Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Vấn đề nhân cách người cán bộ quản lý thực trạng và giải pháp hoàn thiện nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở công ty TNHH một thành viên phân đạm và hóa chất hà bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.51 KB, 32 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp hoá, hiện đại hoá. Nhiệm
vụ đó rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng một đội ngũ
cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc",
"Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Muốn quản lý được
tốt, người lãnh đạo, quản lý cần phải "hiểu người, biết mình và khéo dùng người".
Vậy trước hết, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải "tự hiểu rõ" mình.
Công tác của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
nhưng một trong những yếu tố có vị trí hàng đầu, giữ vai trò quyết định đó là nhân
cách của họ. Vì thế, tương ứng với vị thế và vai trò của mình, người cán bộ lãnh
đạo, quản lý phải có một nhân cách mẫu mực, hoàn thiện, cao hơn những người
bình thường, có vai trò định hướng, gương mẫu, có ưu thế tác động nhiều mặt, biết
tổ chức, tập hợp, lôi cuốn và thúc đẩy mọi người cùng hoàn thành nhiệm vụ.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm được những yếu tố quy định và những
yêu cầu có tính đặc trưng về nhân cách người lãnh đạo, quản lý có một ý nghĩa hết
sức quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, vừa có tính cơ bản lâu dài, vừa là đòi hỏi
bức xúc hiện nay.
Với những lý do như đã trình bày trên, tôi chọn đề tài: “Vấn đề nhân cách người
cán bộ quản lý. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện nhân cách người cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở công ty TNHH một thành viên Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc ” làm
đề tài tốt nghiệp của mình.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân cách của người cán bộ
lãnh đạo, quản lý nói chung trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta, nhất là
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài tập trung nghiên cứu, tìm ra những phẩm chất


nhân cách có tính đặc trưng của người lãnh đạo, quản lý ở Công ty Phân đạm và
Hóa chất Hà Bắc. Từ đó, đề ra giải pháp cơ bản nhằm không ngừng hoàn thiện và
nâng cao phẩm chất nhân cách của họ.
Đề tài chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những thực trạng về nhân cách người cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc
Bản thân sử dụng một số phương pháp chủ yếu như sau: Phân tích, tổng hợp, khái
quát hoá, lôgic lịch sử, thu thập thông tin từ các báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm
của Ban thường vụ Đảng ủy Công Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc về công tác xây
NGUYỄN VĂN TUÂN

1

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

dựng đảng, công tác cán bộ... Trên cơ sở đó làm rõ đặc điểm tình hình của Công ty
và cụ thể hoá nhiệm vụ, vị trí, chức năng.. . từ đó, đề ra những yêu cầu về nhân cách
cho phù hợp.
Kết cấu của tiểu luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận được kết cấu thành
hai chương chính:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng nhân cách người cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
Chương II: Thực trạng và một số giải pháp xây dựng Nhân cách người cán bộ
lãnh đạo quản lý ở công ty phân đạm và hoá chất Hà bắc trong thời kỳ hiện nay

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
XÂY DỰNG NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

I./ MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ NHÂN CÁCH.
NGUYỄN VĂN TUÂN

2

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

1./ Khái niệm về nhân cách trong tâm lý học
Nhân cách là khái niệm cơ bản của Tâm lý học cũng như một số nghành khoa học
khác: Như giáo dục học, đạo đức học, xã hội học, triết học…
Có nhiều định nghĩa về nhân cách, theo tâm lý học có các định nghĩa sau:
“Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý cá nhân, quy định giá trị
xã hội và hành vi xã hội của họ”.
“Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân, biểu hiện ở bản sắc
và giá trị xã hội của người ấy” (Phạm Minh Hạc).
“Nhân cách, đó là một tổ chức động của các hệ thống tâm - sinh lý trong cá nhân,
chúng quy định sự thích ứng trọn vẹn của cá nhân đối với môi trường xung quanh”
(G.Allport).
“Nhân cách là tổng hoà các phẩm chất tâm lý, nói lên đặc điểm của từng người
riêng biệt “(R.Meili).
“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất
tâm lý đang quy định hình thức hoạt động và những hành vi có ý nghĩa xã hội”

(E.V.Sôrôkhôva).
Dù khác nhau, nhưng qua các định nghĩa trên ta thấy rằng: Con người trở thành một
nhân cách khi đặt con người đó trong sự hoạt động, giao lưu với xã hội. Khi bàn về
vấn đề này, Mác cho rằng trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng
hoà các mối quan hệ xã hội, nhận định rất khái quát này đã nói lên bản chất, cấu
trúc nhân cách cũng như chỉ ra con đường hình thành nhân cách, nhận định này đã
là cơ sở lý luận cho Tâm lý học, Giáo dục học và các ngành khoa học nghiên cứu về
con người.
Từ những quan niệm về nhân cách, chúng ta thấy rằng cho đến nay vẫn chưa có một
trường phái nào giải quyết một cách thoả đáng toàn diện vấn đề bản chất nhân cách.
Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con người (ít nói đến
cá nhân). Những phẩm chất nhân cách đó là những phẩm chất đòi hỏi ở mỗi con
người phải có.
Do đó, có thể hiểu: Nhân cách là hệ thống những phẩm giá của một người được
đánh giá từ mối quan hệ qua lại của người đó với những người khác, với tập thể,
với xã hội và cả với thế giới tự nhiên xung quanh trong mọi cái nhìn xuyên suốt quá
khứ, hiện tại và tương lai. Nhân cách là một thứ giá trị được xây dựng và hình
thành trong toàn bộ thời gian con người tồn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho mỗi
con người, thể hiện những phẩm chất bên trong con người nhưng lại mang tính xã
hội sâu sắc.

NGUYỄN VĂN TUÂN

3

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG


TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

2./ Tư tưởng phương Đông cổ đại về nhân cách
Các nhà tư tưởng triết học phương Đông cổ đại cho rằng con người là tiểu vũ trụ,
mang những đặc tính của vũ trụ. Những đặc tính này chi phối sự phát triển con
người. Con người liên hệ với vũ trụ bao la nên con người cần biết được các thông
tin của vũ trụ. Thực thể con người là sản phẩm của nguyên lý âm dương, vừa đối
lập vừa thống nhất, chứa đựng và chuyển hoá lẫn nhau, trời - đất - người hợp thành
một (thiên - địa - nhân hợp nhất). Mạnh Tử nhận xét: Khi phát triển hết mình, con
người có thể biết trời mà còn hợp nhất với trời làm một.
Tính cách của con người chịu ảnh hưởng của ngũ hành và chia ra loại người: Kim,
Hoả, Thổ, Mộc, Thuỷ. Người mệnh Kim ăn ở có nghĩa khí, nếu Kim vượng thì tính
cách cương trực. Người mệnh Hoả thì lễ nghĩa, đối với mọi người nhã nhặn, lễ độ,
thích nói lý luận; nhưng nếu Hoả vượng thì nóng nảy, vội vã, dễ hỏng việc. Người
mệnh Thổ trọng chữ tín, nói là làm; nếu Thổ vượng thì hay trầm tĩnh, không năng
động, dễ bỏ thời cơ. Người mệnh Mộc hiền từ, lương thiện, độ lượng; Mộc vượng
thì tính cách bất khuất. Người mệnh Thuỷ thì khúc khuỷu, quanh co, nhưng thông
suốt; nếu Thuỷ vượng thì tính tình hung bạo, dễ gây tai hoạ.
Người phương Đông đánh giá con người qua chất là chủ yếu, lượng là phụ. Người
phương Đông lấy “Tâm thiện” là lý tưởng. Phương Tây tôn sùng tiến bộ, tôn sùng
văn minh vật chất, không quan tâm nhiều đến phẩm chất. Do đó nhiều người đã
than phiền rằng đạo lý ngày nay suy đồi, nhân cách con người thoái hoá không bằng
ngày xưa. Người phương Đông đề cao tính thiện, tính nhân, thích sự im lặng, nhẹ
nhàng, đề cao sự cân bằng không thái quá. Mọi tu nhân, xử thế, chính trị đều hướng
tới Thiện. Biết đủ là giàu, giản dị ở vật chất, giản dị trong nội tâm, trong ngôn từ,
trong
quan
hệ
với
mọi

người.
Khổng Tử quan niệm về nhân cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Trong đó Nhân là gốc và chỉ có người “Đại nhân” mới có Nhân.
Trên đây là những nét sơ lược về tư tưởng phương Đông cổ đại có liên quan đến
nhân cách con người. Nó nói lên hoàn cảnh và phương thức sống của con người
phương Đông. Tuy vậy, đây chưa phải là những quan điểm, học thuyết về nhân
cách.
3./ Quan niệm về nhân cách ở Việt Nam
Ở Việt Nam, theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học nhân cách thì
chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Song cách hiểu của
người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng lực hoặc là
con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người

