Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Nghiên cứu mối liên quan giữa số lượng, chất lượng tinh trùng trước và sau lọc rửa với tỷ lệ có thai của kỹ thuật IUI tại bệnh viện trường đại học y hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 96 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cuộc sống của mỗi người, gia đình và con cái luôn là nguồn hạnh
phúc chính và là động lực của sự trường tồn nòi giống. Khi một cặp vợ chồng
không thể thực hiện chức năng sinh sản họ sẽ phải đối mặt với nhiều áp lực
của gia đình và xã hội. Vì vậy vô sinh (VS) không đơn thuần là một loại bệnh
lý của y học mà còn là vấn đề lớn của xã hội.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), VS là tình trạng không có thai sau
một năm chung sống vợ chồng, sinh hoạt tình dục đều đặn và không sử dụng
bất kỳ biện pháp tránh thai nào [1]. Tùy theo từng nước tỉ lệ này thay đổi từ
10% - 18%. Ở Việt Nam tỷ lệ VS ngày càng tăng cao. Tỷ lệ này theo Nguyễn
Khắc Liêu là 13%, trong đó nguyên nhân do chồng là 40%, do vợ là 40% số
còn lại là không rõ nguyên nhân[2].
Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intra Uterine Insemination - IUI) có
hoặc không kích thích buồng trứng kèm theo thường là phương pháp điều trị
đầu tiên và được áp dụng rộng rãi với các hướng dẫn về chỉ định cho những
cặp vợ chồng vô sinh không rõ nguyên nhân, có kháng thể kháng tinh trùng,
lạc nội mạc tử cung nhẹ, vô sinh do thiểu hoặc nhược tinh nhẹ...IUI là phương
pháp điều trị rẻ hơn, ít xâm lấn hơn, đơn giản hơn trước khi thực hiện các
phương pháp khác cho những bệnh nhân vô sinh như ICSI, IVF...
Trên thế giới phương pháp thụ tinh nhân tạo bằng cách bơm tinh trùng
(TT) tươi vào buồng tử cung (BTC) đã được đề cập từ nhiều năm nay. Từ
những năm 1970 - 1980 kỹ thuật IUI sử dụng TT đã được lọc rửa được áp
dụng đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của kĩ thuật thụ tinh nhân tạo, đặc biệt là các
ưu điểm về kĩ thuật và mức độ an toàn của nó so với các phương pháp bơm
tinh dịch tươi. Trong các nghiên cứu trước đây tỷ lệ có thai của IUI thay đổi
theo tiêu chí lựa chọn bệnh nhân, sự hiện diện của các yếu tố vô sinh khác


2



nhau, phương pháp kích thích buồng trứng, số chu kỳ tiến hành, các tham số
của tinh dịch trước và sau chuẩn bị, phương pháp chuẩn bị tinh trùng…[3-10].
Ở Việt Nam hiện nay, phương pháp nàyđã được triển khai rộng rãi đến
tuyến tỉnh và các trung tâm y tế có cán bộ được đào tạo và có đủ trang thiết bị
đáp ứng cho kỹ thuật này. Nguyễn Xuân Bái và cộng sự (2012) nghiên cứu tại
trung tâm công nghệ phôi - Học viện Quân Y thấy tỷ lệ có thai là 9,7% và tỷ
lệ này có mối liên hệ với số lượng và chất lượng của TT người chồng[8].
Theo Đỗ Tiến Dũng (2012) tỷ lệ có thai là 17,7% trong đó nguyên nhân do
chồng (TT yếu, bất thường phóng tinh) chiếm 15,8%[11]. Bệnh viện Trường
Đại học Y Hà Nội đã triển khai phương pháp điều trị này từ năm 2012, tuy
nhiên chưa có một nghiên cứu nào thống kê, đánh giá kết quả của phương
pháp và mối liên quan với số lượng và chất lượng của tinh trùng. Xuất phát từ
cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với
mục tiêu nghiên cứu là:
1. Đánh giá đặc điểm mẫu tinh dịch trước và sau lọc rửa của bệnh nhân
điều trị vô sinh tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
2. Nhận xét kết quả và một số yếu tố liên quan của kỹ thuật bơm tinh
trùng đã lọc rửa vào buồng tử cung.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Định nghĩa, tình hình và nguyên nhân vô sinh
1.1.1. Định nghĩa về vô sinh
Theo Tổ chức Y tế thế giới, VS là tình trạng không có thai sau một năm
chung sống vợ chồng, sinh hoạt tình dục đều đặn và không sử dụng bất kỳ biện
pháp tránh thai nào [1].

Đối với những trường hợp mà nguyên nhân VS đã tương đối rõ ràng thì
việc tính thời gian không còn được đặt ra. Ví dụ phụ nữ vô kinh, đàn ông liệt
dương, hoặc với các cặp vợ chồng mà vợ trên 35 tuổi, sau 6 tháng mong
muốn có con mà không có thai cũng đã được coi là VS, cần được khám và
điều trị sớm.
VS nguyên phát (VS I) là chưa có thai lần nào, còn VS thứ phát (VS II)
là trong tiền sử đã từng có thai ít nhất 1 lần. VS nam là VS có nguyên nhân
hoàn toàn do người chồng, VS nữ là khi nguyên nhân hoàn toàn do người vợ.
VS không rõ nguyên nhân là trường hợp khám và làm các xét nghiệm thăm
dò kinh điển hiện có mà không phát hiện được nguyên nhân nào có thể giải
thích được[2].
1.1.2. Tình hình và nguyên nhân vô sinh
Thế giới: tùy từng nước, tỷ lệ VS thay đổi từ 10% - 18%, đột xuất có nơi
lên tới 40%. Tại Pháp VS chiếm khoảng 1/6 các cặp vợ chồng, Ở Hoa Kỳ
năm 1999 tỷ lệ này là 15% [2],[12].
Về nguyên nhân VS theo tổ chức Y tế thế giới năm 1985, khoảng 20% là
không rõ nguyên nhân, 80% có nguyên nhân trong đó VS nữ 40%, VS nam
40% và do cả hai là 20% [2],[3],[12].Theo Irvine, tần suất VS nam được báo
cáo bởi nhiều nghiên cứu lớn thay đổi từ khoảng 20% - 60% [13].


