Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp ở Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.65 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRƯƠNG THỊ THÚY VÂN

SỰ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở HUYỆN LÝ NHÂN,
TỈNH HÀ NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH : GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: T.S TRẦN THỊ LAN

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019

1


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRƯƠNG THỊ THÚY VÂN

SỰ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở HUYỆN LÝ NHÂN,
TỈNH HÀ NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ LAN

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019


2


1

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
CNH, HĐH
KTTT
THCS
THPT
TCCN
CĐ, ĐH
KT-XH
HĐND
UBND

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Kinh tế thị trường
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trung cấp chuyên nghiệp
Cao đẳng, đại học
Kinh tế - xã hội
Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân

1


2


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Bảng 7
Bảng 8
Bảng 9
Bảng 10

Nội dung
Trang
Hiện trạng sử dụng đất phân theo loại đất (tính đến ngày
31/12/2017)
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của huyện Lý Nhân giai đoạn
2015 – 2018
Tình trạng thất nghiệp trên địa bàn huyện giai đoạn 2015 2018
Cơ cấu lao động theo ngành huyện Lý Nhân giai đoạn 20152018
Cơ cấu kinh tế của huyện Lý Nhân giai đoạn 2016 – 2020
Các chỉ tiêu kinh tế năm 2016 – 2020
Biến động lao động trong các ngành nghề ở huyện Lý Nhân
Số hộ tham gia một số ngành nghề của huyện Lý Nhân giai
đoạn 2015 – 2018
Trình độ của lực lượng lao động huyện Lý Nhân giai đoạn
2015 – 2020
Tương quan giữa thu nhập và trình độ học vấn


2


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đô thị hóa
nông thôn đã và đang trở thành xu thế tất yếu của Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay. Ở tầm vĩ mô, đô thị hóa là một trong những giải pháp quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp
ứng mục tiêu phát triển mạnh các ngành công nghiệp - dịch vụ mà Đảng và Nhà
nước đã đề ra trong giai đoạn đến năm 2020.
Quá trình đô thị hóa đang và sẽ tiếp tục tác động nhiều chiều đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhất là sự chuyển dịch cơ cấu xã hội - nghề nghiệp. Sự
tác động đó bao hàm cả những mặt tích cực và mặt tiêu cực, hạn chế thậm chí là
những khó khăn, thách thức rất lớn đối với mỗi địa bàn trên cả nước, đặc biệt là
khu vực nông thôn. Đô thị hóa góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của
khu vực, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực,
quá trình đô thị hóa vẫn còn tồn tại không ít những bất cập đặt ra cần phải giải
quyết: vấn đề việc làm cho nông dân bị mất đất, phương pháp đền bù khi giải
phóng mặt bằng, cách thức di dân, dãn dân, cùng với đó là vấn đề lao động việc làm đối với một bộ phận lớn dân cư nông thôn. Tình trạng thất nghiệp,
thiếu việc làm khi bị thu hồi đất đai phục vụ mục tiêu đô thị hóa đã trở thành
thách thức không nhỏ mà các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương cần
chung tay tìm kiếm giải pháp khắc phục.
Huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam là một trong những địa bàn diễn ra quá
trình đô thị hóa với tốc độ mạnh. Thực tế này đã tác động sâu sắc đến mọi lĩnh
vực của đời sống dân cư nông thôn. Cơ cấu ngành nghề ngày càng biến đổi theo
xu hướng đa dạng, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ

trọng ngành nông nghiệp; kinh tế phát triển góp phần nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá cũng khiến khu
vực này phải đối mặt với nhiều thách thức lớn về vấn đề dân số, nghề nghiệp,
việc làm, tình hình rác thải công nghiệp, ô nhiễm môi trường, sự biến đổi về văn
1


2

hoá đạo đức lối sống…. Một trong những vấn đề đáng quan tâm đó là sự chuyển
đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của người nông dân. Vấn đề đặt ra là làm thế
nào để phát huy tác động tích cực và hạn chế những khó khăn, thách thức của
quá trình đô thị hóa đối với vấn đề chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của
lao động nông thôn trên địa bàn huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đây không chỉ là
vấn đề cấp bách trước yêu cầu giải quyết thỏa đáng việc làm, nâng cao năng suất
lao động mà còn là vấn đề có tính chiến lược lâu dài để hợp lý hóa cơ cấu và quy
mô sản xuất, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của huyện Lý
Nhân, tỉnh Hà Nam trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và
thực tiễn đó, em đã lựa chọn vấn đề “Chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp
của lao động nông thôn ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam trong quá trình đô thị
hóa” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hiện nay nước ta đang trong thời kì CNH,HĐH vì thế vấn đề chuyển đổi
cơ cấu xã hội - nghề nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với
mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động
lớn như Việt Nam. Lao động nông thôn là nhân tố quan trọng góp phần tích cực
vào quá trình CNH, HĐH đất nước, đồng thời cũng tạo lợi thế để phát triển kinh
tế tại các địa phương. Qua quá trình tìm hiểu thực tế có thể thấy lao động nông
thôn luôn là đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu.
Tác giả Trần Thị Tuyết và Lê Văn Phùng, “Các nhân tố ảnh hưởng đến

quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và tạo việc làm của lao động nông
thôn”. Đề tài giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những yếu tố ảnh hưởng đến sự
chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và việc làm của lao động nông thôn nhưng đề tài
chưa đi sâu nghiên cứu thực trạng của vấn đề này.
Tác giả Vũ Tiến Quang với cuốn sách “Việc làm ở nông thôn - Thực trạng
và giải pháp, Nxb Nông nghiệp đã tập trung nghiên cứu về cơ cấu việc làm ở
nông thôn từ đó đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm cho người nông dân.