NGUYỄN VĂN TUÂN

4

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ, yêu nước, tinh
thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người. Theo cách
hiểu này, tác giả Nguyễn Quan Uẩn trong cuốn tâm lý học đại cương (Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội) nêu lên định nghĩa nhân cách như sau:
“Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu
hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng hoà không phải
các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người
như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách
làm người của mỗi cá nhân”.
4./ Những quan điểm của Mac-Lê nin về nhân cách người cán bộ quản lý.
Theo C.Mác, “Con người là tồn tại tự nhiên trực tiếp. Với tư cách của tồn tại tự
nhiên, sau đó là tồn tại tự nhiên sống, về mặt nào con người được phú cho sức mạnh
tự nhiên, sức mạnh sống là tồn tại tự nhiên hoạt động, những sức mạnh này tồn tại
dưới dạng năng khiếu và năng lực, dưới dạng mong muốn”.
Về bản chất con người, C.Mác đã viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”.
Chủ nghĩa Mác-Lênin coi con người là một tồn tại tự nhiên, có tính chất thể chất,
một tồn tại sống hiện thực, có tư duy và có ngôn ngữ. Con người là một tồn tại
giống loài, nhưng ở mức độ cao nhất của sự phát triển giống loài. Con người vừa là
thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội. Tính chất xã hội là cơ bản của con người.
Cuộc sống xã hội và lao động làm xuất hiện ý thức con người. Như vậy điều kiện
bản chất của loài người là lao động, tư duy, ngôn ngữ. Điều này chỉ có được trong
quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người.
5./ Những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân cách người
cán bộ quản lý.
Trong cuộc đời hoạt động và lãnh đạo cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, cán bộ lãnh đạo. Ngay từ
năm 1925, bài giảng đầu tiên của Người cho những cán bộ cách mạng trẻ tuổi của
Việt Nam là vấn đề “tư cách một người cách mệnh”.
Hệ thống quan điểm và tư tưởng của người về xây dựng phẩm chất và năng lực,
nhân cách cho đội ngũ cán bộ chứa đựng những nội dung lý luận sâu sắc và ý nghĩa
thực tiễn lớn lao. Nhân cách của người cán bộ là sự tổng hòa các yếu tố về phẩm
chất và năng lực, trong đó nổi lên là vấn đề năng lực và đạo đức. Việc rèn luyện

nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý là một nhiệm vụ then chốt, thường xuyên
của công tác cán bộ.

NGUYỄN VĂN TUÂN

5

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân cách người cán bộ thể hiện trước hết ở "trung với
nước, hiếu với dân". Người coi trung với nước, hiếu với dân là một trong những tiêu
chuẩn quan trọng nhất của đạo đức cách mạng và là yếu tố cơ bản của nhân cách
người cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
trung với nước là dám xả thân vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, dẫu biết rằng đi
làm cách mạng thì có thể bị tù đày, nhiều gian khổ, hi sinh cả tính mạng.
Trung với nước là phải đặt quyền lợi của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết, trước hết.
Người cán bộ lãnh đạo là người giữ trọng trách trong bộ máy của hệ thống chính trị
càng cần có đức tính hy sinh cho lợi ích của Đảng, của Tổ quốc. Điều này càng đặc
biệt quan trọng trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi các lợi ích
đặt ra cho mọi người, trong đó có lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích của
tập thể và lợi ích của Tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh cho rằng, không có chế độ nào
tôn trọng con người, chú ý đến lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được
thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc, có lợi ích của cá nhân mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
vào Đảng là tự nguyện; nếu vào Đảng mà sợ hy sinh thì đừng vào Đảng hoặc khoan

hãy vào, để khi nào rèn được đức tính hy sinh rồi hãy vào. Mọi người, kể cả những
cán bộ lãnh đạo, quản lý được khuyến khích làm giàu, nhưng đó là làm giàu chính
đáng, chứ không phải làm giàu với bất cứ giá nào, làm giàu bất chấp đạo lý, làm
giàu bằng tham nhũng, dùng mọi biện pháp kể cả vi phạm pháp luật để làm giầu,
lấy của công làm của riêng đặt lợi ích của riêng mình lên trên tập thể.
Còn “hiếu với dân” là bao hàm cả hiếu với cha mẹ, có tình yêu thương trong gia
đình, nghĩa là có một “đời tư trong sáng”. Trong khái niệm "nhân cách" của một con
người, thường người ta hiểu có điểm nhấn về mặt này nhiều hơn. Đứng trước dân,
đang ở vị trí lãnh đạo, quản lý mà người cán bộ, đảng viên nêu gương xấu (chẳng
hạn như tư cách đạo đức, lối sống không tốt; tác phong, phong cách chưa tốt; con
cái hư; bản thân thì chưa đối xử tốt với vợ (chồng) con, với ông bà, cha mẹ, với anh
em, v.v.) thì tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng không lãnh đạo, quản lý được ai một cách
thực chất; nói không ai nghe, làm không ai theo, là đạo đức giả, gây phản cảm. Hiếu
với dân không ở đâu xa, mà trước hết chính ngay ở trong gia đình, họ tộc, xóm
giềng của bản thân người cán bộ lãnh đó.
Nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý còn biểu hiện ở đức tính cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư - điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng trong việc
rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Cần, theo quan điểm của Hồ Chí Minh ngoài việc đòi hỏi người cán bộ phải cần cù,
siêng năng, chịu khó, biết vượt qua khó khăn, gian khổ để làm việc, còn là yêu cầu
tăng năng suất lao động. Đây là một quan điểm hợp với nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin khi coi năng suất lao động chính là một điều kiện cốt yếu để chủ nghĩa
xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản. Năng suất lao động của mỗi cá nhân là điều
NGUYỄN VĂN TUÂN

6

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC



TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

kiện để tạo thành năng suất lao động xã hội, nhưng điều đó mới chỉ nói lên phần
nào sự phát triển kinh tế, chứ chưa phản ánh được nhiều tăng năng suất lao động xã
hội. Đức tính "cần" của người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay là phải chú ý tới
hiệu quả, chất lượng công tác, phải đo được bằng kết quả cụ thể của từng người,
từng ngành, từng địa phương, từng đơn vị.
Kiệm, theo Hồ Chí Minh, đó là tiết kiệm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: cần phải đi đôi với
kiệm; cần mà không kiệm thì tiền như “gió vào nhà trống”. Thực tế hiện nay, lãng
phí biểu hiện ở nhiều mặt: lãng phí tiền của trong đầu tư; lãng phí trong chi tiêu;
lãng phí thì giờ, v.v.. Điều đáng chú ý nhất, đáng nhấn mạnh nhất trong quan điểm
này của Hồ Chí Minh là ở chỗ, kiệm không có nghĩa là bủn xỉn, mà là việc gì đáng
chi thì phải chi, việc gì chưa đáng chi thì khoan hẵng chi, việc gì không đáng chi thì
dứt khoát không chi. Đây chính là bài học cơ bản nhất, lâu dài nhất, cần phải học cả
đời người, đối với mọi đối tượng, từ con người bình thường và càng đặc biệt hơn
đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý là những
người nắm quyền, nắm tiền, nếu không chịu rèn luyện đức tính tiết kiệm theo quan
điểm và tấm gương của Hồ Chí Minh thì rất dễ bị tha hoá nhân cách.
Liêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đức "liêm" của con người ta là điểm quan trọng.
Liêm là liêm khiết, là trong sạch, không tham ô, tham lam (cả tiền bạc, địa vị,v.v..).
Đức tính liêm khiết là một biểu hiện rất rõ của nhân cách con người. Trong hoàn
cảnh hiện nay, người cán bộ không những cần rèn cho mình đức tính không tham
lam, không tham nhũng mà còn phải đấu tranh không khoan nhượng chống lại
những biểu hiện tham nhũng. Hồ Chí Minh gọi tham ô, lãng phí, quan liêu
với đúng nghĩa của nó là "giặc nội xâm”. Điều chú ý nữa trong vận dụng quan điểm
của Hồ Chí Minh về vấn đề này là phải đề phòng và khắc phục bệnh tham danh
vọng, địa vị. Với những biện pháp, thủ đoạn để có được chức vụ này nọ hay gọi là
"chạy chức, chạy quyền", thì đó là điều đáng báo động về nhân cách người cán bộ,

đảng viên.
Chính, theo quan điểm của Hồ Chí Minh là không tà, là thẳng thắn; việc thiện dù
nhỏ cũng cố làm, việc ác dù nhỏ cũng cố tránh. Rèn luyện đức tính "chính" theo
quan điểm của Hồ Chí Minh cũng có nghĩa là người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
có thái độ rõ ràng, trong cuộc sống và công tác luôn yêu cái thiện, ghét cái ác; luôn
hành động, làm gương cho mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Tự
mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính mà
muốn người khác chính là vô lý".
Chí công vô tư là một đức tính nữa của nhân cách người cán bộ, đảng viên mà Hồ
Chí Minh đề cập. Chí công vô tư là chống chủ nghĩa cá nhân - một thứ bệnh mà Hồ
Chí Minh cho đó là "bệnh mẹ" đẻ ra muôn vàn "bệnh con". Rèn đức tính này theo
gương Hồ Chí Minh, người cán bộ phải luôn có ý thức và hành động chăm lo đến
lợi ích của Đảng, của Tổ quốc. Trong điều kiện hiện nay, người cán bộ phải vừa tôn
NGUYỄN VĂN TUÂN