4

Theo điều tra dân số quốc gia năm 1982, VS chiếm 13%[2]. Nguyễn
Viết Tiến và cộng sự điều tra các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ năm
2009 tại 8 tỉnh đại diện cho 8 vùng sinh thái trong cả nước Việt Nam thì tỷ
lệ VS chung trên toàn quốc là 7,7%, trong đó VS nguyên phát là 3,9%, VS
thứ phát là 3,8%[14]. Theo Cung Thị Thu Thủy (2009), nghiên cứu tại 4
tỉnh phía bắc, tỷ lệ VS chung là 7,1%, VS nguyên phát là 3,6%, VS thứ
phát là 3,5%[15].

Theo nghiên cứu của Nguyễn Khắc Liêu và cộng sự tại Viện Bảo vệ Bà
mẹ và Trẻ sơ sinh[16] trong các năm 1993 - 1997 trên 1000 trường hợp VS
đầy đủ các xét nghiệm thăm dò về độ thông của đường sinh dục nữ, về phóng
noãn, về TT, thấy tỉ lệ VS nữ chiếm 55,4%, VS nam 35,6% và VS không rõ
nguyên nhân 10%. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thành Như và cộng sự
(2001) tại bệnh viện Bình Dân [17]nguyên nhân VS do nam đơn thuần là 30%
và do cả hai vợ chồng là 20%.
Nghiên cứu của Đào Xuân Hiền tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương
(BVPSTW) (2007) trên 300 cặp vợ chồng, tỷ lệ VS do vợ là 38,6%, do chồng
là 20,5%, cả hai vợ chồng là 6% còn lại 34,9% không rõ nguyên nhân [18].
Theo Đỗ Tiến Dũng (2012) cũng tại BVPSTW tỷ lệ có thai là 17,7% trong đó
nguyên nhân do chồng (tinh trùng yếu, bất thường phóng tinh) chiếm 15,8%,
do vợ 41,8%, cả 2 là 2,8%, không rõ nguyên nhân là 39,6% [11].
1.2. Sự thụ thai
Sự thụ thai bao gồm hai quá trình: sự thụ tinh và sự làm tổ của phôi.
Thụ tinh là sự kết hợp của một tế bào đực (tinh trùng) và một tế bào cái
(noãn) để tạo thành một tế bào mới là hợp tử [19].


5

1.2.1. Tinh trùng và tinh dịch đồ
1.2.1.1. Tinh trùng bình thường
Tinh trùng (TT) bình thường với kích thước 5,0 x 3,5 µm, có đầu hình
oval đều đặn, với phần acrosome dễ xác định chiếm khoảng 40 - 70% phần
chóp nhọn của đầu. Dưới phần đáy của đầu kéo dài thành một đuôi
(flagellium) được gắn cân xứng với phần đầu. Ngay dưới phần đầu, phần đầu
tiên của đuôi được coi như là phần giữa (mid-piece) có vẻ như to hơn 1 chút
so với phần đuôi, chiều ngang tối đa là 1µm và dài khoảng 7,0 - 8,0 µm.
Đường kính phần đuôi từ 0,4-0,5 µm và dài khoảng 50 µm. Đuôi không được

bị cuộn hay có đường kính không đồng nhất. Phần đuôi cũng không được gẫy
khúc một cách bất thường và có điểm cuối dễ nhìn thấy. Để tuân thủ trong việc
đánh giá hình dạng, tất cả những dạng không nằm trong ranh giới giới hạn bình
thường kể trên đều được coi là bất thường [20].

Hình 1.1. Hình dạng và kích thước tinh trùng bình thường[20]


6

1.2.1.2.Sự chọn lọc tinh trùng trong tự nhiên
Trong chu kỳ tự nhiên, quanh thời điểm phóng noãn, chất nhầy cổ tử cung
(CTC)có tác dụng như một hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của bạch cầu,
prostaglandin (PG) và các tác nhân gây nhiễu khác có trong tinh dịch. Hơn
nữa, với tác dụng như một màng lọc, chất nhầy CTC chỉ cho phép những
TT di động nhanh, có hình dạng và kích thước bình thường đi qua CTC để
vào trong buồng tử cung (BTC). Ngoài ra, để tăng cường khả năng thụ tinh,
chất nhầy CTC còn có tác dụng như một nơi chứa TT tạm thời. Từ nơi
chứa này, TT sẽ lần lượt được phóng thích vào lòng tử cung (TC) và di
chuyển lên vòi tử cung (VTC).
Dựa vào hiện tượng xảy ra trong cơ thể, người ta đã xây dựng nên các
nguyên lý cơ bản của việc chuẩn bị TT để sử dụng trong các kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản. Theo đó, tinh dịch và những TT chết, bất động hay có hình dạng bất
thường phải được loại bỏ, để cuối cùng thu được nhiều TT với chất lượng tốt
nhất. Ngoài ra, trong quá trình chuẩn bị TT, các chất ngăn cản phản ứng khả
năng hoạt hóa cũng bị loại bỏ, và trong một số trường hợp, người ta có thể
thêm vào những chất kích thích phản ứng này xảy ra.
1.2.1.3. Sức sống và khả năng hoạt hóa của tinh trùng
Sức sống và năng lực hoạt động của TT biểu lộ bằng sự chuyển động
nhờ đuôi của nó. Nhờ đuôi, TT có thể tự chuyển động trong đường sinh dục