2


3

Tác giả Lê Hải Thanh “Sự biến đổi cơ cấu lao động – việc làm ở nông
thôn ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”. Trong công trình này tác
giả đã nghiên cứu về thực trạng biến đổi lao động - việc làm của nông dân ngoại
thành Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả cũng đưa ra một số nguyên nhân ảnh
hưởng đến quá trình này đồng thời cũng dự báo về xu hướng biến đổi trong thời
gian tới.
Trần Thị Bích Loan với đề tài “Tác động của quá trình đô thị hoá tới việc
làm và thu nhập của người lao động nông nghiệp nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc”.
Nguyễn Thị Vân Anh với đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu lao động vùng
Đồng bằng Sông Hồng giai đoạn 2011 – 2015” cũng đã bàn đến những vấn đề
liên quan đến thực trạng của việc chuyển đổi cơ cấu lao động.
Hoàng Văn Định –Vũ Đình Thắng (2002), Giáo trình kinh tế phát triển
nông thôn; Nhà xuất bản thống kê; Hà Nội năm 2002.
Thái Ngọc Tịnh (2003), Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc
làm ở nông thôn Hà Tĩnh, luận án Tiến sĩ kinh tế, trường Đại học Nông Nghiệp I
Hà Nội.
Đồng Văn Tuấn (2004), Giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm và tăng thu

nhập cho lao động nông thôn huyện Phú Bình – tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên
năm 2004.
Trịnh Duy Luân (chủ biên) (2004), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
Lê Xuân Bá (2006), “Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động nông thôn Việt Nam”.
Võ Thanh Dũng (2007), Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động tại
TPCT trong bối cảnh đô thị hóa: trường hợp nghiên cứu quận Ô Môn.
Tạ Thị Kim Bình (2010), Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến biến
động đất đai và đời sống hộ dân trên địa bàn thị trấn Bích Động – huyện Việt
Yên – tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2000 - 2010, Luận văn thạc sĩ.

3


4

Dương Thùy Trang (2013), “Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của hộ
gia đình nông thôn trong quá trình đô thị hóa”, Chuyên ngành Xã hội học, Hà
Nội.
Trần Thị Bích Huyền (2014), Quá trình đô thị hóa Quận 2 – TP. Hồ Chí
Minh và những tác động đối với kinh tế – xã hội.
Dương Ngọc Thành và Nguyễn Minh Hiếu (2014), “Thực trạng lao động
và việc làm nông thôn Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ,
số 30/2014.
Nguyễn Thị Hải Vân (2012), “Tác động của đô thị hóa đối với lao động
việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội”, Luận án tiến sĩ.
Nguyễn Thị Kim Hồng (2013), Nghiên cứu một số giải pháp giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Luận văn
Thạc sĩ, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập và làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận chung về sự chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp. Tuy nhiên, chưa
có đề tài nào nghiên cứu về “sự chuyển đổi của cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của
lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam”.
Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu đã công bố, đề tài tập trung
đánh giá thực trạng chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động nông
thôn ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, từ đó đưa ra những khuyến nghị thiết thực
góp phần nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao
động nông thôn trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn ở huyện Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ lý luận chung về chuyển đổi cơ cấu nghề
nghiệp của lao động nông thôn dưới tác động của đô thị hóa, đề tài đánh giá thực
trạng và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu

4


5

xã hội - nghề nghiệp của lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa ở huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận chung về đô thị hóa, về chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề
nghiệp của lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp
của lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà
Nam và nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến việc chuyển đổi nghề nghiệp của
lao động nông thôn trên địa bàn nghiên cứu.

- Đề xuất những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu
xã hội - nghề nghiệp của lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa ở huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao
động nông thôn trong quá trình đô thị hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp của lao động nông thôn là một lĩnh vực
rất rộng với nhiều cách tiếp cận, đề tài chỉ tập trung đánh giá và làm rõ sự
chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động nông thôn trong quá trình
đô thị hóa ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
- Về thời gian: Đề tài khảo sát sự chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp
của lao động nông thôn ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam từ năm 2015 – 2018 và
đề xuất giải pháp cho những năm tới.
5. Cơ sở lí luận của đê tài và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận của đề tài
Cơ sở lí luận của đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự
biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp và quan điểm

5


6

của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ trương, chính sách của Nhà nước về chuyển
đổi cơ cấu nghề nghiệp, về lao động nông thôn, về đô thị hóa nông thôn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp logic - lịch sử.

- Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp liên ngành: Phân tích,
so sánh, hệ thống hóa, điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Trên cơ sở hệ thống hóa các quan niệm về đô thị hóa, chuyển dịch cơ
cấu nghề nghiệp, đề tài làm rõ hơn xu hướng chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp
của lao động nông thôn dưới tác động của quá trình đô thị hóa.
- Từ việc khảo sát, đánh giá thực trạng chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp
của lao động nông thôn dưới tác động của đô thị hóa ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà
Nam, đề tài làm sáng tỏ các nhân tố tác động và đề xuất những giải pháp cơ bản
để nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động nông
thôn ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Sau khi hoàn thiện, đề tài được dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên chuyên ngành Giáo dục chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và phần danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm có 3 chương, 6 tiết.