7

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

trọng tập thể, bảo đảm dân chủ, người cán bộ phải dám làm, dám chịu trách nhiệm,
có tính quyết đoán mới có thể hoàn thành tốt mọi công việc và nhiệm vụ được giao.
Người cán bộ thể hiện ở thường xuyên nói đi đôi với làm. Đạo đức cách mạng
không phải cứ tự nhiên mà có, mà phải là kết quả của sự rèn luyện thường xuyên
trong suốt cuộc đời. Tự giác, tự nguyện, tự tu dưỡng nhân cách phải trở thành nếp
sống hằng ngày của người cán bộ. Hồ Chí Minh quan niệm: “một con người hôm

qua là vĩ đại, được mọi người yêu mến thì hôm nay không còn là vĩ đại nữa, nếu
lòng mình không trong sáng”.
Nhân cách của người cán bộ còn biểu hiện ở mối quan hệ thống nhất giữa nói và
làm, điều mà trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Nói thì
phải làm". Hiện nay, có không ít cán bộ chỉ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói
một đằng làm một nẻo. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về nói đi đôi
với làm. Là người cán bộ mà nói không đi đôi với làm thì sẽ bị sa vào lối đạo đức
giả, phản tác dụng trong việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Nhân dân ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước. Đất nước ta đang cần
những tấm gương mẫu mực, luôn biết học tập và làm theo tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh và chỉ có như vậy người cán bộ lãnh đạo sẽ tạo nên sức
mạnh của toàn hệ thống chính trị thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Người giữ chức vụ càng cao, trọng trách càng lớn càng phải đòi hỏi
nhiều hơn về nhân cách, tư tưởng, phong cách
II./ NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ.
1./ Đặc điểm của nhân cách:
1.2. Tính thống nhất:
Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài,
giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, giữa cái bên trong và cái bên ngoài, giữa cá
nhân với xã hội. Đức và tài có mối quan hệ chặt chẽ biện chứng với nhau. Trong cái
đức có cái tài, trong cái tài có cái đức, trong phẩm chất và năng lực của một cá nhân
con người phải luôn thống nhất với nhau.
1.3. Tính ổn định của nhân cách:
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối ổn định, tiềm tàng trong mỗi cá
nhân. Vì thế, nhân cách là cái sinh thành và phát triển trong suốt cuộc đời của mỗi
con người, do đó nhân cách có tính ổn định tương đối của nó. Tính ổn định của
nhân cách cao hay thấp là tùy thuộc vào mức độ hoàn thiện nhân cách của người đó.
Các đặc điểm nhân cách, các phẩm chất nhân cách tương đối khó hình thành và
cũng khó mất đi. Trong thực tế từng nét nhân cách có thể bị thay đổi do cuộc sống,
nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn, tương

đối ổn định.
NGUYỄN VĂN TUÂN

8

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

1.4. Tính tích cực của nhân cách:
Nhân cách vừa là chủ thể của hoạt động, vừa là sản phẩm của chính hoạt động giao
tiếp, nghĩa là nó có tính tích cực của mình. Tính tích cực của nhân cách được thể
hiện ở những hoạt động muôn màu, muôn vẻ và đa dạng, song đều tác động tích cực
vào sự phát triển của xã hội. Do vậy, tính tích cực của nhân cách được quy định bởi
hệ thống nhu cầu của cá nhân.
1.5. Tính giao lưu của cá nhân:
Nhân cách chỉ có thể được hình thành và phát triển trên cơ sở giao lưu và hoạt động.
Bởi lẽ trên cơ sở giao lưu, cá nhân mới có điều kiện để lĩnh hội, học hỏi để tiếp
nhận các giá trị của xã hội, các chuẩn mực đạo đức, từ đó mà hoàn thiện nhân cách
của mình, mới có điều kiện đóng góp những giá trị của cá nhân trong sự phát triển
của cộng đồng, của xã hội. Từ đó mà mỗi cá nhân được đánh giá, được nhìn nhận,
được thẩm định theo quan điểm của xã hội.
2./ Cấu trúc của nhân cách.
Nói đến cấu trúc nhân cách, chính là nói tới các thành phần của nhân cách. Xét về
mặt tâm lý, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cấu trúc tổng quát của nhân cách có hai
thành phần chính: Đức và tài, trong đó đức là nền tảng. Đức thể hiện phẩm chất và
tài thể hiện năng lực của con người. Có bốn nhóm: Xu hướng, tính cách, khí chất,

năng lực đan xen trong phẩm chất đức và tài. Chính đức và tài cấu thành phẩm chất
trên. Nhân cách của người lãnh đạo nói chung và cán bộ quản lý trong ngành giáo
dục nói riêng:
2.1 Phẩm chất chính trị tư tưởng.
Đó là khuynh hướng hoạt động chính trị xã hội và lập trường chính trị của người
quản lý, được biểu hiện cụ thể trong ý thức chính trị trong công việc thường ngày,
người quản lý luôn ý thức được hậu quả về mặt chính trị của hoạt động quản lý của
mình. Nhạy bén trong việc vận dụng đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và
Nhà nước vào công việc của mình và biết đánh giá con người theo những tiêu chuẩn
chính trị.
2.2 Phẩm chất tâm lý đạo đức.
Đó là trình độ trưởng thành về ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và lập trường đạo
đức của người quản lý. Một số phẩm chất tâm lý cụ thể gồm lòng say mê công việc,
lòng nhân ái, sự công bằng, tính tự chủ, sự cân xứng hài hoà giữa lý luận và thực
tiễn, giữa nghị lực và trí tuệ, giữa nói và làm.
Người quản lý phải làm gì để tạo niềm tin và là chỗ dựa vững chắc cho quần chúng.
Ở người quản lý, nói ít làm nhiều cũng chưa hẳn là tốt mà lời nói phải đi đôi với

NGUYỄN VĂN TUÂN

9

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

việc làm; có như vậy mới thể hiện được vai trò giải thích, tuyên truyền, vận động,

thuyết phục quần chúng của người quản lý.
2.3 Năng lực quản lý, tổ chức chuyên môn.
Đó là khả năng tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn người cán bộ quản lý
phụ trách, nghiên cứu khoa học có hiệu quả, áp dụng các tiến bộ khoa học vào trong
sản xuất. Muốn vậy, người cán bộ quản lý phải có trình độ học vấn nhất định, trình
độ văn hoá sâu sắc, phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn và có năng lực
tổ chức. Phải tinh nhạy về mặt tâm lý, tình cảm và có đầu óc tâm lý thực tế.
Người lãnh đạo phải kiên quyết, phê và tự phê đúng mức, biết khai thác tài năng, trí
tuệ của nhân viên. Họ phải có tính năng động về trí tuệ, tốc độ suy nghĩ nhanh, linh
hoạt, nhạy bén, có tinh thần phê phán khoa học mọi hiện tượng, mọi quá trình.
Người lãnh đạo còn phải có năng lực dự báo tình huống trong lãnh đạo, quản lý…
Cuối cùng, cán bộ lãnh đạo quản lý phải thường xuyên học tập, tu dưỡng phẩm chất
đạo đức để nâng cao uy tín cá nhân kết hợp với uy tín, quyền lực, chức vụ trong xã
hội, ngành giao cho để hoạt động lãnh đạo, quản lý được thuận lợi, có hiệu quả.
Người cán bộ quản lý phải thực sự là “tấm gương sáng” cho cán bộ nhân viên noi
theo.
Người quản lý phải biết tổ chức hoạt động, sử dụng đúng người đúng việc. Phải có
trình độ chuyên môn, trình độ văn hóa và kinh nghiệm lãnh đạo quản lý. Người
quản lý bao giờ cũng là người “biết trước, nghe hết và nói sau cùng”.
3./ Biểu hiện của nhân cách:
3.1 Năng lực tổ chức công việc:
Người cán bộ quản lý phải biết tổ chức công việc, sắp xếp và ra các quyết định theo
thẩm quyền của mình. Có nhiều người khi làm việc chỉ riêng mình đạt hiệu quả rất
cao nhưng không có khả năng tổ chức cho nhiều người cùng thực hiện. Vì vậy, năng
lực tổ chức công việc tập thể là yếu tố rất quan trọng của người cán bộ quản lý trong
các bộ phận sản xuất.
3.2 Năng lực lãnh đạo:
Đây chính là khả năng lan truyền nghị lực và ý chí của người cán bộ quản lý đối với
tập thể, từ đó khơi dậy ở mọi người tính tích cực hoạt động và lao động một cách tự
giác. Mác và Lê-nin đều cho rằng chỉ có lao động tự giác mới có khả năng sáng tạo.