của người nữ (âm đạo, TC, VTC) với tốc độ 2 - 4 mm/phút. Ở người những
TT khỏe là những TT còn chuyển động được sau 50 giờ sau khi xuất tinh.
Những TT yếu thường chết sau 15 phút. Trên tinh dịch đồ (TDĐ), để đánh giá
khả năng thụ tinh, người ta xác định tinh dịch tốt phải chứa 80% TT chuyển
động sau khi xuất tinh 1 giờ hoặc 50% TT chuyển động sau xuất tinh 12 giờ
hoặc 25% TT chuyển động sau xuất tinh 28 giờ [21]. Giảm khả năng thụ tinh
nếu giảm tỷ lệ phần trăm TT có khả năng chuyển động.


7

Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sức sống và năng lực của TT thụ tinh cho
noãn: ở môi trường kiềm, TT chuyển động tích cực nhưng mau chóng sử
dụng hết chất dinh dưỡng nên chết sớm. Nồng độ CO2 trong môi trường cao
do TT thải ra sẽ làm giảm năng lực hoạt động của TT. Mật độ của TT trong
một đơn vị thể tích đóng vai trò quan trọng. Nếu mật độ đó giảm, sức sống và
năng lực TT thụ tinh cho noãn cũng giảm. Nhiệt độ môi trường ảnh hưởng
nhiều đến khả năng hoạt động và sức sống của TT. Nhiệt độ thấp duy trì sức
sống và năng lực của TT, nhiệt độ từ 36 - 400C sẽ làm cho TT hoạt động
mạnh và di chuyển nhanh nhưng lại làm cho TT suy kiệt và chết. Nhiệt độ cao
trên 400C thì TT hoạt động rất kém và rất nhanh chết.
1.2.1.4. Tinh dịch đồ
Trong quá trình khám và chẩn đoán một cặp vợ chồng VS, tinh dịch đồ
là một xét nghiệm thường quy, bắt buộc. Tinh dịch đồ (TDĐ) là một xét
nghiệm đơn giản, dễ thực hiện cũng là xét nghiệm cơ bản, đầu tiên được làm
để đánh giá bước đầu khả năng sinh sản của người chồng [21]. Để chuẩn hóa
các kết quả giúp cho việc nghiên cứu và thực hành lâm sàng, WHO đã đưa ra
các tiêu chuẩn của mẫu tinh dịch bình thường vào năm 1980. Các tiêu chuẩn
này được thay đổi vào các năm 1987, 1992, 1999 và 2010.
Bảng 1.1. Một số giá trị bình thường của TDĐ

Chỉ số TDĐ
Thể tích
Độ ly giải
pH
Mật độ tinh trùng(/ml)
Tổng số tinh trùng
Di động
Tỷ lệ sống
Hình dạng bình thường
Bạch cầu

1999
≥ 2 ml
< 60 phút
7,2 – 8
≥ 20x106
≥ 40x106
A > 25%
Hoặc A+B ≥ 50%
≥ 75%
≥ 30%
< 1x106

2010
≥ 1,5 ml
< 60 phút
≥ 7,2
≥ 15x106
≥ 39x106
PR ≥ 32% hoặc

PR + NP ≥ 40%
≥ 58%
≥ 4%
< 1x106


8

* Độ di động của TT được đánh giá như sau:
Trong tiêu chuẩn WHO 1999:
A: di động tiến tới, nhanh. Ở nhiệt độ 370C, soi trên kính hiển vi tốc độ
di chuyển của TT ≥ 25 µm/giây tương đương 5 lần chiều dài đầu, 1/2 lần
chiều dài đuôi và ≥ 20 µm/giây ở nhiệt độ 200C.
B: di động tiến tới, chậm.
C: di động không tiến tới (nhúc nhích tại chỗ < 5 µm/giây).
D: không di động
Trong đó A là chỉ số quan trọng.
Trong tiêu chuẩn WHO 2010:
PR (progressive motility): di động tiến tới, khi TT di động nhanh, thành
đường thẳng hoặc vòng tròn lớn mà không tính đến tốc độ di chuyển.
NP (non - progessive motility): di động không tiến tới hoặc di động tại
chỗ bao gồm tất cả những di động còn lại bao gồm di chuyển thành vòng tròn
nhỏ, đuôi di động rất khó khăn đầu mới nhúc nhích hoặc chỉ quan sát thấy
đuôi nhúc nhích.
Nghiên cứu của Willem Ombelet (2014) đã chỉ ra bốn yếu tố quan trọng
của tinh dịch ảnh hưởng đến tỷ lệ có thai là tổng số TT, số lượng TT di động,
hình thái TT bình thường, tỷ lệ di động. Trong đótác giả nhấn mạnh rằng tỷ lệ
hình thái TT bình thường ≥ 4% và tỷ lệ TT di động ≥ 30% là hai tiêu chuẩn
khắt khe để có kết quả khả quan sau IUI [22].
Một nghiên cứu của Mac Leod và Wang (1979) đã phát hiện ra rằng có