6


7

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
1.1. Khái niệm lao động nông thôn, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp và đô thị
hóa
1.1.1. Khái niệm lao động nông thôn
* Quan niệm về lao động

Khái niệm "lao động" tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà khoa học
đưa ra các quan niệm về "lao động" tương ứng. Tuy nhiên, các quan điểm đều
tập trung chủ yếu vào hai khía cạnh: Thứ nhất, coi lao động là hoạt động, là
phương thức tồn tại của con người. Thứ hai, coi lao động chính là bản thân con
người, là sự nỗ lực vật chất và tinh thần của con người dưới dạng hoạt động tạo
ra những sản phẩm vật chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của con người.
Lao động là hoạt động có ý thức của con người, đó là quá trình con người
sử dụng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động cải biến nó tạo ra sản
phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình và xã hội.
C.Mác cho rằng: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra đối với con
người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của mình con người
làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự
nhiên”[11,tr.230] C.Mác xác định: lao động là một trong hai yếu tố, nhưng là
yếu tố chủ động quyết định việc tạo ra của cải “ Lao động là cha và đất là mẹ
của của cải vật chất”.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao
động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu
cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng
lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống
loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải
nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân loài người” [12, tr.641]. Qua đó, “con
7


8

người nhân đôi mình không chỉ về mặt trí tuệ như xảy ra trong ý thức nữa, mà
còn nhân đôi mình một cách hiện thực, một cách tích cực và con người ngắm
nhìn mình trong thế giới do mình sáng tạo ra” [13, tr.282].
Xét về bản chất, “lao động là một hoạt động tích cực và sáng tạo” [13,

tr.119]. Bằng cách sử dụng công cụ và các tư liệu lao động tác động lên đối
tượng lao động để biến đổi nó thì con người đồng thời cũng biến đổi chính bản
thân mình, phát triển những khả năng, mở rộng và làm phong phú thêm kiến
thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo trong lao động, trong hoạt động sống một
cách tích cực, sáng tạo. Chính vì vậy, quá trình lao động luôn chứa đựng trong
nó và được thể hiện ra ngoài như là quá trình tự biểu hiện, tự khẳng định của cá
nhân.
Hồ Chí Minh coi lao động sản xuất là chức năng đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của một cấu trúc xã hội, trong đó người lao động đặt ở vị trung tâm
là nguồn lực quan trọng quyết định nhất cho quá trình sản xuất.
Lao động là vốn quý, là yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển
của mọi hình thức kinh tế xã hội, chính vì lẽ đó Đảng và Nhà nước ta luôn đặt
vấn đề về dân số, lao động, việc làm vào vị trí hàng đầu trong các chính sách
kinh tế xã hội.
Từ những quan điểm đưa ra có thể khẳng định: Lao động là hoạt động có
mục đích, có ý thức của con người, trong quá trình lao động con người vận dụng
sức lực tiềm tàng trong thân thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào
đối tượng lao động nhằm biến đổi nó phù hợp với nhu cầu của mình.
* Quan niệm về nông thôn
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nông thôn là làng mạc sống bằng sản xuất
nông nghiệp, khác hẳn với thành thị. Nói đúng hơn nông thôn là vùng địa lý cư
trú gắn với thiên nhiên, khác hẳn thành thị với dân cư chủ yếu là nông dân,
ngành nghề chủ yếu là nông nghiệp và có lối sống riêng, văn hóa riêng ”
[26,tr.123].

8


9


Tác giả V.Staroverov – nhà xã hội học người Nga đã đưa ra định nghĩa
khá khái quát về nông thôn: “Nông thôn với tư cách là khách thể nghiên cứu
của xã hội học về một phân hệ xã hội có lãnh thổ xác định đã hình thành từ lâu
trong lịch sử. Đặc trưng của phân hệ xã hội này là sự thống nhất đặc biệt của
môi trường nhân tạo với các điều kiện địa lý ưu trội, kiểu loại tổ chức xã hội
phân tán về mặt không gian” [Dẫn theo 34]
Tác giả Tô Duy Hợp lại khẳng định: “Nông thôn phân biệt với đô thị bởi
trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp hơn về mức độ phúc lợi xã hội, sinh hoạt.
Điều này thể hiện rõ trong cơ cấu xã hội và trong lối sống của cư dân nông thôn.
Ở nông thôn loại hình hoạt động lao động kém đa dạng (so với đô thị) tính thuần
nhất về xã hội và nghề nghiệp cao hơn. Nông thôn là hệ thống độc lập tương đối
ổn định, là một tiểu hệ thống không gian - xã hội. Các thành phần của nó đồng
nhất với đô thị song mặt khác lại tách biệt. Nông thôn và đô thị hợp lại thành
chỉnh thế xã hội và lãnh thổ của cơ cấu xã hội ” [9, tr.115].
Từ những quan điểm trên có thể khẳng định: Nông thôn là vùng khác hẳn
với thành thị, ở đó có cộng đồng chủ yếu là nông dân sinh sống và làm việc, có
mật độ dân cư thấp, có cơ cấu hạ tầng kém phát triển hơn, có trình độ tiếp cận
thị trường và sản xuất hàng hóa thấp hơn.
* Quan niệm về lao động nông thôn
Lao động nông thôn là toàn bộ những hoạt động lao động sản xuất tạo ra
của cải vật chất của những người lao động nông thôn. Do đó, lao động nông
thôn bao gồm: lao động trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp nông thôn,
dịch vụ nông thôn…
Lao động nông thôn là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia, sinh
sống và làm việc ở nông thôn đang trong độ tuổi lao động và có khả năng lao
động theo quy định của pháp luật.
Đặc điểm của lao động nông thôn:
- Trình độ thể lực hạn chế do kinh tế kém phát triển, mức sống thấp. Điều
này ảnh hưởng đến năng xuất lao động và trình độ phát triển kinh tế.
9