Rõ ràng trong điều kiện ngày nay, trong sự yêu cầu khắt khe của xã hội, trong thời
đại phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và ứng dụng xử lý thông tin, để thành
công thì yếu tố sáng tạo trong mọi hình thức hoạt động là vô cùng quan trọng.
Trong công việc đòi hỏi người quản lý phải có tính kiên quyết, có phê bình và tự

NGUYỄN VĂN TUÂN

10

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

phê bình một cách đúng mức, có khả năng khai thác trí tuệ của người khác, có tính
tự chủ, có trình độ văn hoá cao và có cái tâm trong sáng.
3.3 Tính năng động về trí tuệ:
Thể hiện ở cấp độ suy nghĩ nhanh, linh hoạt nhạy bén với cái mới, có tinh thần phê
phán khoa học đối với mọi sự vật hiện tượng và quá trình, có năng lực dự báo sự
phát triển của các sự vật hiện tượng trong thực tế.
4./ Con đường hình thành và phát triển nhân cách người cán bộ quản lý.
Nhân cách không phải tự nhiên mà có mà mỗi cá nhân phải trải qua quá trình rèn
luyện lâu dài. Tâm lý học đã chỉ ra các yếu tố quy định sự hình thành nhân cách:
Giáo dục: Không ai sinh ra đã là người lãnh đạo. Muốn trở thành người lãnh đạo
trước tiên phải được giáo dục, đào tạo trở thành con người với tư cách là thành viên
của xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người thực tế là quá trình hoạt
động của cá nhân để lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội. Quá trình này

được thực hiện nhờ hệ thống giáo dục và đào tạo. Giáo dục được coi là một hoạt
động chuyên môn của xã hội, nhằm tác động một cách có mục đích đến cá nhân để
hình thành ở cá nhân đó hệ thống những phẩm chất tâm lý phù hợp với mục tiêu đào
tạo của xã hội đặt ra.
Đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay cần phải được giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng nắm vững những hệ thống những tri thức khoa học, những tri thức về đạo
đức, những kỹ năng, kỹ xảo về quản lý. Điều quan trọng là phải trang bị cho người
lãnh đạo hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
những tri thức về tâm lý con người, về công nghệ quản lý, lãnh đạo.
Hoạt động: Môi trường xã hội, giáo dục của xã hội có vai trò quan trọng đối với sự
hình thành và phát triên nhân cách. Tuy nhiên, ảnh hưởng của môi trường và giáo
dục chỉ diễn ra thông qua hoạt động của chính con người. Cuộc sống con người là
một dòng hoạt động kế tiếp nhau. Nếu không hoạt động con người không thể tồn tại
và phát triển được. Nhân cách được hình thành, phát triển và cũng được bộc lộ
trong hoạt động. Hoạt động của cá nhân có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình
thành và phát triển nhân cách.
Giao lưu: Giao lưu là một hoạt động nhằm thiết lập và vận hành các quan hệ giữa
người với người. Nếu không có giao lưu thì cá nhân sẽ không thể trở thành một
nhân cách.
Các quan hệ trong giao lưu còn giúp cá nhân so sánh mình với những đối tượng
giao tiếp và qua đó tự nhận thức đúng về mình, tự hoàn thiện mình. Chính quá trình
“tự thân vận động” của mỗi người có nguồn gốc từ giao lưu.
NGUYỄN VĂN TUÂN

11

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG


TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Trong quá trình quản lý, lãnh đạo, giao lưu là hoạt động chủ yếu trong mối quan hệ
với tổ chức với người dưới quyền. Nếu không có hoạt động giao lưu thường xuyên
thì không thể diễn ra hoạt động của người lãnh đạo. Nhờ giao lưu người lãnh đạo
nắm được tình hình của quần chúng để có thể điều chỉnh mình, chỉ đạo tốt việc ra
quyết định, thực hiện quyết định quản lý.
Tập thể: Các tập thể cơ quan, đơn vị sản xuất, đoàn thể xã hội là môi trường quan
trọng để người lãnh đạo rèn luyện nhân cách của mình. Với tư cách là chủ thể quản
lý, người lãnh đạo tiến hành hoạt động quản lý thông qua các con người trong tập
thể và nhờ đó mà phát triển nhân cách. Ngược lại, trong quá trình chỉ đạo, quản lý,
chính bản thân người lãnh đạo lại được tập thể nhận xét thừa nhận hay không thừa
nhận. Phê bình và tự phê bình là phương tiện có hiệu quả nhằm giúp người lãnh đạo
phát triển nhân cách.
III./ YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN.
1./ Yêu cầu chung:
Cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng trong
đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở nước ta. Đó là những người trực tiếp điều
hành hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, lấy hoạt động sản xuất kinh doanh làm
đối tượng, dựa trên cơ sở phân tích kinh tế – kỹ thuật và hạch toán kinh tế nhằm đạt
được hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội tối đa; đồng thời chịu
sự quản lý của Đảng và Nhà nước.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước gồm: các thành viên Hội
đồng quản trị (đối với các doanh nghiệp có Hội đồng quản trị); tổng giám đốc, giám
đốc, phó tổng giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng và những chức danh trưởng
phòng, phó trưởng phòng (ban) trong doanh nghiệp; các chuyên gia, nghệ nhân và
các viên chức chuyên môn, nghiệp vụ. Ngoài ra, trong tiến trình mở rộng cổ phần

hóa doanh nghiệp nhà nước, thì những cán bộ được giao đại diện phần vốn của nhà
nước tại các doanh nghiệp cổ phần cũng thuộc đội ngũ này.
Sự thành công hay thất bại trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (kể cả quy
mô lớn, vừa hoặc nhỏ) phụ thuộc vào hiệu quả quản lý, điều hành của giám đốc
doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp được coi là một nghề, đòi hỏi phải có những
tiêu chuẩn riêng về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn
và năng lực tổ chức quản lý doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi những người cán
bộ lãnh đạo, quản lý phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc

NGUYỄN VĂN TUÂN

12

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

lập dân tộc và CNXH. Họ phải có tầm nhìn xa, dự báo đúng tình hình, có tính can
đảm, có tri thức, giỏi về quản lý hiện đại, có tài trí, dám khám phá, giàu ý thức,
thích ứng nhanh với yêu cầu của xã hội. Người cán bộ quản lý giỏi không những
cần thiết để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan đơn vị mình phụ
trách mà còn là vốn quý cho sự phát triển của đất nước.
2./ Một số yêu cầu cơ bản đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh
nghiệp nhà nước:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) đã đề ra những yêu cầu về tiêu

chuẩn chung cho đội ngũ cán bộ quản lý (trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý
doanh nghiệp nhà nước) trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Những yêu cầu về tiêu chuẩn chung này được tiếp tục cụ
thể hóa ở hai mặt là phẩm chất và năng lực như sau:
2.1Yêu cầu về phẩm chất
Phẩm chất bao gồm: phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức
a. Về phẩm chất chính trị:
Trước hết, sự biểu hiện cao nhất, tập trung nhất về phẩm chất chính trị của từng cán
bộ quản lý doanh nghiệp hiện nay là phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, có lòng tự
hào và tự tôn dân tộc, phải nắm vững và quán triệt được quan điểm, đường lối phát
triển kinh tế – xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội theo quan điểm đổi mới của Đảng
ta.
Ở từng cấp quản lý trong doanh nghiệp cụ thể hóa đường lối, quan điểm và nội
dung quản lý, biểu hiện ở việc làm, kết quả cống hiến vào sự phát triển của doanh
nghiệp trong sự phát triển chung của đất nước.
Khi xem xét đánh giá phẩm chất chính trị của từng cán bộ quản lý phải dựa vào việc
xem xét người đó đã tìm tòi, đã cống hiến được gì vào sự phát triển của doanh
nghiệp, của địa phương, của ngành và cả nước, vào việc bảo đảm và không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động trong doanh nghiệp.
Đây chính là tiêu thức cơ bản nhất để đánh giá cán bộ.
Yêu cầu cụ thể về phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp nhà nước cần phải có là:
- Có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, có bản lĩnh và kiên định trong công
việc được giao. Có ý chí và có khả năng làm giàu cho doanh nghiệp và bản thân.
Thích ứng với sự thay đổi của cơ chế thị trường, năng động, sáng tạo trong công
việc, phục vụ lợi ích chung của cộng đồng.