10% số người đàn ông khỏe mạnh trong độ tuổi sinh sản có mật độ TT
< 20 x 106/ml. Thêm vào đó, mật độ TT thấp được coi là thông số có ý nghĩa
với sức khỏe sinh sản [23].
Theo kinh điển, giới hạn bình thường của mật độ TT là 40 x 106/ml, hiện
nay WHO lấy giới hạn là 15 x 106/ml. Tuy nhiên trên thực tế, theo kinh


9

nghiệm của Nguyễn Khắc Liêu, mật độ TT tối thiểu để có thai tự nhiên được
tính là 40 x 106/ml. Nếu TT ở dưới giới hạn này không có nghĩa là VS mà là
khả năng có thai bị giảm [24].
1.2.1.5. Các bệnh lý rối loạn quá trình tạo tinh trùng
Khả năng sinh sản của nam giới phụ thuộc vào số lượng, chất lượng của
tinh trùng và các yếu tố đảm bảo sự di chuyển của tinh trùng từ nơi nó được
sinh ra vào đường sinh dục nữ và kết thúc là gặp được noãn bào[25].
Các bệnh lý rối loạn quá trình tạo TT chia làm hai nhóm:
- Rối loạn quá trình tạo TT do rối loạn các hormon hướng sinh dục
(nguyên nhân trước tinh hoàn).
- Rối loạn TT do bệnh lý của tinh hoàn (nguyên nhân tại tinh hoàn).
 Rối loạn quá trình tạo TT do rối loạn các hormon hướng sinh dục
 Suy giảm hormon hướng sinh dục nguyên phát: thiếu hụt hormon
vùng dưới đồi, những rối loạn chức năng hoặc bất thường hình thái của vùng
dưới đồi dẫn đến suy giảm GnRH. Điều này dẫn đến thay đổi quá trình sinh
tổng hợp và chế tiết hormon hướng sinh dục, giảm nồng độ LH, FSH trong
máu. Hậu quả quá trình sinh tinh bị giảm một phần hoặc hoàn toàn.
 Suy giảm hormon hướng sinh dục do tăng quá nhiều hormon khác:
- Sản xuất quá nhiều androgen: androgen không chỉ được tổng hợp ở
riêng tế bào Leydig mà còn được tổng hợp ở tuyến thượng thận.
 Rối loạn quá trình tạo TT do các bệnh lý của tinh hoàn

 Các bệnh lý của tinh hoàn do rối loạn gen:
Gồm các rối loạn nhiễm sắc thể giới tính trong quá trình biệt hóatinh hoàn:
Hội chứng Klinefelter: là bệnh rối loạn số lượng nhiễm sắc thể
(47,XXY). Tổn thương tinh hoàn diễn ra một cách từ từ.
 Rối loạn quá trình tạo TT tại tinh hoàn do một số nguyên nhân khác:
tổn thương tế bào dòng tinh do ngoại môi: các tế bào dòng tinh trong ống sinh
tinh phân chia với tốc độ cao để tạo TT. Vì vậy nhiều tác động ngoại cảnh có
thể ảnh hưởng tới quá trình tạo tinh trùng.


10

1.2.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tinh trùng
Gần đây theo nhiều nghiên cứu trên thế giới người ta nhận thấy mật độ
tinh trùng có xu hướng giảm đi. Câu hỏi đặt ra là: điều gì làm suy giảm khả
năng sinh tinh và chất lượng TT. Qua các nghiên cứu người ta thấy sự giảm
sút chất lượng TT liên quan tới các tác nhân vật lý, hóa học, các bệnh lý
nhiễm trùng cấp và mãn tính, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, tiền sử
dùng thuốc, tiền sử phẫu thuật hoặc chấn thương sinh dục[26].
 Tuổi
Liệu khi người nam giới có tuổi sự sản sinh TT có ít đi không vàchất
lượng tinh trùng có ảnh hưởng không?
Vào năm 2000 trong nghiên cứu ở Đức của Krause thực hiện trên 253
người đã đưa ra kết quả là: thể tích tinh dịch, số lượng và độ di động của TT
không thay đổi theo tuổi [27].
Gần đây năm 2005 một báo cáo của Bairdvà cộng sự khi tiến hành
nghiên cứu và thấy có sự tăng lên đáng kể sự bất thường chromosomes trong
TT của các nam giới lớn tuổi[28].
Theo thời gian, khi người đàn ông có tuổi khối lượng cơ sẽ giảm, khối
lượng mỡ trong cơ thể tăng vậy liệu khi chỉ số BMI cao ( Body Mass Index)

thì khả năng sản sinh tinh trùng có ảnh hưởng không? Đó là một câu hỏi mà
các nhà khoa học quan tâm.
Một nghiên cứu được thực hiện gầy đây ở trung tâm hỗ trợ sinh sản
Atlanta, Mỹ báo cáo kết quả nghiên cứu từ 117 nam giới trong đó 66 người có
chỉ số BMI cao. Người ta nhận thấy có mối liên hệ giữa những người đàn ông có
chỉ số BMI cao và sự suy giảm nồng độ testosteron ở những người này. Nồng độ
testosteron trong máu ở những người này giảm 24% so với những người trong
nhóm chứng. Hơn thế nữa cũng trong nghiên cứu này đã lưu ý rằng những người
đàn ông có chỉ số BMI cao thì có tuýp TT không bình thường [29].