10

- Lao động nông thôn có tính thời vụ, có thời kỳ căng thẳng, có thời kỳ
nhàn rỗi. Điều này ảnh hưởng đến nhu cầu lao động trong từng thời kỳ; Ảnh
hưởng đến đời sống sản xuất và thu nhập của lao động nông nghiệp. Sản xuất
nông nghiệp luôn chịu tác động và bị chi phối mạnh mẽ bởi các qui luật sinh học
và điều kiện tự nhiên của từng vùng (khí hậu, đất đai,…). Do đó, quá trình sản
xuất mang tính thời vụ cao, thu hút lao động không đồng đều. Chính vì tính chất
này đã làm cho việc sử dụng lao động ở các vùng nông thôn trở nên phức tạp
hơn.
- Trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cũng như trình độ tiếp cận thị
trường thấp. Đặc điểm này cũng ảnh hưởng đến khả năng tự tạo việc làm của lao
động. Hoạt động sản xuất được tham gia bởi nhiều đối tượng ở nhiều độ tuổi
khác nhau, trong đó có cả những người ở ngoài độ tuổi lao động.
- Lao động nông thôn đa dạng, ít chuyên sâu, trình độ thấp. Sản xuất nông
nghiệp có nhiều việc gồm các khâu với các tính chất khác nhau. Hơn nữa mức
độ áp dụng máy móc thiết bị vào sản xuất còn thấp vì thế mà sản xuất nông
nghiệp chỉ đòi hỏi về sức khỏe, sự lành nghề và kinh nghiệm. Mỗi lao động có
thể đảm nhận nhiều công việc khác nhau nên lao động nông thôn ít chuyên sâu
hơn lao động trong các ngành công nghiệp và một số ngành khác. Bên cạnh đó,
phần lớn lao động nông nghiệp mang tính phổ thông, ít được đào tạo, sản xuất
chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm và sức khỏe, tổ chức lao động đơn giản,
công cụ lao động cũng thô sơ mang tính tự chế cao. Lực lượng chuyên sâu, lành
nghề, lao động chất xám không đáng kể, phân bố lao động không đồng đều, vì
vậy mà hiệu suất lao động thấp, khó khăn trong việc tiếp thu công nghiệp hiện
đại vào sản xuất.
- Lao động nông thôn nước ta còn mang nặng tư tưởng và tâm lý tiểu
nông, sản xuất nhỏ, ngại thay đổi nên thường bảo thủ và thiếu năng động, sáng

tạo.
1.1.2. Khái niệm cơ cấu xã hội - nghề nghiệp

10


11

Cơ cấu xã hội là kết cấu tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội nhất
định trong đó có sự thống nhất bền vững tương đối của các yếu tố, thành phần,
mối liên hệ cơ bản của hệ thống xã hội đó. Cơ cấu xã hội nằm trong bản thân xã
hội, trước hết là một bộ phận, nhân tố cấu thành hệ thống xã hội. Các quan niệm
về cơ cấu xã hội đều thừa nhận sự gắn kết giữa cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội.
Cơ cấu xã hội còn được quan niệm là tổng thể các nhóm xã hội có liên hệ
tác động qua lại với nhau, cũng như các thiết chế xã hội và các mối quan hệ của
chúng. Cơ chế tồn tại và phát triển của cơ cấu xã hội được chứa đựng trong hệ
thống hoạt động của con người. Sự phân công lao động xã hội như nguồn gốc
sâu xa nhất của các khác biệt xã hội, là chìa khoá để giải thích lịch sử các mối
quan hệ xã hội, nó mang tính nguyên tắc đối với quá trình cấu tạo nhóm.
Cơ cấu xã hội là mối liên hệ vững chắc của các thành tố trong hệ thống xã
hội: các cộng đồng xã hội (dân tộc; giai cấp) là những thành tố cơ bản về phần
mình, mỗi cộng đồng xã hội lại có những cơ cấu phức tạp với những tầng lớp
bên trong và những mối liên hệ giữa chúng”.
Như vậy, cơ cấu xã hội là khái niệm rộng, không chỉ liên quan tới hành vi
xã hội mà còn là mối tương tác giữa các yếu tố khác của hệ thống xã hội. Khi
nói tới cơ cấu xã hội, cần quan tâm đến những khía cạnh sau: Xã hội là một tổ
chức phức tạp, đa dạng của các mối liên hệ cá nhân, tổ chức xã hội và xã hội. Cơ
cấu xã hội có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ với các quan hệ xã hội. Quan hệ xã
hội là hình thức vận động của cơ cấu xã hội và ngược lại, cơ cấu xã hội là cơ sở
của sự tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội.

Nhờ có sự phân công lao động xã hội, nghề nghiệp được hình thành
một cách khách quan dưới sự tác động của nhiều quy luật. Một trong những
đặc trưng cơ bản của phân công lao động xã hội là sự phân công lao động
theo ngành nghề.
Trong Đại từ điển tiếng Việt có định nghĩa: “Nghề là công việc chuyên
làm theo sự phân công của lao động xã hội” [5,tr. 431].

