnh đạo, thể chế...; Hoàn thiện mục tiêu chính sách: bất cứ khi nào, bất
cứ nơi đâu và ngay lập tức; Thiếu nguồn lực tổ chức thực hiện chính sách dịch vụ
công trực tuyến: tài chính, con người (đội ngũ cán bộ, công chức), chủ thể thụ
hưởng (người dân, doanh nghiệp); Không quan tâm: do nhận thức, thói quen, do
điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh đất nước hiện nay.
Câu hỏi 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt
Nam hiện nay là gì?
Để trả lời câu hỏi này, luận án vận dụng kết hợp giữa lý thuyết về tổng quan
chính sách công; lý thuyết phân tích, đánh giá chính sách để luận về các nhóm giải
pháp hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực tuyến.
Giả thuyết nghiên cứu: chính sách dịch vụ công trực tuyến được coi là hoàn
thiện nếu đó là một hệ thống chính sách: toàn diện, thống nhất, có lộ trình áp dụng
rõ ràng và được đánh giá thường xuyên để không ngừng hoàn thiện.
Có thể thấy, muốn giải quyết các bất cập trong triển khai dịch vụ công trực
tuyến trong thời gian qua, đạt được mục tiêu đã đặt ra, chúng ta cần đến một hệ
thống chính sách đồng bộ để phát triển, với những công cụ sắc bén, có hiệu quả
triển khai trong thực tiễn. Chính sách đó phải đảm bảo dung hòa, đáp ứng lợi ích
của tất cả các nhóm chủ thể liên quan: Với chính phủ (nhà nước): công chức hoàn
thành nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động; giải quyết khó khăn của nền
công vụ, đạt được mục tiêu của cải cách hành chính (cải cách thủ tục hành chính,
thể chế hành chính.....); Với vấn đề tinh giản biên chế (có thể dung hòa bằng cách
cải cách tiền lương thông qua việc tăng phí dịch vụ cung ứng - điều chỉnh trong giới
hạn chấp nhận được); Đổi mới quản lý dịch vụ công: dịch vụ công cung ứng có thu
10
chuyển thành tự chủ (quy định cho phép các đơn vị được giữ lại tỷ lệ phí để phân
phối nội bộ) sẽ nhận được sự ủng hộ của công chức vì ổn định đời sống, chi phí....;
Mang lại lợi ích kinh tế: giải quyết vấn đề giảm nguồn nhân lực thì phải xây dựng
kế hoạch tổ chức đào tạo lại sau đó bố trí lại nhân lực phù hợp...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Về lý luận: Luận án tiếp cận đề tài dưới góc độ khoa học chính sách công theo
chu trình chính sách. Luận án hình thành khung lý thuyết cơ bản về chính sách dịch
vụ công trực tuyến, tập trung làm rõ nội hàm của chính sách dịch vụ hành chính
công trực tuyến trong bối cảnh cải cách thủ tục hành chính và yêu cầu hiện đại hóa
nền hành chính hiện nay, nội dung chính sách, yếu tố ảnh hưởng đến mức độ hoàn
thiện của chính sách... Đồng thời, hoàn thiện lý luận về các giai đoạn trong chu trình
chính sách công, đặc biệt tập trung làm rõ lý luận về giai đoạn hoạch định, xây dựng
chính sách: lý thuyết về xác định vấn đề chính sách, xây dựng mục tiêu chính sách và
xây dựng giải pháp chính sách dịch vụ công trực tuyến. Những lý luận này trước đây
chỉ được nghiên cứu ở góc độ hẹp hoặc được tiếp cận dưới góc độ kỹ thuật, công nghệ
thông tin và được nêu chung trong chính sách xây dựng chính phủ điện tử.
Về thực tiễn: Dựa trên khung lý thuyết về chính sách dịch vụ công trực tuyến,
luận án đã đánh giá thực trạng chính sách dịch vụ công trực tuyến theo chu trình
chính sách. Để đánh giá giai đoạn hoạch định, xây dựng chính sách, tác giả khảo
sát, đánh giá hiệu quả giải quyết vấn đề chính sách thông qua đánh giá mức độ hoàn
thành mục tiêu của chính sách, thể hiện ở mức độ hài lòng của chủ thể thụ hưởng
dịch vụ công trực tuyến trong xã hội và thứ hạng; đánh giá vị trí của Việt Nam trên
trường quốc tế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện
tử dựa trên cơ sở các báo cáo xếp hạng, đánh giá về chính phủ điện tử nói chung,
cung ứng dịch vụ công trực tuyến nói riêng. Từ đó, đưa ra những nhận định, đánh
giá một cách toàn diện, đồng bộ về chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam
hiện nay, phân tích rõ những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế đó làm cơ sở xây
dựng kiến nghị, giải pháp.