11

 Ảnh hưởng của bệnh tật, các thuốc điều trị bệnh tới chất lượng TT
Một số bệnh tật ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản ở nam giới,quai
bị là một trong số đó. Nếu mắc quai bị trước tuổi dậy thì, ít xảy ra biến chứng
nhưng nếu mắc sau dậy thì, tỷ lệ biến chứng là 10-35%, dẫn đến viêm 1 hoặc
2 bên tinh hoàn, hậu quả là sự giảm sút về số lượng và chất lượng TT.
Bệnh giãn tĩnh mạch thừng tinh được đề cập nhiều tới như là một nguyên
nhân gây giảm chất lượng và số lượng TT. Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch thừng tinh trong số những người bị vô sinh
chiếm khoảng 20 – 40% các trường hợp. Tuy nhiên trong số nam giới bình
thường cũng có khoảng 15% bị giãn tĩnh mạch thừng tinh[30]. Cơ chế của
giãn tĩnh mạch thừng tinh gây vô sinh có thể là do làm tăng nhiệt độ tại tinh
hoàn, thiếu oxy hoặc do trào ngược các chất chuyển hóa từ tuyến thượng thận
đến tinh hoàn mà các chất này có ảnh hưởng đến quá trình sản xuất TT. Các
bất thường có thể gặp trong xét nghiệm tinh dịch đồ của bệnh nhân giãn tĩnh
mạch tinh là: giảm mật độ TT, giảm khả năng di động của TT, tăng tỷ lệ TT
có hình dáng bất thường. Ở nam giới bị giãn tĩnh mạch tinh thì 90% các mẫu
tinh dịch có tình trạng giảm di động TT, và 65% có mật độ TT< 20 triệu/ml.

Tổn thương tế bào dòng tinh còn do dùng các loại thuốc. Đa số các tế
bào dòng tinh bị các hoá chất chống ung thư ức chế ở pha tổng hợp tế bào và
phân bào.
Trong nghiên cứu của Wai Yee Wong và cộng sự về yếu tố bệnh tật ảnh
hưởng tới chất lượng TT thực hiện ở Nerthelands nhận thấy trong nhóm
người có tiền sử bệnh tật, có tiền sử dùng thuốc thì yếu tố gây nguy cơ cho
TT nhất là dùng kháng sinh (p = 0,002), những người có bệnh về dạ dày và
dùng thuốc điều trị dạ dày (p=0,02) kế đến mới là những người bị bệnh quai
bị (p = 0,04)[31].


12

Kháng sinh có thể tác động lên các ty thể của tế bào (người). Sự tác động
này có thể ảnh hưởng đến hoạt động của tế bào và đặc biệt đối với TT sẽ ảnh
hưởng đến khả năng di động của chúng [37].
Một số thuốc có thể gây rối loạn các hormon hướng sinh dục, phần lớn là
kháng lại androgen làm ảnh hưởng tới quá trình sinh TT như: Halothan có thể
gây viêm gan nhiễm độc hoặc một số thuốc như Ketoconazol, Cimetidin,
Quinin, Phenytoin có khả năng ức chế Cytocrom P450 C17(CYP 19). Vì vậy,
các thuốc này có thể làm giảm quá trình sinh tinh.
Bệnh lây truyền đường tình dục như giang mai có thể ảnh hưởng đến quá
trình sinh tinh bởi nó tác động trực tiếp đến tinh hoàn và mào tinh gây viêm
lan toả mô kẽ, kết hợp với viêm nội mạc và hình thành các gôm giang mai.
Bệnh lậu và bệnh phong không được điều trị cũng là nguyên nhân gây viêm
tinh hoàn làm giảm khả năng sinh tinh [32].
 Ảnh hưởng của môi trường đến chất lượng tinh trùng
Vào năm 2004 Stoy J và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu thuần tập
trên 1747 người đàn ông trong độ tuổi từ 18 đến 39 làm công việc nặng nhọc
trên 30 giờ trong tuần thấy rằng mật độ TT trong nhóm này này giảm đi đáng

kể so với nhóm chứng[33].
Cũng trong thời gian này một nghiên cứu khác của Wu JQ trên 562
người đàn ông khoẻ mạnh ở 7 tỉnh khác nhau của Trung Quốc nhận thấy rằng
có sự khác nhau rất rõ rệt về chất lượng TT ở các vùng khác nhau và yếu tố
môi trường có ảnh hưởng tới sự giảm sút chất lượng TT[34].
Tới năm 2006 Stefankiewicz J báo cáo về nghiên cứu của mình được
thực hiện ở những người nam giới tuổi từ 15 đến 44 ở Ba Lan. Ông nhận thấy
nguyên nhân gây suy giảm TT dẫn đến vô sinh thường thấy ở những người
đàn ông bị stress [35].


13

 Ảnh hưởng của thuốc lá, rượu và các chất kích thích tới chất lượng
của TT
Qua rất nhiều nghiên cứu và thực nghiệm người ta nhận ra rằng: hút
thuốc lá và uống rượu nhiều có thể ảnh hưởng có hại tới khả năng sinh sản
của nam giới. Cả hai tính chất: số lượng và độ di động của TT đều có thể bị
ảnh hưởng bởi hút thuốc lá, mặc dù uống nhiều rượu có thể làm giảm số
lượng TT, nhưng ảnh hưởng chính của nó là làm tổn thương tới sự chế tiết
testosteron, rượu làm tăng quá trình phân hủy hormon này, cũng như biến đổi
ngược lại thành estrogen. Điều này làm giảm ham muốn tình dục. Nghiện
rượu còn là một nguyên nhân lớn gây liệt dương.
Năm 2003 Wai Yee Wong và cộng sự thực hiện một nghiên cứu giữa 92
người vô sinh và 73 người bình thường ở Hà Lan cũng khẳng định hút thuốc
lá thực sự ảnh hưởng tới tinh trùng [31].
Ở Ba Lan năm 2006 có báo cáo nghiên cứu của Stefankiewicz J. Tác giả
nhận thấy có mối liên quan giữa những người hút thuốc lá và tình trạng ít TT
ở những người này [35].
Gần đây tháng 1 năm 2007 Ramlau-Hansen và cộng sự đã có một nghiên