11


12

Theo Từ điển tiếng Việt: “Nghề ” là công việc hàng ngày làm để sinh
nhai”; “ Nghề nghiệp : là nghề làm để mưu sống” [26,tr.726].
Theo giáo trình Kinh tế lao động: “Nghề nghiệp là hình thức phân công lao
động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn
thành những công việc nhất định” [7,tr.175].
Với tư cách là một hình thức lao động sản xuất nào đó trong xã hội, tác
giả E.A.Klimov khẳng định: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao động
vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội
(do sự phân công lao động xã hội mà có). Nó tạo cho con người khả năng sử
dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại
và phát triển” [36].
Từ các khái niệm trên chúng ta có thể hiểu, nghề nghiệp là một dạng lao
động vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội) vừa mang tính cá nhân (nhu
cầu bản thân), trong đó con người với tư cách là chủ thể tham gia lao động để
thỏa mãn những yêu cầu nhất định của xã hội và cá nhân.
Cơ cấu xã hội – nghề nghiệp là sự phân công lao động xã hội, là sự
chuyên môn hoá theo ngành của các tập đoàn xã hội nhằm thực hiện những chức
năng lao động của mình trong khuôn khổ của các tổ chức sản xuất xã hội chung

(tổ chức sản xuất hay phi sản xuất) trong nền kinh tế xã hội. Có thể nói cơ cấu
giai cấp là sự phân chia xã hội theo tầng lớp theo chiều ngang của cơ cấu xã hội.
Còn cơ cấu nghề nghiệp là sự phân chia cơ cấu xã hội theo chiều dọc của xã hội.
Mỗi một xã hội và mỗi một giai đoạn lịch sử đều có một thang giá trị
nghề nghiệp khác nhau. Khi điều kiện kinh tế – xã hội thay đổi thì thang giá trị
nghề nghiệp cũng thay đổi theo.
Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp xã hội chịu tác động mạnh mẽ của cơ cấu xã
hội – giai cấp và cơ cấu xã hội dân số. Sự phân công lao động xã hội là nhân tố
quan trọng để tạo ra sự phân chia lao động xã hội. Theo đó, cơ cấu xã hội – nghề
nghiệp là hệ quả của sự phân công lao động xã hội. Đặc trưng cơ bản của phân
công lao động xã hội là sự phân công lao động theo ngành nghề. Trong khuôn
12


13

khổ của sự phân công lao động xã hội sẽ xuất hiện những ngành nghề mới. Cơ
cấu xã hội - nghề nghiệp được xem là hệ thống gồm các nhóm người, các tầng
lớp khác nhau về ngành nghề.
Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản
xuất và trình độ học vấn của người lao động. Không những thế, nó còn phụ
thuộc vào các yếu tố khác như giới tính, truyền thống ngành nghề của cộng đồng
dân cư... Xã hội học nghiên cứu cơ cấu lao động nghề nghiệp nhằm tìm hiểu xu
hướng biến đổi của cơ cấu lao động nghề nghiệp và các nhân tố tác động, chi
phối quá trình biến đổi này.
Như vậy, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu
về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các nghề nghiệp trong một hệ
thống kinh tế - xã hội và trong một khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu xã hội nghề nghiệp luôn gắn với sự phân công lao động xã hội, là sự chuyên môn hóa
theo ngành của các tập đoàn xã hội, thực hiện các chức năng của mình trong
khuôn khổ của tổ chức sản xuất xã hội chung của tổ chức sản xuất của một

ngành nghề nào đó trong nền kinh tế xã hội.
1.1.3. Khái niệm đô thị hóa
Hiện nay các nhà khoa học đã nghiên cứu quá trình đô thị hóa và đưa ra
không ít định nghĩa cùng với những đánh giá về quy mô, tầm quan trọng và dự
báo tương lai của quá trình này.
Theo khoản 1, điều 3, Luật Quy hoạch đô thị, “Đô thị là nơi tập trung dân
cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông
nghiệp; là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành;
có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng
lãnh thổ, một địa phương; bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố, nội
thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Đô thị hóa là quá trình tập trung dân cư ngày
càng cao vào các đô thị và làm nâng cao vai trò của thành thị đối với sự phát
triển của xã hội ” [26, tr.6].
13


14

Theo cuốn Bách khoa toàn thư “Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị tính
theo tỷ lệ phần trăm giữa dân số đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay
diện tích của một vùng hay một khu vực ”. Nó cũng có thể tính theo tỷ lệ gia
tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách thứ nhất thì nó còn
được gọi là mức độ đô thị hóa còn theo cách thứ hai gọi là tốc độ đô thị hóa.
Dưới góc độ tiếp cận của Xã hội học, “Đô thị hóa chính là sự di cư từ
nông thôn ra thành thị, là sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống trong những
vùng lãnh thổ địa lý hạn chế được gọi là các đô thị ” [27, tr 8-10].
Theo khái niệm của ngành địa lý, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng
không gian hoặc mật độ dân cư hoặc thương mại hoặc các hoạt động khác trong
khu vực theo thời gian. Dưới góc độ tiếp cận này có thể hiểu đô thị hóa là một

quá trình biến đổi các khu vực lãnh thổ đô thị. Khu vực lãnh thổ ban đầu có thể
là cánh đồng nông nghiệp - lâm nghiệp, đất trống, đồi trọc hay khu dân cư nông
thôn”.
Theo tác giả Đồng Văn Tuấn: “Đô thị hóa là quá trình mở rộng mạng lưới
các thành phố và phổ biến lối sống thành thị, tập trung dân cư và đẩy mạnh các
hoạt động kinh tế khác nhau trên lãnh thổ, đô thị hóa là chỉ tiêu để xác định mức
độ phát triển của một quốc gia ” [28, tr.6].
Đô thị hóa là quá trình chuyển hóa và vận động phức tạp mang tính quy
luật, diễn ra trên quy mô toàn cầu, mang tính chất đặc trưng của sự phát triển
kinh tế - xã hội trong thời đại hiện nay. Đô thị hóa bao gồm những thay đổi đa
dạng về mặt kinh tế - xã hội, gắn với sự phát triển công – thương nghiệp, dịch
vụ và sự phân bố dân cư, phân bố sản xuất.
Như vậy, đô thị hóa là quá trình tập trung dân số vào các đô thị, diễn ra
trong mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của cách mạng khoa học kĩ thuật,
làm thay đổi sự phân bố lực lượng sản xuất, phân bố dân cư, thay đổi cơ cấu xã
hội - nghề nghiệp, văn hóa, xã hội, kết cấu giới tính, lứa tuổi của dân cư và môi
trường sống.
Đặc điểm của đô thị hoá
14