NGUYỄN VĂN TUÂN

13


LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

- Có khả năng tự hoàn thiện, tự quản lý, đánh giá kết quả công việc của bản thân,
đánh giá con người mà mình quản lý theo tiêu chuẩn chính trị.
- Biết biến nhận thức chính trị của mình thành nhận thức chính trị của mọi người,
tạo được lòng tin và lôi cuốn mọi người cùng tham gia.
b. Về phẩm chất đạo đức:
- Trước hết, người cán bộ lãnh đạo, quản lý với tư cách là một công dân, phải sống
và làm việc theo tiêu chuẩn đạo đức một công dân, phải lấy việc gương mẫu sống
và làm việc theo pháp luật là tiêu chuẩn đạo đức cơ bản.
- Yêu cầu đặc thù của chức nghiệp quản lý doanh nghiệp là phải quản lý một tập thể
con người, đòi hỏi mỗi cán bộ quản lý phải biết chăm lo đến con người, tập thể,
cộng đồng, biểu hiện qua việc làm phải công bằng, công tâm, khách quan, có văn
hóa, tôn trọng con người, có đạo đức trong kinh doanh.
- Là tấm gương cho người dưới quyền và người lao động trực tiếp noi theo. Điều đó
đòi hỏi mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp phải là người cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, khiêm tốn, trung thực, thẳng thắn, không tham nhũng, không
cơ hội, không vụ lợi, thực hiện bình đẳng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền
hạn và trách nhiệm. Có ý thức tổ chức kỷ luật, được quần chúng tín nhiệm.
2.2 Yêu cầu về năng lực:
Năng lực của cán bộ quản lý doanh nghiệp là khả năng hoàn thành có kết quả một
loạt hoạt động trong doanh nghiệp. Năng lực bao gồm năng lực chuyên môn và
năng lực tổ chức quản lý.
a. Năng lực chuyên môn:

Chuyển sang nền kinh tế thị trường, lĩnh vực chuyên môn có sự thay đổi lớn và
cũng đặt ra đòi hỏi rất cao về kiến thức chuyên môn.
- Trước hết, cán bộ quản lý doanh nghiệp phải có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực
được giao trách nhiệm quản lý, biết sử dụng và tập hợp các chuyên gia giỏi, các cán
bộ chuyên môn dưới quyền, giao đúng việc và tạo điều kiện cho mọi người phát huy
khả năng chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ nhiệm vụ và lợi ích chung của doanh
nghiệp.
- Phải có kiến thức kinh tế thị trường, luật pháp và thông lệ quốc tế, kiến thức về
khoa học công nghệ, nắm vững bản chất và cơ chế vận động của quy luật thị trường
để ứng xử, lựa chọn các phương án kinh doanh; để sử dụng công cụ điều tiết kinh tế
thị trường trong quản lý và điều hành doanh nghiệp.
- Phải có kiến thức về khoa học quản lý hiện đại, hoạt động theo nguyên tắc của thị
trường như mọi nghề khác. Trong hoạt động quản lý, điều hành doanh nghiệp phải
NGUYỄN VĂN TUÂN

14

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

xuất phát từ thực tiễn sản xuất kinh doanh và thực tiễn đời sống kinh tế – xã hội để
tìm lời giải, biện pháp cụ thể.
b. Năng lực tổ chức quản lý:
Cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp là những người trực tiếp tổ chức điều hành
hoạt động của từng đơn vị kinh tế. Do đó, yêu cầu đặt ra cho từng cán bộ quản lý là
những yêu cầu mang tính cụ thể, thiết thực bao gồm: năng lực phân tích các tình

huống; năng lực quyết sách và giải quyết các vấn đề thực tiễn; năng lực tổ chức và
chỉ huy; năng lực liên kết phối hợp hành động.
- Là người có trình độ văn hóa trong giao tiếp, có sức khỏe và đủ năng lực chuyên
môn, phản ứng nhanh nhạy, linh hoạt, có tầm nhìn và có khả năng hoạch định chiến
lược phát triển doanh nghiệp trong dài hạn, biết quan sát nắm bắt được các nhiệm
vụ từ tổng thể tới từng chi tiết để quản lý, điều hành doanh nghiệp hoạt động đồng
bộ và có hiệu quả.
- Là người bình tĩnh, tự tin, tự chủ, quyết đoán trong công việc, có kế hoạch làm
việc rõ ràng và tiến hành công việc theo kế hoạch. Có năng lực tham gia vào các
quyết định tập thể và tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ thuộc phạm vi trách nhiệm của
bản thân.
- Là người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám mạo hiểm, dám chịu trách
nhiệm, có khả năng lường trước mọi tình huống có thể xảy ra, biết dồn đúng tiềm
lực vào các khâu yếu, biết tận dụng thời cơ có lợi cho doanh nghiệp, chịu được áp
lực của công việc và của dư luận xã hội.
- Là người có tác phong đúng mức, có thái độ chân thành, cởi mở; đồng thời hướng cho
cấp dưới tác phong cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau. Biết sử dụng đúng tài năng từng người,
đánh giá đúng con người, biết xử lý tốt các quan hệ trong và ngoài doanh nghiệp.

NGUYỄN VĂN TUÂN

15

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ Ở CÔNG TY
PHÂN ĐẠM VÀ HOÁ CHẤT HÀ BẮC

I./ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG VỀ CÔNG TY PHÂN ĐẠM VÀ HOÁ
CHẤT HÀ BẮC.
1./ Đặc điểm chung.
Nhà máy Phân đạm Hà Bắc (nay là Công ty TNHH một thành viên Phân đạm &
Hoá chất Hà Bắc) được Nhà nước Việt nam phê chuẩn thiết kế xây dựng ngày
20/07/1959. Nhà máy Phân Đạm Hà Bắc được Nhà nước Trung Quốc giúp đỡ xây
dựng bằng sự viện trợ không hoàn lại. Toàn bộ máy móc thiết bị được chế tạo từ
Trung Quốc theo thiết kế.
Vị trí địa lý của Công ty được đặt trên mảnh đất Xương giang lịch sử, phía tây giáp
sông Thương cung cấp tài nguyên nước cho sản xuất và sinh hoạt và cũng là nơi vận
chuyển cung cấp vật tư thiết bị cho Công ty. Phía nam giáp Thành phố Bắc Giang là
trung tâm văn hoá chính trị của Tỉnh. Với vị trí địa lý rất thuận lợi về giao thông
thuỷ, bộ và đường sắt là điều kiện lý tưởng cho việc phát triển kinh tế, văn hoá xã
hội.
Hiện nay cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty theo mô hình trực tuyến, chức năng
với cấp quản lý cao nhất là Tổng giám đốc. Giúp việc cho Tổng giám đốc có các
phó Tổng giám đốc. Các phó Tổng giám đốc có nhiệm vụ giúp Giám đốc điều hành
NGUYỄN VĂN TUÂN

16

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG


TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

mọi hoạt động sản xuất của Công ty trên các lĩnh vực đựơc phân công. Số lượng
Cán bộ, CNVC có 1.946 người với trình độ dân trí tương đối đồng đều. Trình độ
học vấn trong CBCNV tương đối cao, có khoảng trên 371 người có trình độ đại học,
còn phần lớn là cao đẳng và thợ lành nghề. Đời sống của CBCNV có thu nhập
tương đối ổn định, nhất là mấy năm gần đây với điều kiện SXKD tốt, đời sống thu
nhập của CBCNV tăng cao.
Công ty Phân đạm & Hoá chất Hà Bắc là doanh nghiệp Nhà nước có nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh hạch toán độc lập. Sản phẩm chính là phân bón Urê thương phẩm
46% N2, ngoài ra còn một số sản phẩm phụ như: NH 3; CO2 lỏng, rắn; O2; N2; phân
bón tổng hợp NPK, …phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng . Với
nhiệm vụ sản xuất như vậy nên Công ty có vai trò vô cùng quan trọng trong nền
kinh tế Quốc dân, mỗi một sự thay đổi về sản lượng, thay đổi về sản phẩm sẽ làm
thay đổi không nhỏ tới thị trường, nhất là thị trường nông nghiệp.
Trong 5 năm từ 2006 đến 2010, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty liên tục
tăng trưởng với tốc độ cao bình quân 10% năm, nộp ngân sách hàng năm đều tăng
và vượt kế hoạch, tổng nộp ngân sách 5 năm là 435 tỷ đồng tỷ đồng, Giá trị tổng
sản lượng hàng năm đều vượt kế hoạch, giá trị. Giá trị sản xuất công nghiệp là
3.170 tỷ đồng, doanh thu hàng năm đều tăng, tổng doanh thu sản xuất công nghiệp
5.485 tỷ đồng.
- Sản phẩm chủ yếu:
+ Sản lượng Urê 924.275 tấn, tăng 35,6 % so với 5 năm 2001-2005.
+ Sản lượng NH3 thương phẩm 18.845 tấn, tăng 10,4 lần so với 5 năm 2001-2005.
+ Sản lượng điện sản xuất 1.317,126 triệu kWh, tăng 34,3% so với 5 năm 20012005.
+ Sản lượng sản phẩm CO2 lỏng, rắn 113.302 tấn, tăng 387,34% so với 5 năm 20012005.
- Lợi nhuận 2.080 tỷ đồng, tăng 691,86% so với 5 năm 2001-2005.
2./ Mô hình tổ chức quản lý:
a. Cơ cấu tổ chức quản lý khi mới thành lập:

Theo quyết định 178/TC-HC ngày 29/1/1975 cơ cấu tổ chức của nhà máy tổ chức
quản lý của Công ty được tổ chức theo nguyên tắc "Một thủ trưởng". Giám đốc
Công ty chịu trách nhiệm lớn nhất về kết quả sản xuất kinh doanh trước Nhà nước
và người lao động. Hệ thống tổ chức quản lý theo kiểu trực tuyến - Người lãnh đạo
tổ chức được sự giúp đỡ của những người lãnh đạo chức năng để ra các quyết định.