Với quan điểm của cá nhân dựa trên quan điểm của Đảng về ứng dụng công
nghệ thông tin trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, đặc biệt là ứng dụng trong
11
hoạt động phục vụ, cung ứng dịch vụ hành chính công của chính phủ, luận án đã đề
xuất nhóm các giải pháp tương đối khả thi, cụ thể với từng giai đoạn trong chu trình
nhằm hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực tuyến. Trong đó tập trung những
nhóm giải pháp hoàn thiện giai đoạn hoạch định, xây dựng chính sách. Đó là những
giải pháp góp phần xây dựng những đề án chính sách đúng đắn, nâng cao nhận thức,
năng lực của chủ thể xây dựng chính sách, tăng cường sự phối hợp, đảm bảo nguồn
lực tài chính đầu tư cho công nghệ thông tin, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường
pháp lý cho hoạt động xây dựng chính sách trong khâu xây dựng chính sách và phục
vụ cho cung ứng dịch vụ hành chính công trên môi trường mạng, gắn với việc đảm
bảo cải cách thủ tục và hiện đại hóa nền hành chính. Đồng thời, luận án cũng nêu
một số nhóm giải pháp khác liên quan đến hiệu quả của tổ chức thực hiện và đánh
giá chính sách, góp phần xây dựng được hệ thống chính sách dịch vụ công trực
tuyến đầy đủ, toàn diện ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về nhận thức lý luận: Luận án cung cấp những tri thức về chính sách dịch vụ
công trực tuyến, hình thành tư duy và lý luận tương đối đầy đủ về chính sách này.
Về hoàn thiện thể chế, chính sách: Những luận điểm, kết quả nghiên cứu, đánh
giá của luận án góp phần làm cơ sở khoa học để nhà hoạch định chính sách rà soát,
sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quyết định chính sách, văn bản pháp luật về
dịch vụ công trực tuyến. Từ đó hoàn thiện hệ thống thế chế, tạo môi trường pháp lý
triển khai cung ứng dịch vụ công trực tuyến, góp phần xây dựng chính phủ điện tử ở
Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, mọi hoạt động đều phải
dựa trên thể chế, pháp luật;
Về thực tiễn: Luận án cung cấp “bức tranh toàn cảnh” thực tiễn chính sách
dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam từ khi ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động của cơ quan nhà nước; những giải pháp xuất phát từ thực tiễn hoạch định, xây
dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách dịch vụ công trực tuyến.
Những đóng góp mới của luận án có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc;
góp phần đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam, trọng tâm là cung ứng
dịch vụ công trực tuyến với những nhiệm vụ hoàn thiện chính sách: xác định chính
12
xác vấn đề, mục tiêu, giải pháp, chủ thể, thể chế khi xây dựng chính sách; nâng cao
nhận thức, năng lực của chủ thể ban hành chính sách, tăng cường đầu tư nguồn lực
tài chính, hoàn thiện môi trường pháp lý và có cơ chế phối hợp giữa các nhóm chủ
thể giam gia xây dựng chính sách; tăng cường tổ chức thực hiện và mở rộng đánh
giá chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với các nhà hoạch
định chính sách, các nhà quản lý, các chủ thể tham gia chu trình chính sách dịch vụ
công trực tuyến: chủ thể cung ứng: chính quyền; chủ thể thụ hưởng: người dân,
doanh nghiệp, các tổ chức. Luận án có thể được tham khảo trong hoạt động nghiên
cứu và đào tạo lĩnh vực khoa học chính sách công.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án kết cấu
gồm bốn chương:
Chương 1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án.
Chương 2. Những vấn đề lý luận về chính sách dịch vụ công trực tuyến.
Chương 3. Thực tiễn chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam.
Chương 4. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực
tuyến ở Việt Nam.
13
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu chung về chính sách công
Nhóm công trình nghiên cứu chung về chính sách công tương đối đa dạng và
phong phú. Tiêu biểu trong thời gian gần đây là các cuốn sách chuyên khảo, các bài
đăng tạp chí của các tác giả như: Tác giả Đỗ Phú Hải (2017) với cuốn sách Tổng
quan về chính sách công, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, đã đưa ra hệ
thống lý thuyết khoa học chính sách công, phân tích khái niệm, bản chất, mục đích,
nguyên tắc của chính sách công tới quá trình ban hành; chủ thể của chính sách công.