15

Đô thị hoá là sự phát triển về quy mô, số lượng, nâng cao vai trò của đô
thị trong khu vực và hình thành các chùm đô thị.
Đô thị hoá gắn liền với một thể chế kinh tế - xã hội nhất định, gắn liền
với sự biến đổi về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn, sự biến đổi ấy thể
hiện ở sự phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ…
Phương hướng, điều kiện phát triển của đô thị hoá phụ thuộc vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Ở các nước phát triển, đô thị hoá đặc trưng cho sự phát triển các nhân tố
theo chiều sâu, tạo điều kiện để điều tiết và khai thác tối đa các ích lợi, hạn chế
bất lợi của quá trình đô thị hoá, nâng cao điều kiện sống và làm việc, công bằng
xã hội, xóa bỏ khoảng cách thành thị và nông thôn…
1.2. Tính tất yếu chuyển đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp trong quá trình đô
thị hóa
1.2.1. Sự cần thiết chuyển đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp trong quá trình đô
thị hóa
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, quá trình đô thị hóa diễn ra
ngày càng nhanh và tạo nên nhiều sự thay đổi căn bản theo hướng đa dạng và
phức tạp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có cơ cấu xã hội –
nghề nghiệp. Có thể thấy sự cần thiết chuyển đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp
trong quá trình đô thị hóa trên một số bình diện sau:
Một là, đô thị hóa làm thay đổi sự phân bố dân cư, từ dạng phân tán ở các
vùng nông thôn sang dạng tập trung ở các đô thị, gắn với các hoạt động sản xuất
phi nông nghiệp. Theo đó tỷ lệ lao động phi nông nghiệp và vai trò của các
ngành dịch vụ tăng lên. Nhờ các cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng
khoa học kỹ thuật, tỉ lệ dân cư sống trong các khu đô thị ngày càng tăng lên,
nhịp độ đô thị hóa cũng diễn ra nhanh chóng: dân nhập cư tăng nhanh, cơ sở hạ
tầng vật chất kĩ thuật phát triển và tăng diện tích đất phi nông nghiệp. Điều đáng
quan tâm, đô thị hóa không chỉ tập trung về mặt số lượng mà về mặt chất lượng
và cơ cấu nguồn lao động cũng có sự phát triển vượt bậc. Nó đáp ứng được các
15


16

yêu cầu đòi hỏi của phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật và dịch vụ đang mở ra
rất phong phú trong bối cảnh đa dạng hóa ngành nghề hiện nay. Vì vậy, xu
hướng biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp đã trở thành nhu cầu nội tại của quá

trình đô thị hóa.
Hai là, đô thị hóa không chỉ gắn với sự phát triển công nghiệp mà còn gắn
với sự phát triển của các ngành dịch vụ khác như giao thông vận tải, thông tin
liên lạc, tài chính – ngân hàng, khoa học giáo dục, y tế… Điều này tất yếu dẫn
đến nhu cầu chuyển đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp của dân cư.
Ba là, qúa trình đô thị hóa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và
hệ thống kinh tế vùng nông thôn, thúc đẩy đầu tư xây dựng các tuyến đường từ
liên thôn, liên xã, liên huyện và tỉnh. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển sản
xuất và lưu thông hàng hóa. Nhờ vậy, nhiều ngành nghề mới tất yếu cũng có
điều kiện để hình thành và do đó, sự chuyển đổi cơ cấu xã hội – giai cấp trở
thành vấn đề tất yếu khách quan.
Bốn là, đô thị hóa có tác động mạnh tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Các đô thị có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa
phương, các vùng trong nước. Đô thị là nơi sử dụng đông đảo lực lượng lao
động có trình độ chuyên môn kĩ thuật; có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, có sức
hút đối với đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo ra động lực cho sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Các đô thị có khả năng tạo ra nhiều việc làm và thu nhập
cho người lao động. Chính điều này đã thúc đẩy và hình thành tư duy thay đổi
ngành nghề trong phần lớn các bộ phận dân cư.
Năm là, đô thị hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sản xuất hàng hóa và
dịch vụ thường đạt hiệu quả cao tại những đô thị có quy mô mật độ dân số tương
đối lớn với nguồn lao động dồi dào, có quy mô hoạt động kinh tế đủ lớn do các
doanh nghiệp tập trung đông, có hệ thống phân phối rộng khắp và tốc độ tăng
trưởng cao đã tạo ra hiệu ứng lan tỏa kích thích mạnh tới tăng trưởng kinh tế.
Với tác động tích cực này, đô thị hóa đã tạo sức hút, tạo điều kiện và môi trường
xã hội rộng lớn để người lao động nhận thấy sự cần thiết phải chuyển đổi nghề
16