NGUYỄN VĂN TUÂN

17

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Tổng giám đốc là người toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm cao nhất về mọi
mặt công tác. Do vậy, đảm bảo sự chỉ huy tập trung thống nhất đồng thời sử dụng
tốt các chuyên gia về mặt quản lý. Cơ cấu tổ chức như vậy là phù hợp với đặc điểm
sản xuất của Công ty.
b. Cơ cấu tổ chức quản lý hiện nay:
Trong quá trình phát triển của Công ty, cơ cấu tổ chức quản lý luôn luôn được điều
chỉnh phù hợp với yêu cầu của việc tổ chức sản xuất, theo từng giai đoạn phát triển
chung. Hiện nay cơ cấu tổ chức quản lý Công ty theo mô hình trực tuyến - chức
năng với cấp quản lý cao nhất là Tổng giám đốc. Giúp việc cho Giám đốc có các
phó Tổng giám đốc. Các phó Tổng giám đốc giúp giám đốc điều hành hoạt động
sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật và thay thế điều hành hoạt
động Công ty khi Tổng giám đốc đi vắng. Các phòng ban tham mưu, các nhà máy,
xưởng, phân xưởng trực thuộc Công ty thuộc cùng cấp quản lý. Dưới các nhà máy,

xưởng có khối phòng ban nghiệp vụ và các phân xưởng trực thuộc cùng cấp.
II./ THỰC TRẠNG NHÂN CÁCH CÁN BỘ QUẢN LÝ VÀ TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN, KẾT QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC CÁN BỘ
Ở CÔNG TY PHÂN ĐẠM VÀ HÓA CHẤT HÀ BẮC HIỆN NAY.
1. Thực trạng đội ngũ cán bộ đảng viên của Công ty
Công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc hiện có tổng số 1.946 cán bộ, công nhân viên
chức; số lượng đảng viên 718 đ/c chiếm 36,89%, dân tộc ít người 8 người chiếm 0,41%,
nữ 140 người chiếm 7,19%. Đội ngũ cán bộ chủ yếu là cán bộ kỹ thuật các ngành hóa,
điện, cơ khí chiếm trên 78% cán bộ toàn Công ty.
Số cán bộ và CNVC có trình độ đại học, trên đại học là 371 người, trong đó nữ là 82
người bằng 22%; trình độ LLCT cao cấp 14 người, trung cấp 135 người.
Cán bộ quản lý đương chức là thủ trưởng, phó đơn vị trực thuộc trở lên: 83 người; trong
đó 07 cán bộ nữ chiếm 8,4%, dân tộc 01 cán bộ chiếm 1,2%.
Đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên trách đảng, đoàn thể là 18 người, trong đó 03 nữ,
100% có trình độ đại học, 50% có trình độ cao cấp lý luận chính trị.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp Công ty 100% có bằng Đại học chuyên môn chính quy,
100% có trình độ lý luận chính trị cao cấp.
Đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ quản lý lãnh đạo nói riêng đều có phẩm chất chính trị
vững vàng, đạo đức, lối sống lành mạnh, giản dị, có tinh thần đoàn kết, phát huy được
dân chủ trong đơn vị, đảm bảo trình độ chuyên môn kỹ thuật và có năng lực điều hành
quản lý. Đặc biệt cán bộ chủ chốt đã thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình trong quản
lý, sử dụng con người việc thực hiện công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng
yêu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty.
NGUYỄN VĂN TUÂN

18

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC



TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

2./ Kết quả thực hiện công tác cán bộ quản lý ở Công ty Phân đạm và Hóa chất
Hà Bắc.
2.1. Công tác xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn cán bộ quản lý
Trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ chung được nêu trong Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII
và các văn bản của Trung ương của Tỉnh, căn cứ vào tình hình thực tế của Công ty; Ban
Thường vụ Đảng uỷ Công ty đã xây dựng quy định về tiêu chuẩn đối với từng đối tượng,
chức danh cán bộ như: tiêu chuẩn các chức danh chủ chốt cấp Công ty, trưởng phó đơn
vị trực thuộc, chức danh Trưởng ca Công ty, chức danh trưởng ca các xưởng... trên các
mặt: phẩm chất chính trị; đạo đức, lối sống; trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, lý
luận chính trị, ngoại ngữ, tin học; năng lực trí tuệ; khả năng đoàn kết, tập hợp quần
chúng; lề lối, tác phong, phương pháp làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật và sức khoẻ của
cán bộ đảm bảo các tiêu chuẩn theo quy định trong Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII)
và đảm bảo tiêu chuẩn riêng đối với từng chức vụ, cương vị công tác với đặc thù doanh
nghiệp SXKD.
Thông qua quy định tiêu chuẩn từng loại cán bộ, chất lượng cán bộ ngày càng được nâng
cao, cán bộ luôn tu dưỡng rèn luyện, giữ vững phẩm chất đạo đức, có lối sống trung
thực, lành mạnh, trau dồi học tập, phát huy được năng lực đáp ứng ngày càng cao yêu
cầu sản xuất của Công ty.
2.2 Kết quả công tác nhận xét, đánh giá cán bộ quản lý
Ban Thường vụ Đảng uỷ Công ty đã ban hành các văn bản hướng dẫn đánh giá cán bộ
hàng năm và hướng dẫn đánh giá cán bộ đảm nhiệm chức vụ trước khi hết nhiệm kỳ,
trước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, trước khi thực hiện quy hoạch, kiểm điểm đánh
giá cán bộ cuối năm....
Nội dung đánh giá: về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; về phẩm chất chính trị;
về phẩm chất đạo đức, lối sống; về chiều hướng và khả năng phát triển.
Phương pháp đánh giá: cá nhân làm bản kiểm điểm, tự đánh giá; cấp uỷ nơi công tác và

cấp uỷ nơi cư trú nhận xét, đánh giá; tổ chức hội nghị thảo luận, bỏ phiếu đánh giá; Ban
Thường vụ Đảng uỷ Công ty thảo luận, bỏ phiếu đánh giá, kết luận.
Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ quản lý từ khi có Nghị quyết đến nay được đảm bảo
được chất lượng cán bộ, cán bộ luôn có ý thức vươn lên về mọi mặt, gương mẫu, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ cơ bản đảm bảo đúng thực chất đội ngũ cán bộ, tạo
bước chuyển biến mới trong nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, người cán bộ luôn
gương mẫu, có trách nhiệm cao trong công việc, với vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của mình
với tập thể.
2.3 Kết quả thực hiện công tác quy hoạch cán bộ quản lý
NGUYỄN VĂN TUÂN

19

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII, công tác quy hoạch cán bộ được triển
khai từ cấp Công ty đến cấp cơ sở. Nhưng quy hoạch cán bộ ở cấp cơ sở còn bó hẹp
trong phạm vi cán bộ đơn vị và không được điều chỉnh bổ sung thường xuyên. Chính vì
vậy chất lượng quy hoạch không cao, ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bổ nhiệm, sắp
xếp, điều động cán bộ.
Từ khi có Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 05-KH/TU của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ, công tác quy hoạch thực sự được quan tâm chú trọng. Đảng uỷ
Công ty đã xây dựng Kế hoạch số 09-KH/ĐU ngy 22/6/2006 về công tác quy hoạch cán
bộ trong Công ty, đã mở Hội nghị cán bộ nghiên cứu quán triệt thực hiện Nghị quyết tới