Đồng thời, tác giả cũng có những phân tích theo chu trình chính sách công từ xây
dựng, thực hiện, đánh giá chính sách công ở Việt Nam. Mặc dù là công trình tiếp
cận khái quát và chung nhất về chính sách công nhưng lại là cơ sở lý luận quan
trọng để tác giả làm căn cứ đưa ra khung lý thuyết về chính sách dịch vụ công trực
tuyến tại chương lý luận của luận án. Tác giả Ngô Hoài Sơn (2016) với cuốn sách
Đại cương về Chính sách công, Nhà xuất bản Lao động đã có cách tiếp cận khác về
khung lý thuyết chính sách công. Cuốn sách gồm 6 chương tạo khung lý thuyết cơ
bản về chính sách công: một số vấn đề chung về chính sách; cộng đồng chính sách;
một số thông tin liên quan đến chương trình nghị sự; cách thức hình thành vấn đề
chính sách từ thực tiễn, thực thi, đánh giá chính sách và vấn đề chuyển giao chính
sách. Những lý luận chung về chính sách công của công trình, đặc biệt là cách thức
hình thành vấn đề chính sách từ thực tiễn góp phần để luận án luận giải được sự cần
thiết và xác định vấn đề chính sách dịch vụ công trực tuyến xuất phát từ thực tiễn
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, đáp ứng yêu cầu trong tình hình hội
nhập quốc tế của Việt Nam.
Bên cạnh đó có các cuốn sách chuyên khảo khác nghiên cứu về chính sách
công: Tác giả Nguyễn Hữu Hải (2010), Giáo trình hoạt định và phân tích chính
sách công, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật; tác giả Đỗ Phú Hải (2013) với Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp cơ sở: Đánh giá chính sách công tại Việt Nam: Những vấn đề lý
14
luận và thực tiễn, tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam; năm 2014, tác giả đã có bài viết Xây dựng chính sách công: Vấn đề, giải
pháp và các yếu tố ảnh hưởng đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, Số 5/2014; Tác
giả Lê Chi Mai (2001) với cuốn sách Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy
trình chính sách, Nxb. Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Những công trình
cung cấp khung lý luận chung về chính sách công, chu trình chính sách công, từ đó
làm cơ sở để luận án cụ thể hóa trong Chương lý luận về chính sách dịch vụ công
trực tuyến. Bên cạnh những công trình phân tích khung lý thuyết về tổng quan chính
sách công, một số tác giả có cách tiếp cận từ những yếu tố trong đề án chính sách.
Tiêu biểu là bài viết Cơ sở lý luận để xác định vấn đề chính sách công của tác giả
Văn Tất Thu đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước – số 241(2/2016). Trong bài viết,
tác giả đã lý giải quan niệm về vấn đề chính sách công và đưa ra một số vấn đề cần
được giải quyết thông qua công cụ chính sách công hiện nay ở Việt Nam. Cách tiếp
cận vấn đề chính sách thông qua xác định một số vấn đề chính sách cụ thể hiện nay
là một trong những cách tiếp cận mà tác giả lựa chọn để triển khai luận án của
mình. Khi xây dựng chính sách phải xác định đúng và trúng vấn đề chính sách, từ
đó đảm bảo phương án chính sách công khả thi. Cùng cách tiếp cận đó, tác giả có
bài viết Giải pháp chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay
đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước số 246 (7/2016). Bài viết xây dựng giải pháp
chính sách cho một chính sách công cụ thể, đây là tham khảo quan trọng để tác giả
xây dựng giải pháp chính sách trong chính sách dịch vụ công trực tuyến mà luận án
đang nghiên cứu. Tác giả Võ Khánh Vinh với loạt bài viết về chính sách công đăng
trên Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội năm 2016, cụ thể: bài viết Quy trình chính
sách công: Một số vấn đề lý luận đăng trên Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội số 92016 đã có những cách tiếp cận lý luận về quy trình chính sách công theo hướng
giải thích quy trình chính sách công, phân loại và các cấu thành, chủ thể của quy
trình chính sách công. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả tiếp cận lý luận về
chu trình chính sách dịch vụ công trực tuyến. Bên cạnh bài viết về quy trình chính
sách công, tác giả Võ Khánh Vinh còn có những công trình nghiên cứu về mô hình
chính sách công và chính sách pháp luật, cụ thể: bài viết Mô hình nghiên cứu hệ
15
thống chính sách công Việt Nam đăng trên Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội số 82016, tác giả đã đưa ra phương pháp và cách thức tiếp cận khi nghiên cứu chính
sách công về lý luận, thực trạng và hoàn thiện chính sách công Việt Nam; bài viết
Chính sách xây dựng pháp luật – Một loại chính sách pháp luật và một hình thức
thực hiện chính sách pháp luật đăng trên Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội số 72016, tác giả đã chia sẻ lý luận về khái niệm, dấu hiệu, nội dung, thành phần của
chính sách xây dựng pháp luật, những yếu tố, lưu ý, những lỗi thường gặp trong xây
dựng pháp luật, yêu cầu đặt ra đối với việc nghiên cứu chính sách xây dựng pháp
luật của Việt Nam. Đây là nguồn tri thức tham khảo quan trọng cho luận án khi tiếp
cận một chính sách công cụ thể, đó là chính sách dịch vụ công trực tuyến.