17


nghiệp theo hướng đa dạng và phát huy được lợi thế của địa phương cũng như
lợi thế của chính bản thân.
Sáu là, đô thị hóa góp phần cải thiện đời sống của dân cư đô thị và các
vùng lân cận. Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà có thể tạo ra
nhiều cơ hội việc làm mới cho người dân, góp phần quan trọng trong việc nâng
cao thu nhập cho họ. Khi mức thu nhập bình quân đầu người/tháng tăng lên thì
nhu cầu chi tiêu đời sống của dân cư cũng tăng nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu
tiêu dùng cá nhân.
Một điều rõ ràng mà chúng ta nhận thấy là quá trình đô thị hóa,
CNH,HĐH diễn ra đã dẫn đến rất nhiều thay đổi ngay cả trong cuộc sống đời
thường hàng ngày của mỗi người. Quá trình này còn ảnh hưởng đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và đồng thời tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động. Nếu xét
dưới góc độ cá nhân lao động, quá trình đô thị hóa sẽ khiến công việc, nghề
nghiệp của họ có những thay đổi. Người lao động ở mọi trình độ đào tạo luôn
mong muốn có một việc làm ổn định phù hợp với khả năng lao động và có thu
nhập đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, mức sống chung cho chính bản thân và cả gia
đình họ. Thế nhưng do quá trình đô thị hóa mà người lao động nông thôn nhất là
lao động nông nghiệp phải chuyển đổi nghề nghiệp thì mới có thể kiếm sống để
tồn tại được. Mặt khác, khi kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các
ngành sản xuất kinh doanh, làm cho các ngành này được nâng cấp đổi mới để
đáp ứng thị trường trong nước và ngoài nước. Vì vậy nguồn lực trong các ngành,
lĩnh vực này đòi hỏi phải được đào tạo nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu.
Điều này lý giải vì sao việc chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp đã trở thành
vấn đề mang tính tất yếu khách quan, là điều cần thiết giúp người lao động có
được những ngành nghề khác nhau theo xu hướng tất yếu.
Đặc biệt ở nông thôn quá trình đô thị hóa đang diễn ra làm cho người
nông dân bị mất một phần ruộng đất canh tác, họ rơi vào tình trạng thất nghiệp,
không có việc làm. Cho nên việc chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp cho bộ
phận người lao động này là nhu cầu khách quan, là yêu cầu nội tại của sự phát

17


18

triển xã hội. Đây là vấn đề hết sức cần thiết không thể không quan tâm nghiên
cứu và tìm biện pháp để phát huy tác động tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của quá trình đô thị hóa đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung ở mỗi
địa phương.
Thực tế đã chỉ ra rằng, đô thị hóa là quá trình mở rộng mạng lưới
các thành phố và đẩy mạnh các hoạt động kinh tế khác nhau trên lãnh thổ, do đó
khi diện tích đất nông nghiệp của người lao động ở nông thôn bị thu hẹp, nếu
bản thân họ không chủ động tìm kiếm việc làm mới, không chuyển đổi sang
nghề nghiệp khác như nghề công nghiệp, thương mại, dịch vụ… thì cuộc sống
của họ sẽ trở nên khó khăn. Khi đó, vấn đề chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề
nghiệp cho người lao động không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý
nghĩa về mặt xã hội.
Cùng những trở ngại về kinh tế, tình trạng thất nghiệp là nguyên nhân
của nhiều tệ nạn xã hội. Khi không có việc làm, không có thu nhập để tồn tại
trong cuộc sống với nhiều cám dỗ như hiện nay thì một bộ phận người lao động
nhất là lao động nông thôn do thời gian nhàn dỗi, thiếu việc làm cộng với trình
độ lao động thấp không có khả năng tìm việc, chuyển đổi sang nghề phi nông
nghiệp đã bị lôi kéo tham gia các hoạt động trái pháp luật, làm hủy hoại bản thân
và ảnh hưởng đến lợi ích của xã hội. Hệ lụy này tất yếu khách quan đòi hỏi
chính quyền các cấp phải quan tâm thỏa đáng bằng việc định hướng và tăng
cường quản lý, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu xã hội – nghề nghiệp theo hướng
tích cực. Nếu không sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế, đến
phát triển văn hóa xã hội trên nhiều bình diện.
Chính vì tất cả những điều trên cho thấy sự cần thiết phải chuyển đổi cơ
cấu xã hội - nghề nghiệp cho người lao động nhất là lao động nông thôn khi quá

trình đô thị hóa nông thôn đang và sẽ diễn ra ngày một nhanh hơn.
1.2.2. Xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội - nghề nghiệp trong quá trình đô
thị hóa

18


19

Quá trình đô thị hóa cùng với quá trình CNH,HĐH đã làm cho cơ cấu
kinh tế thay đổi và đồng thời với đó là quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động và
cơ cấu xã hội – nghề nghiệp. Đây thực chất là quá trình giảm dần lao động nông
nghiệp, tăng lao động các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có năng suất
lao động cao hơn.
Một khi kinh tế phát triển tất nhiên sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế,
từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, kéo theo đó là sự thay đổi nhu cầu
về lao động. Điều đó tác động tạo ra nhận thức và cách làm mới về chuyển đổi
cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của người lao động nói chung và lao động ở nông
thôn nói riêng. Khi đó muốn đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, người lao động
phải nhận thức vấn đề ở chỗ làm sao tìm được một nghề phù hợp với sự phát
triển không ngừng của xã hội. Điều đó dẫn đến xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã
hội - nghề nghiệp cho người lao động từ nông nghiệp chuyển sang những nghề
phi nông nghiệp.
Quá trình đô thị hóa đã và đang diễn ra với tốc độ cao hình thành các khu
công nghiệp, các trung tâm thương mại, mở rộng đô thị… cụ thể là:
Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các đô
thị lớn. Sự hình thành các khu trung tâm có tính chất chuyên ngành trong những
đô thị lớn là xu thế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đô thị, là biểu hiện
của tính tập trung hóa trong sản xuất. Tuy nhiên, quy mô sản xuất và hoạt động
thương mại dịch vụ sẽ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và quy

mô dân số của vùng để đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Đồng thời các trung tâm
này còn là điểm nối, hay sự chuyển tiếp giữa các đô thị lớn làm cho tính hiệu
quả của hệ thống đô thị được nâng cao. Trong quá trình đô thị hóa, các trung tâm
này sẽ trở thành những đô thị vệ tinh của các đô thị lớn.
Mở rộng các đô thị hiện có: Việc mở rộng các đô thị hiện có là xu thế tất
yếu khi nhu cầu về đất xây dựng đô thị tăng và khả năng mở có thể thực hiện
tương đối dễ. Xu hướng này tạo sự ổn định tương đối và giải quyết được các vấn
đề quá tải cho đô thị hiện nay.
19