cứu cắt ngang thực hiện trên 2562 người đàn ông làm các nghề khác nhau.
Kết luận của nghiên cứu là những người nghiện thuốc lá nặng có số lượng
tinh trùng giảm 19% so với những người không nghiện thuốc lá. Người ta tìm
thấy có sự liên quan giữa thuốc lá và suy giảm nồng độ testosteron cũng như
nồng độ LH. [61].
Nghiện cần sa nặng sẽ làm giảm nồng độ testosteron trong máu, giảm
mật độ TT trong tinh dịch [29].


14

1.2.2. Noãn bào
Trong buồng trứng có các noãn bào nguyên thủy. Trẻ sơ sinh gái từ khi
mới lọt lòng có từ 1.200.000 - 1.500.000 nang noãn nguyên thủy. Tuy vậy từ
dậy thì đến mãn kinh chỉ có khoảng 400 - 500 nang trưởng thành, số còn lại
thoái hóa và teo đi [19].
- Nang nguyên thủy phát triển thành nang De Graff. Trong nang De
Graff có noãn và các tế bào hạt.
- Noãn trưởng thành phải có đường kính từ 100 - 150 µm. Nó được
phóng ra từ nang De Graff với nhiều lớp tế bào hạt bao quanh.
- Cấu trúc noãn có màng trong suốt bọc quanh trong chứa nguyên sinh
chất có nhân to lệch sang một phía. Khi noãn đã phóng ra ngoài thì loa VTC
hứng lấy noãn đưa về VTC.
Màng đáy
Vỏ nang

Gò noãn

Noãn
Dịch nang

Nang
nguyên thủy

Nang
sơ cấp

Nangthứ
cấp

Nang tam
cấp
Mạch
máu

Nang vượt
trội

Sự phóng noãn

Bạch thể

Hoàng thể

Hình 1.2. Sơ đồ minh họa cơ chế phóng noãn[30]


15

1.2.3. Sự di chuyển của tinh trùng và noãn
1.2.3.1. Sự di chuyển của tinh trùng

Khi giao hợp, TT được trộn với dịch của túi tinh, tuyến tiền liệt và ống
dẫn tinh, hỗn hợp dịch này được gọi là tinh dịch chứa TT. TT được phóng vào
âm đạo, đọng ở cùng đồ sau của âm đạo. pH tinh dịch là 7,2 - 7,8 trong khi
pH âm đạo thường < 5,0 do đó ngay sau khi phóng tinh, tinh dịch đông, vón
cục nhờ các enzym đông đặc của dịch tuyến tiền liệt tác dụng vào fibrinogen
có trong tinh dịch để bảo vệ TT khỏi môi trường acid của âm đạo và giữ TT
ở vị trí gần CTC, tránh chảy ngược ra ngoài. Môi trường âm đạo sau đó bị
kiềm hoá do pH kiềm của tinh dịch. Sự ly giải bắt đầu xảy ra, nhờ tác động
của fibrinolysin có trong dịch tuyến tiền liệt và giải phóng TT. Các cơ chế
này làm tăng tối đa số lượng TT vào được đến CTC.
Trong giai đoạn phóng noãn, do ảnh hưởng của estrogen, chất nhầy CTC
nhiều và loãng hơn, thuận lợi cho sự di chuyển của TT vào CTC. Niêm mạc
CTC có nhiều kẽ. Rất nhiều TT sau khi đi vào CTC bị giữ ở các kẽ này. Sau đó
TT tiếp tục từ các kẽ này đi lên vào BTC. Sự di chuyển của TT trong BTC nhờ
đuôi vận động và được hỗ trợ bởi nhiều yếu tố: sự co giãn của cơ trơn TC, dịch
trong lòng TC và nếp gấp niêm mạc tử cung (NMTC), sự co giãn của cơ trơn
VTC, các nhung mao của biểu mô VTC và môi trường của VTC.
Trong thời gian di chuyển tại TC và VTC đầu TT được hoạt hoá. Quá
trình này tạo sự thay đổi của màng ở đầu TT, làm tiền đề cho phản ứng cực
đầu và sự thụ tinh với noãn sau này.
1.2.3.2. Ảnh hưởng của chất nhầy cổ tử cung đối với sự thâm nhập của tinh trùng
CTC người có cấu trúc hình trụ, thành dầy thuôn về phía lỗ ngoài CTC.
Tuyến nhầy CTC là một hệ phức tạp các khe, tụ lại với nhau tạo thành các
khoang ảo của tuyến. Cấu trúc của các khe thay đổi theo lứa tuổi, tình trạng
bệnh tật và các giai đoạn của vòng kinh [36].