Tóm lại, công trình nghiên cứu thuộc nhóm này rất đa dạng hình thức: sách
chuyên khảo, bài viết đăng tạp chí, giáo trình, tài liệu giảng dạy... Khung lý luận về
chính sách công được các tác giả tiếp cận dưới nhiều khía cạnh, góc độ với đa dạng
các phương pháp. Đây là nguồn tài liệu quan trọng tạo cơ sở, nền tảng để luận án
xây dựng khung lý thuyết về chính sách dịch vụ công trực tuyến tại Chương 2.
Các công trình nghiên cứu về giai đoạn hoạch định, xây dựng chính
sách dịch vụ công
Với bất kỳ chính sách công nào, giai đoạn đầu tiên đó là hoạch định, xây dựng
chính sách. Những công trình trong nhóm này thể hiện qua nội dung của hoạt động
xây dựng chính sách: từ việc xác định vấn đề chính sách, mục tiêu chính sách, giải
pháp chính sách, thể chế, chủ thể chính sách, những yếu tố tác động đến chính sách.
Cụ thể:
* Nghiên cứu về vấn đề chính sách dịch vụ công trực tuyến
Trong nhóm này, các bài viết trước hết tiếp cận vấn đề chính sách DVCTT
như một bộ phận của chính sách CPĐT và dưới góc độ đánh giá những tồn tại của
việc triển khai CPĐT. Giai đoạn đầu thực hiện chủ trương xây dựng CPĐT, tác giả
Nguyễn Chí Nhân (2002) có bài Chính phủ điện tử - mô hình quản lý nhà nước
hướng đến tương lai, đăng trên Tạp chí Phát triển kinh tế đã trích dẫn nhiều quan
điểm của các nhà quản lý, lãnh đạo địa phương liên quan đến ứng dụng CNTT trong
triển khai cung ứng các dịch vụ của Chính phủ, trong đó tập trung xác định vấn đề ở
16
chỗ thiếu kinh nghiệm trong ứng dụng CNTT hay do nhận thức không đầy đủ của
một số cấp lãnh đạo cũng là một rào cản lớn đối với tiến trình tin học hóa và xây
dựng CPĐT; đại đa số các nhà lãnh đạo chưa thực sự quan tâm nhiều đến việc
CCHC và cải cách bộ máy quản lý của mình.
Nhóm tác giả Kim Hoa, Bình Minh (2007) với bài viết Việt Nam đã sẵn sàng
cho chính phủ điện tử đăng trên Tạp chí Tin học tài chính số 43 tháng 1/2007; tác
giả Quang Minh (2009) với bài viết Dịch vụ công trực tuyến - CCHC đăng trên Tạp
chí Khoa học và công nghệ số 7/2009; tác giả Nguyễn Thanh Minh, Nguyễn Bội
Ngọc (2011) với bài viết Những khó khăn gặp phải trong triển khai chính phủ điện
tử, (Theo dự thảo “Electronic Goverment/or Developing Countries”của ITU) đăng
trên Tạp chí CNTT&TT Kỳ 2 (3.2011); tác giả Trần Ngọc Luân (2013) với bài viết
Quản lý nhà nước về chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay đăng trên Tạp chí
CNTT&TT kỳ 2; tác giả Minh Chung (2012) với bài viết Chính phủ điện tử di động
- Xu hướng DVC thế hệ tiếp theo đăng trên Tạp chí CNTT&TT Kỳ 2 (3.2012); tác
giả Trần Cao Tùng (2013), Bàn về xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt Nam đăng
trên Tạp chí quản lý nhà nước - số 204 (1/2013); tác giả Hồng Minh (2015) với bài
viết Các yêu cầu phi chức năng cho hệ thống thông tin cung cấp DVCTT đăng trên
Tạp chí Tin học Ngân hàng số 4 (152) - 6/2015. Hầu hết vấn đề của chính sách
DVCTT được các tác giả nêu dưới dạng đề cập những bất cập trong triển khai
CPĐT như: kỹ năng, thông tin, cơ quan, liên cơ quan và tích hợp, hiện tại CPĐT
của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được những yêu cầu sơ đẳng về kỹ năng và thông
tin, còn 3 giai đoạn cuối vẫn chưa được thực hiện tốt. Bên cạnh đó, nhiều CBCC
vẫn quen với nếp làm việc thủ công giấy tờ; nhân lực về CNTT còn yếu và thiếu;
việc lựa chọn công nghệ và chuẩn hóa hệ thống CNTT chưa phù hợp, vì vậy chưa
tích hợp và liên kết các cơ sở dữ liệu của Chính phủ, cơ quan, ban, ngành, địa
phương đến xã phường; kỹ năng ứng dụng CNTT của cán bộ lãnh đạo, công chức
chưa cao. Nhận thức về CNTT trong cộng đồng dân cư còn hạn chế, tỷ lệ máy tính
có kết nối Internet còn thấp, do đó, chưa tạo được phương thức, môi trường trao đổi
thông tin điện tử giữa chính quyền, doanh nghiệp và người dân.