20

Chuyển đổi một số vùng nông thôn thành đô thị. Đây là xu hướng hiện đại
được thực hiện trong điều kiện có đầu tư lớn của nhà nước. Vấn đề cơ bản là tạo
nguồn tài chính để cải tạo đất, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại phục vụ đắc lực
cho sự chuyển đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp theo hướng đa dạng hóa ngành
nghề hiện nay.
Có thể khái quát sự biến đổi của cơ cấu xã hội - nghề nghiệp theo các
hướng cơ bản dưới đây:
Nếu xem xét cơ cấu xã hội - nghề nghiệp theo nhóm ngành kinh tế, thì sự
biến đổi cơ cấu đó trong giai đoạn đang có sự chuyển dịch tích cực từ nông,
lâm, ngư nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ các ngành có năng suất thấp
sang ngành có năng suất cao hơn. Quá trình chuyển đổi cơ cấu xã hội – nghề
nghiệp ở nông thôn đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung với quy
mô lớn, phát huy thế mạnh, tiềm năng của các địa phương. Quá trình này đồng
nghĩa với việc gia tăng các mô hình trồng trọt, chăn nuôi có quy mô lớn gắn liền
với sản xuất hàng hóa; mô hình hộ gia đình vừa sản xuất hàng hóa, vừa kinh
doanh phục vụ sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ nông sản; mô hình sản xuất
trang trại; các làng nghề dịch vụ nông nghiệp hoặc phi nông nghiệp; chế biến

nông sản. Từ đó, cơ cấu xã hội – nghề nghiệp ở nông thôn có sự chuyển dịch từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Song song với sự chuyển dịch đó, sự
phân công lao động ở nông thôn cũng diễn ra theo hướng lao động nông nghiệp,
nông thôn ngày càng giảm, lao động ở các ngành công nghiệp, thương mại, dịch
vụ tăng lên.
Nếu xem xét cơ cấu xã hội - nghề nghiệp theo thành phần kinh tế thì tỷ lệ
lao động thuộc kinh tế nhà nước giảm xuống, trong khi tỷ lệ lao động ngoài nhà
nước và khu vực đầu tư nước ngoài tăng lên.
Nếu xem xét cơ cấu xã hội - nghề nghiệp theo khu vực thì tỷ lệ lao động
ở khu vực thành thị tăng lên, trong khi lao động ở vùng nông thôn giảm xuống.

20


21

Ba xu hướng biến đổi nêu trên đang tạo ra nhiều thuận lợi, thời cơ nhưng
cũng đưa đến nhiều khó khăn thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của khu vực nông thôn. Có thể nhìn nhận vấn đề này ở các khía cạnh dưới đây:
Không thể phủ nhận đô thị hóa có nhiều tác động tích cực đối với kinh tế
-xã hội nông thôn. Tại các khu vực đô thị hóa thường có sự tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng nhờ tập trung lực lượng sản xuất, tạo năng suất lao động cao, cách
tổ chức lao động hiện đại. Quá trình này vừa làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp sang công nghiệp – dịch vụ, vừa làm tăng tổng việc làm tại khu vực nông
thôn và đô thị. Do đó, đô thị hóa góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người dân, hình thành lối sống công nghiệp, văn minh đô thị và quan
hệ xã hội mới.
Đô thị hóa cũng mở ra khả năng cũng cấp các hàng hóa, dịch vụ đô thị
phục vụ tốt hơn cho cuộc sống và nhu cầu của con người; khả năng tiếp cận với
các các dịch vụ giáo dục, chăm sóc sức khỏe, nghỉ ngơi giải trí, đi lại du lịch,

các hoạt động văn hóa; cuộc sống dân cư đa dạng và phong phú hơn, nhạy bén
với các thay đổi trên phạm vi vùng, quốc gia và toàn cầu nhờ vào mạng lưới
giao tiếp xã hội , thông tin truyền thông.
Tuy nhiên đô thị hóa quá mức cũng gây ra những mặt trái như: thiếu đất
xây dựng nhà cửa và các công trình phúc lợi công cộng; điều kiện sống của một
bộ phận dân cư trở nên tồi tàn và mất vệ sinh, thiếu điện, nước, cây xanh, nơi
vui chơi giải trí; thất nghiệp nghèo đói, tội phạm và tệ nạn xã hội cũng gia tăng...
Về vấn đề việc làm cho người lao động : Trong quá trình đô thị hóa đã có
những tích cực về lao động, việc làm nông thôn được thể hiện trên khía cạnh tạo
thêm cơ hội việc làm cho những ngành nghề phi nông nghiệp và tăng thu nhập
cho người dân; rút bớt lao động khỏi nông nghiệp và tạo cơ hội phân công lại
lao động cũng như tăng năng xuất lao động khu vực nông thôn. Mặt khác, do thu
hẹp đất canh tác và thay cơ cấu ngành nghề, khiến một bộ phận lao động nông
nghiệp mất việc làm hoặc việc làm không đầy đủ. Họ không thể chuyển đổi sang
các ngành nghề - dịch vụ phi nông nghiệp, do đó lâm vào tình trạng khó khăn và
21


×