167 cán bộ chủ chốt từ cơ sở ngày 27/6/2006. Chỉ đạo 100% các chi đảng bộ, các đơn vị,
đoàn thể tổ chức triển khai quán triệt và thực hiện.
- Kết quả quy hoạch A1: Ban chấp hành Đảng bộ Công ty khoá XIV nhiệm kỳ (20102015), gồm 32 đồng chí; Ban Thường vụ Đảng uỷ Công ty gồm 11 đồng chí; Bí thư, phó
bí thư Đảng uỷ; Giám đốc, phó giám đốc; kế toán trưởng; Chủ tịch, phó Chủ tịch Công
đoàn; Bí thư, phó bí thư Đoàn TN; Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội CCB Công ty bao gồm:
18 đồng chí cấp trưởng và 19 đồng chí cấp phó; Trưởng, phó các ban Đảng Công ty
gồm: 20 đồng chí; cán bộ quản lý 28 đơn vị trực thuộc gồm: 78 đồng chí cấp trưởng và
113 đồng chí cấp phó.
- Kết quả rà soát bổ sung quy hoạch A1, xây dựng quy hoạch A2 năm 2010; số lượng và
chất lượng cán bộ quy hoạch A2 tăng so quy hoạch A1, đảm bảo yêu cầu về số lượng và
chất lượng đội ngũ cán bộ. Với tổng số 91 chức danh và 291 lượt người, gồm: BCH,
BTV Đảng uỷ Công ty; trưởng, phó các ban Đảng; Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ; Tổng
Giám đốc, Phó Tổng giám đốc; Trưởng, phó các đoàn thể Công ty; trưởng phó 28 đơn vị
trực trực thuộc.
Trong đa số các chức danh cán bộ quy hoạch 3 người; một số chức danh quy hoạch 2
người hoặc 4 người, trình độ chuyên môn đại học đạt 99,2%; trình độ lý luận chính trị
cao cấp, trung cấp tăng, tỷ lệ tuổi trẻ tăng so quy hoạch A1.
Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, Công ty đã chủ động trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ
nhiệm, luân chuyển, sắp xếp, bố trí cán bộ, góp phần làm cho công tác cán bộ ở Công ty
đi vào nề nếp, đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài.
2.4 Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh và cải tạo mở rộng nhà máy, Ban Thường vụ
Đảng uỷ Công ty xây dựng kế hoạch, mở các lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo từng
giai đoạn trên các lĩnh vực: chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật công nghệ, lý luận chính trị,
bồi dưỡng kiến thức quản lý điều hành, ngoại ngữ, tin học, đào tạo bồi dưỡng trong nước
và học tập nước ngoài… Đặc biệt chú trọng đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nghệ phục vụ
dây chuyền sản xuất của Công ty.

NGUYỄN VĂN TUÂN


20

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Phối hợp với các Trường đại học Bách Khoa, Đại học khoa học tự nhiên Hà Nội đào tạo
hàng trăm cán bộ chuyên ngành…; phối hợp với Viện nghiên cứu chiến lược-Bộ Công
nghiệp thường xuyên mở các lớp nâng cao năng lực điều hành, quản lý cho cán bộ chủ
chốt; phối hợp với các Trường, các Trung tâm đo tạo mở các khoá đào tạo, bồi dưỡng
cập nhập các kiến thức mới trong nước và quốc tế, mở các lớp ngoại ngữ, tin học…
Kết quả công tác đo tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng được nâng cao chất lượng. Từ năm
1998 đến nay đã đào tạo được 02 thạc sĩ, 10 cán bộ Cao cấp lý luận chính trị và hàng
trăm cán bộ đã hoàn thành chương trình đại học; phối hợp Trường Chính trị tỉnh mở 02
lớp trung cấp LLCT cho 114 cán bộ lãnh đạo đương chức và dự nguồn; bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng an ninh cho 103 cán bộ, quản lý nhà nước cho 68 cán bộ, nghiệp vụ cho
844 lượt cán bộ, ngoại ngữ cho 172 lượt cán bộ ...
2.5 Về quản lý, bố trí và sử dụng cán bộ
Công tác quản lý, bố trí và sử dụng cán bộ được cấp uỷ quan tâm, cán bộ được bố trí
công việc phù hợp với năng lực và trình độ của từng người.
Từ năm 1998 đến nay đã bổ nhiệm 196 chức danh trưởng, phó phòng, đơn vị trực thuộc.
Trong đó quan tâm đến cán bộ trẻ, từ năm 2006- 6/2010, trong số 34 cán bộ được bổ
nhiệm, tỷ lệ cán bộ trẻ chiếm 70,6%, qua thực tiễn đội ngũ cán bộ trẻ đã thực sự phát huy
được năng lực. Cán bộ nữ được lãnh đạo Công ty chú trọng, trong tổng số 83 cán bộ
quản lý từ trưởng phó phòng đơn vị trở lên, tỷ lệ nữ chiếm 7,4%.
Công tác khen thưởng được quan tâm, 10 năm qua 827 lượt cán bộ đảng viên được Ban
Thường vụ Đảng uỷ Công ty khen thưởng; gần 1165 lượt cán bộ, CNVC đạt danh hiệu

chiến sĩ thi đua; nhiều cán bộ được cấp trên khen thưởng: 05 cán bộ được tặng Huân
chương lao động hạng Ba, 16 cán bộ được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen; 215
cán bộ được Tỉnh uỷ, UBND Tỉnh, Bộ Công nghiệp, Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam
tặng bằng khen...
Một số ít cán bộ chưa thực sự gương mẫu, còn buông lỏng quản lý, thiếu tinh thần trách
nhiệm, vi phạm những quy định của Công ty và Điều lệ Đảng, đã được phát hiện ngăn
chặn, nghiêm khắc xử lý kịp thời. Từ năm 2005 đến nay không có cán bộ vi phạm phải
xử lý kỷ luật.
Chính vì vậy việc thực hiện tốt bố trí, sử dụng, đề bạt cán bộ, kịp thời khen thưởng
những cán bộ có thành tích, kỷ luật thích đáng những cán bộ mắc sai phạm, đảm bảo
quyền lợi của cán bộ đã động viên và phát huy được vai trị của cán bộ; đội ngũ cán bộ cĩ
trách nhiệm với công việc, có ý thức gắn bó lâu dài với Công ty.
2.6 Kết quả thực hiện công tác luân chuyển cán bộ
Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn
số 06-HD/TCTW ngày 02/1/2002 của Ban Tổ chức Trung ương, Kế hoạch số 12-

NGUYỄN VĂN TUÂN

21

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

KH/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về công tác luân chuyển cán bộ, Đảng uỷ Công ty
đã tổ chức hội nghị cán bộ gồm 125 đồng chí quán triệt các quan điểm, nguyên tắc, mục
đích của công tác luân chuyển cán bộ. Thông qua đó đó nâng cao được nhận thức và

trách nhiệm của cấp uỷ, thủ trưởng đơn vị về việc luân chuyển cán bộ, từ đó đề cao tinh
thần trách nhiệm, ý thức phấn đấu rèn luyện vươn lên của mỗi cán bộ trong toàn Công ty,
góp phần đổi mới công tác cán bộ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Ban Thường vụ Đảng uỷ Công ty đã xây dựng Kế hoạch số 12-KH/ĐU ngày 05/7/2002
để triển khai thực hiện Nghị quyết trong toàn đảng bộ; chỉ đạo Ban Tổ chức Đảng uỷ và
Phòng TCNS Công ty tham mưu xây dựng các kế hoạch, quy trình, chế độ chính sách
luân chuyển cán bộ; trong đó chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp
cán bộ.
Do đặc thù của Công ty có nhiều ngành nghề, chuyên môn nghiệp vụ khác nhau, nên
công tác luân chuyển cán bộ cũng có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Từ năm 1998 đến nay đã quyết định cho 49 cán bộ chuyển công tác ra ngoài Công ty,
thực hiện luân chuyển 71 cán bộ, chủ yếu nhằm mục đích đào tạo, bồi dưỡng. Số cán bộ
chuyển từ công tác sản xuất kinh doanh sang công tác đảng, đoàn thể là 11 người, từ
đoàn thể sang SXKD là 02 người. Những cán bộ này đều phát huy được khả năng, đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ trên cương vị mới.
2.7 Về xây dựng và thực hiện chính sách đối với cán bộ
Nhằm thực hiện tốt các chính sách đối với cán bộ trong Công ty, Đảng uỷ Công ty đã chỉ
đạo các đơn vị phải nắm vững chế độ chính sách và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung
dân chủ, có quy chế rõ ràng, sử dụng, bố trí cán bộ đúng năng lực, trình độ, quan tâm đến
chính sách cán bộ nữ...
Đảm bảo tiền lương, thu nhập; đảm bảo các chế độ chính sách theo quy định của Nhà
nước; xây dựng và thực hiện các quy định thăm hỏi, thăm viếng, trợ giúp...; Thường
xuyên quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ; thực hiện chế độ nâng
lương thường xuyên và nâng lương trước thời hạn cho cán bộ đảm bảo đúng quy định;
quan tâm đến cán bộ làm việc trong môi trường độc hại; động viên hỗ trợ về tinh thần và
vật chất cho đội ngũ cán bộ ...
2.8 Về xây dựng tổ chức bộ máy làm công tác tổ chức cán bộ
Công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng của các cấp uỷ đảng. Để tham mưu giúp các cấp
uỷ đảng trong công tác cán bộ, Công ty đã tổ chức bộ máy công tác cán bộ gồm: Ban Tổ
chức Đảng uỷ Công ty và các cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng tại các cấp uỷ

trực thuộc và Phòng Tổ chức nhân sự Công ty.
Do đặc thù là Đảng bộ trong doanh nghiệp, bộ máy làm công tác tổ chức của Đảng bộ
Công ty gọn nhẹ, chủ yếu là kim nhiệm, 100% cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ ở cơ