16

Biểu mô CTC bao gồm các dạng tế bào chế tiết khác nhau và có nhiều

các hạt chế tiết. Dịch tiết của các tế bào này góp phần tạo nên chất nhầy CTC.
Chất nhầy CTC được chế tiết bởi các tế bào biểu mô trụ và những tế bào này
thay đổi theo chu kỳ nội tiết của vòng kinh. Các hormon của buồng trứng điều
khiển hoạt động chế tiết chất nhầy CTC: estrogen kích thích sự sản sinh nhiều
dịch nhầy còn progesteron thì ức chế hoạt động chế tiết của các tế bào biểu
mô tuyến này. Ở những người phụ nữ bình thường, trong độ tuổi sinh đẻ,
lượng dịch nhầy được sản sinh trong một ngày thay đổi từ 0,5 ml ở giữa vòng
kinh xuống 0,1 ml ở các giai đoạn khác của vòng kinh.
Sự thay đổi chu kỳ về độ đậm đặc của chất nhầy CTC có thể ảnh hưởng
tới khả năng thâm nhập và sự sống còn TT [37].
TT có khả năng thâm nhập vào chất nhầy CTC bắt đầu vào khoảng
ngày thứ 9 của vòng kinh 28 ngày và tăng lên một cách từ từ tới thời điểm
phóng noãn. Sự thâm nhập của TT thường bị giảm sau khi phóng noãn 1 - 2
ngày. Những TT di động được hướng theo sợi nhầy vào CTC, ở đó nó được
phóng thích từ từ vào BTC và vào vòi Fallop. CTC và sự chế tiết chất nhầy
của nó ảnh hưởng tới TT như sau [38]:
1- Làm tăng khả năng thâm nhập của TT vào chất nhầy xung quanh thời
điểm phóng noãn và làm giảm khả năng này vào những thời điểm khác của
vòng kinh.
2- Bảo vệ TT khỏi bị ảnh hưởng của các tác nhân có hại trong môi
trường âm đạo và khỏi bị thực bào.
3- Bổ sung năng lượng dự trữ cho TT.
Nếu chất nhầy CTC có độ nhớt cao (đặc) và có nhiều bạch cầu, TT
thâm nhập vào CTC kém và mất khả năng hoạt động. Điều này cũng xảy ra
khi chất nhầy CTC của người vợ có kháng thể kháng TT [39].


17

1.2.3.3. Sự di chuyển của noãn

Đoạn đường đi của noãn ngắn hơn so với TT, nhưng noãn không tự di
chuyển được, nó phải dựa vào các yếu tố xung quanh.
Khi vỡ nang Graff, noãn thoát ra và nằm ở bề mặt của buồng trứng (ở
giai đoạn noãn bào cấp II). Trước khi phóng noãn, những tua của loa VTC
chuyển động mạnh, quét trên khắp BT. Khi được phóng thích ra khỏi buồng
trứng, noãn được bọc ngoài bởi một màng trong suốt và lớp tế bào hạt [40].
Sau đó noãn được hút về VTC (chưa rõ cơ chế này) trong đó chỉ biết rằng chỉ
có sự hoạt động của các tua VTC, yếu tố "hướng tâm" của chất dịch chuyển
động về phía loa vòi đã có sẵn trong ổ bụng. Khi tới lỗ của loa VTC noãn sẽ
vượt qua và di chuyển vào trong VTC khá nhanh, chỉ vài giờ sau là tới chỗ TT.
Ngoài ra, nồng độ estrogen cao trong giai đoạn phóng noãn đã kích
thích sự co bóp các cơ trơn nên đã đẩy noãn đi nhanh hơn. Noãn và TT sẽ gặp
nhau và thụ tinh khoảng 1/3 ngoài của VTC.
1.2.4. Sự thụ tinh và làm tổ
Có khoảng vài trăm TT đến được 1/3 ngoài VTC để gặp noãn. Sự thụ
tinh diễn ra ở đoạn bóng của VTC. Dưới tác dụng của các lông chuyển và sự
co thắt của cơ trơn VTC, phôi di chuyển trong dịch VTC về hướng BTC. Phôi
đến BTC khoảng 4 - 5 ngày sau thụ tinh. Ở trong BTC phôi tiếp tục phân chia
trong môi trường dịch tiết của NMTC vài ngày trước khi làm tổ. Trong thời
gian đó NMTC được chuẩn bị cho quá trình làm tổ dưới ảnh hưởng của
progesteron do buồng trứng tiết ra trong gian đoạn hoàng thể.
1.2.4.1. Những điều kiện của sự thụ tinh
- Phải có giao tử cái, đã được phóng ra khỏi vỏ nang.
- Phải có giao tử đực, đó là TT, với số lượng và chất lượng đầy đủ.
- Phải có sự tiếp xúc giữa noãn và TT, hoặc bằng giao hợp xuất
tinh tự nhiên, hoặc bằng thụ tinh nhân tạo, hoặc bằng thụ tinh ống nghiệm.