Đặc biệt, nhiều tác giả đã tiếp cận thẳng vấn đề DVCTT với những bất cập,
khó khăn xuất phát từ đánh giá thực tiễn Việt Nam kể từ khi ứng dụng CNTT trong
17
cung ứng dịch vụ công. Cụ thể: tác giả Bế Trung Anh (2013) với bài viết Chính phủ
điện tử - con đường tiến tới minh bạch hóa các dịch vụ công đăng trên Tạp chí
Công nghệ - Thông tin, Kỳ 2 đã chỉ ra mối quan hệ giữa chính sách CPĐT với
chính sách DVCTT, sự phát triển của CPĐT và tính minh bạch của các DVC có mối
quan hệ đồng biến, tỷ lệ thuận. Do đó, phải tăng cường thúc đẩy các DVC điện tử,
đặc biệt là phải phát triển CPĐT mạnh hơn nữa nhằm nâng cao tính minh bạch của
các DVC ở Việt Nam. Bên cạnh đó: tác giả Trần Kim Kha (2012) với bài viết Dịch
vụ công trực tuyến trên địa bàn tỉnh - những vấn đề còn trăn trở đăng trên Tạp chí
Khoa học và Công nghệ, số 1/2012; tác giả Phan Thị Bích Thảo (2015) với bài viết
Dịch vụ công trực tuyến và vấn đề xây dựng chính quyền điện tử ở Thủ đô Hà Nội
đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước - số 235; các tác giả đã chỉ ra vấn đề của chính
sách DVCTT đó là: biện pháp xác thực các thông tin của chủ thể gửi đến môi
trường mạng; là thói quen dùng tiền mặt; là hạn chế trong nhận thức, hạn chế trong
công tác tuyên truyền về DVCTT; những rào cản do các quy định của thủ tục hành
chính và mức độ ứng dụng CNTT trong quản lý đã có tác động không nhỏ đến việc
ứng dụng DVCTT ở nhiều CQNN. Có thể thấy, tác giả đã đưa ra được một số vấn
đề chính sách DVCTT đang cần phải giải quyết hiện nay nhưng mới ở mức độ liệt
kê, chưa có phân tích căn nguyên, biểu hiện, chưa thể hiện toàn diện vấn đề của
chính sách này. Tác giả Thái Vân (2013) với bài viết Dịch vụ công trực tuyến Nhiều khuyến khích, dân vẫn ngại đăng trên Tạp chí Thế giới số ngày 18/11/2013
đã nêu thêm được vấn đề lớn nữa là sự chênh lệch điều kiện kinh tế - xã hội vùng
miền; trình độ của đội ngũ cán bộ CNTT chuyên nghiệp cũng đang cần được giải
quyết để thúc đẩy người dân sử dụng DVCTT rộng rãi và chuyên nghiệp. Gần đây,
tác giả Nguyễn Thị Thu Hường (2017) với bài viết: Ủy ban nhân dân Quận 1 đi đầu
trong cung ứng dịch vụ hành chính công trực tuyến đăng trên Hồ sơ sự kiện số 358
ngày 10/9/2017 xác định vấn đề chính sách DVCTT đặt ra ở chỗ, vì khái niệm
DVCTT còn mới trong khi người dân quá quen với các dịch vụ hành chính công
cung ứng theo phương thức truyền thống (trực tiếp tại trụ sở cơ quan công quyền)
nên việc ứng dụng trực tuyến cũng đang cần có những quyết sách giải quyết vấn đề
này. Hai tác giả Lê Thị Thanh Tâm và Nguyễn Văn Phương (2017) với bài viết Tác
18