NGUYỄN VĂN TUÂN

22

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

sở đều kiêm nhiệm. Trong những năm qua Đảng uỷ Công ty đã quan tâm phát triển đội
ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức nói riêng; cán bộ làm công
tác tổ chức được đào tạo cơ bản, được tham dự tập huấn thường xuyên, đồng thời Công
ty mở nhiều lớp tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức ở cơ sở.
Chất lượng cán bộ làm công tác tổ chức được nâng lên, có nhiều đổi mới về nội dung và
phương pháp làm việc, đảm bảo nền nếp, phát huy được năng lực của từng người, thực
hiện tốt chức năng tham mưu giúp Ban Thường vụ Đảng uỷ chỉ đạo có hiệu quả công tác
tổ chức cán bộ, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của SXKD.
3./ Đánh giá chung.
3.1. Ưu điểm và nguyên nhân.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của Cách mạng, là nhân tố quan trọng trong sự
phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Ban Thường vụ Đảng uỷ Công ty đã quán
triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết đến 100% cán bộ, đảng viên. Qua đó đó nâng cao nhận
thức của các cấp uỷ đảng, người đứng đầu đơn vị và các cán bộ đảng viên về tầm quan

trọng của công tác cán bộ.
Trong hơn 10 năm qua công tác cán bộ có sự chuyển biến thực sự tích cực, có nhiều nét
nổi bật, đó là:
- Đảm bảo được nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác cán bộ và thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Công ty.
- Xây dựng các văn bản quy định và hướng dẫn về tiêu chuẩn đánh giá, tuyển chọn, bổ
nhiệm, luân chuyển, chính sách cán bộ...
- Công tác quy hoạch cán bộ được đảm bảo nền nếp, chủ động, quy hoạch “động” và
“mở”, đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài.
- Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ được chú trọng, gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy
hoạch cán bộ trên các lĩnh vực đáp ứng yu cầu nhiệm vụ mới.
- Công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình, đặc biệt
đã mạnh dạn đề bạt bổ nhiệm cán bộ trẻ, có năng lực vào những trọng trách quan trọng
của Công ty.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ trong Công ty ngày càng được nâng cao về mọi mặt: đảm
bảo phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực tiễn, tiếp thu nhanh tiến bộ
khoa học kỹ thuật công nghệ, cơ chế thị trường, đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh
doanh của Công ty.
3.2 Những khuyết điểm và nguyên nhân

NGUYỄN VĂN TUÂN

23

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP


Tuy đã đạt được những kết qủa quan trọng, nhưng so với yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, công tác cán bộ của Công ty còn bộc lộ một số
thiếu sót, tồn tại, đó là:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã rất được chú trọng thực hiện, đáp ứng yêu cầu
hiện tại, nhưng so với yêu cầu phát triển lâu dài của Công ty trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế thì cần phải tập trung làm tốt hơn.
III./ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶC TRƯNG VỀ NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN PHÂN
ĐẠM VÀ HÓA CHẤT HÀ BẮC.
Trước hết người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong Công ty phải đạt chuẩn về yêu cầu
theo quy chế chung của nhà nước quy định. Có trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, trình độ về lý luận chính trị, trình độ quản lý ngành, đảm bảo được
những tiêu chuẩn ấy thì người lãnh đạo quản lý mới có khả năng hoàn thành chức
năng nhiệm vụ của mình. Đồng thời người lãnh đạo quản lý phải đạt được những
yêu cầu đặc trưng về nhân cách của người lãnh đạo, quản lý ở phạm vi chung nhất
như đã trình bày ở phần trên, đó là: Phải có phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng,
kiên định, biết phát hiện những khía cạnh chính trị ẩn náu đằng sau mỗi việc làm, sự
kiện hiện tượng xảy ra trong đời sống hàng ngày của đơn vị. Người lãnh đạo, quản
lý phải có đạo đức trong sáng, độ trưởng thành về phẩm chất đạo đức, hành vi bề
nổi về đạo đức để làm gương cho tập thể, tạo niềm tin chỗ dựa cho quần chúng, biết
đối nhân xử thế. Làm người lãnh đạo phải có hai mặt đức và tài, trong đó đức là
gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Cũng như sông thì có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người Cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân.” Và làm người lãnh đạo quản lý phải biết trọng
nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một con người làm việc có ích cho xã hội cho đất
nước, cho việc chung của tập thể. Làm người lãnh đạo phải có năng lực tổ chức hoạt
động chuyên môn, khả năng sư phạm, năng động sáng tạo nhạy bén, năng lực dự
báo, năng lực đối thoại.…

Bên cạnh những yêu cầu chung, cơ bản của người cán bộ lãnh đạo quản lý nói
chung, đối với người lãnh đạo, quản lý trong Công ty phải có những yêu cầu nhân
cách cụ thể sau đây:
1./ Có đạo đức và bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong Công ty trước hết là người: “Có đạo đức và bản lĩnh
chính trị tư tưởng vững vàng, trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt
đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh”. Phẩm chất chính trị, đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở đây
được thể hiện ở tính kiên trì thực hiện Nghị quyết, chỉ thị, đường lối giáo dục của
NGUYỄN VĂN TUÂN

24

LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC GIANG

TIỂU LUẬN TỐT NHGIỆP

Đảng, ở khả năng tư duy chính trị sắc sảo và những lập luận xác đáng bảo vệ cái
đúng, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ Đảng...
Phẩm chất chính trị, đạo đức còn được thể hiện ở thái độ luôn luôn nhìn nhận tập
thể của mình bằng con mắt chính trị, ở năng lực biết điều khiển sự lệch lạc về tư
tưởng chính trị của tập thể mình quản lý.
2./ Có năng lực lãnh đạo công tác chuyên môn.
Năng lực lãnh đạo công tác chuyên môn là yêu cầu không thể thiếu ở người cán bộ
quản lý, nó vừa là điều kiện vừa là phương tiện để tỏ rõ bản lĩnh chính trị - đạo đức
và tài năng của người quản lý. Yêu cầu này được thể hiện ở những năng lực cụ thể
như sau:

- Say mê làm công tác quản lý kỹ thuật: Niềm say mê làm nảy sinh khát vọng hành
động, khát vọng vươn lên. Say mê tạo tạo ra sự quên mình vì công việc và từ đó mà
nảy sinh những sáng kiến, làm tăng hiệu quả công việc.
- Nắm vững khoa học kỹ thuật: Do dặc điểm dây chuyền sản xuất liên tục khép kín
với những điều kiện kỹ thuật nghiêm ngặt, vì vậy đòi hỏi người cán bộ quản lý phải
nắm chắc được qui trình quy phạm kỹ thuật sản xuất, qui trình an toàn. Thường
xuyên trau dồi kiến thức khoa học kỹ thuật, tìm tòi ứng dụng các công nghệ mới
trong sản xuất góp phần năng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
- Có tinh thần trách nhiện cao với công việc: Là một nhà máy sản xuất hóa chất
luôn tiềm ẩn nhưng nguy cơ về sự cố vì vậy không cho phép người cán bộ quản lý
nhất là những cán bộ phụ trách về kỹ thuật có sai sót, thiếu tinh thần trách nhiệm vì
những sai sót sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng, khó lường ảnh hưởng đến toàn bộ hệ
thống sản xuất.
3./ Những yêu cầu về năng lực tổ chức thực tiễn.
Một trong những yêu cầu đầu tiên đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong phải
có phẩm chất đạo đức tốt, tư tưởng chính trị vững vàng. Nhưng đó cũng mới chỉ là
một khía cạnh của nhân cách người quản lý, năng lực tổ chức thực tiễn là một yếu
tố rất quan trọng. Đó là:
*Tính thực tiễn của trí tuệ: Người cán bộ lãnh đạo, quản lý có khả năng ứng dụng
kiến thức và kinh nghiệm của mình trong nhiều lĩnh vực và tình huống cụ thể khác
nhau.
*Tính quảng giao: Người cán bộ lãnh đạo, quản lý biết cởi mở, chan hòa với mọi
người, biết tiếp xúc và giao thiệp rộng rãi.
*Tính sâu sắc của trí tuệ: Người cán bộ lãnh đạo, quản lý có khả năng tìm ra bản
chất của vấn đề và giữa nhiều vấn đề, tìm ra ngay được vấn đề cơ bản. Trong ngữ

NGUYỄN VĂN TUÂN

25


LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC


×