18


- Phải có sự đâm xuyên của TT vào noãn và có kết hợp giữa hai tiền
nhân đực và cái để thành trứng, có khả năng phát triển nhanh thành phôi,
thành thai. Sự đâm xuyên này có thể tự nhiên, có thể qua phương pháp bơm
tinh trùng vào noãn [19].
1.2.4.2. Những điều kiện của sự làm tổ
- VTC phải thông tốt có nhu động thích hợp, sinh lý, để trứng di chuyển
vào trong BTC được.
- NMTC phải được chuẩn bị trước bằng estrogen, rồi estrogen và
progesterone để đạt được khả năng chế tiết tốt, trở thành màng rụng. Chất
chế tiết này là chất nuôi dưỡng trứng ở giai đoạn lơ lửng trong BTC, chưa
làm tổ ngay.
- Trứng phải ở giai đoạn phôi nang để có những nguyên bào nuôi bao
quanh ở bên ngoài tiết enzym tiêu protein, làm huỷ tế bào NMTC, vùi sâu vào
NMTC và bám chắc được vào NMTC.
- Khi trứng đã bám chắc được vào NMTC, các enzym của các nguyên
bào nuôi phải tiếp tục làm lỏng được tế bào của NMTC biến chúng thành chất
dinh dưỡng ban đầu cho trứng, đồng thời giúp cho trứng lún sâu được vào
lòng của NMTC và làm tổ [19].
Ở mỗi giai đoạn còn có nhiều yếu tố khác tham gia vào sự hình thành
thai nghén và sinh đẻ. Chỉ cần thiếu một trong những yếu tố trên đây là không
thực hiện được thai nghén và sinh đẻ.
Có khoảng vài trăm TT đến được 1/3 ngoài VTC để gặp noãn. Sự thụ
tinh diễn ra ở đoạn bóng của VTC. Dưới tác động của các lông chuyển và nhu
động của cơ trơn VTC, phôi di chuyển trong dịch của VTC về hướng BTC.
Phôi đến BTC khoảng 4 - 5 ngày sau khi thụ tinh. Ở trong BTC phôi tiếp tục
phân chia trong môi trường dịch tiết của NMTC vài ngày trước khi làm tổ.
Trong thời gian đó, NMTC được chuẩn bị cho quá trình làm tổ dưới ảnh hưởng
của progesterone do buồng trứng tiết ra trong giai đoạn hoàng thể [19].



19

1.3. Lọc rửa tinh trùng
Có nhiều kỹ thuật lọc rửa TT đã được mô tả, đa số có sử dụng môi
trường Earle và để hỗ trợ cho độ di động và sức sống của TT, người ta dùng
thêm môi trường Ham’s F10, môi trường HTF (human tubal fluid).
Để có một mẫu TT tốt, tinh dịch phải được ly tâm tách TT khỏi tinh
tương càng sớm càng tốt, vì khi ra khỏi cơ thể ở trong tinh tương lâu, độ di
động và sức sống của TT sẽ bị giảm, đồng thời tinh tương cũng hạn chế cực
đầu và năng lực thụ tinh của TT. Có nhiều phương pháp lọc rửa TT khác nhau
và việc lựa chọn phương pháp nào là phụ thuộc vào mẫu TT. Nhìn chung các
phương pháp lọc rửa TT chia ra làm ba nhóm khác nhau. Nhóm thứ nhất là
lọc rửa dựa trên khả năng bơi của TT ra khỏi tinh dịch để vào môi trường, kỹ
thuật của phương pháp này là tạo một lớp môi trường phủ lên trên lớp tinh
dịch, TT sẽ bơi vào lớp môi trường, hút lấy lớp môi trường chứa nhiều TT
này để sử dụng, đây là nguyên tắc của phương pháp bơi lên và bơi xuống.
Nhóm thứ hai là lọc rửa dựa trên thang nồng độ bằng cách tạo một lớp tinh
dịch phía trên các cột thang nồng độ khác nhau rồi đem ly tâm, TT sẽ được
lọc qua các lớp thang nồng độ tùy thuộc vào tỷ trọng, sau đó ly tâm lấy cặn ở
phía dưới có nhiều TT để sử dụng. Nhóm thứ ba là phương pháp lọc rửa cổ
điển bằng cách trộn đều TT với môi trường sau đó ly tâm, lấy cặn để sử dụng.
Hai nhóm phương pháp đầu được sử dụng nhiều còn nhóm phương pháp thứ
ba ít được áp dụng.
1.3.1. Các phương pháp lọc rửa tinh trùng
1.3.1.1. Phương pháp bơi lên (swim- up)
Nguyên tắc: phương pháp này có thể được thực hiện bằng cách đặt
một lớp môi trường lên phía trên lớp tinh dịch đã ly giải hoặc đặt lớp tinh
dịch xuống dưới môi trường, TT có khả năng thoát khỏi lớp tinh dịch phía
dưới và bơi lên bề mặt thoáng của môi trường nhờ khả năng tự di chuyển
nhờ đuôi.



20

Phương pháp thực hiện:
+ Cho vào mỗi ống nghiệm loại (15 ml, đáy nhọn) 1,5 ml môi trường
nuôi cấy.
+ Cho 1 ml tinh dịch đã ly giải thật nhẹ nhàng xuống đáy lớp môi trường.
+ Đặt ống nghiệm trong tủ cấy 45 - 50 phút, nghiêng 450.
+ Dùng pipett Pasteur hút khoảng 0,7 - 1 ml môi trường trên cho vào
ống nghiệm 5 ml đã có sẵn 2 ml môi trường nuôi cấy chuẩn bị sẵn, trộn đều.
+ Ly tâm 300 vòng trong 10 phút.
+ Hút bỏ hết phần môi trường phía trên, để lại 0,3 - 0,4 ml cặn.
+ Trộn đều cặn, lấy một giọt cho vào buồng đếm kiểm tra độ di động
và mật độ.
+ Phần còn lại thực hiện kỹ thuật IUI.
1.3.1.2. Phương pháp bơi xuống
Dựa trên mô tả của Ericson, mẫu TT được đặt trên một hay nhiều lớp
môi trường có chứa albumin bò, đặt trong tủ ấm 370C trong một giờ, những
con TT sống sẽ bơi xuống lớp có albumin. Lớp thang nồng độ albumin đã
được đề nghị sử dụng khi muốn tách lấy TT Y (1988).
1.3.1.3. Phương pháp dùng thang nồng độ
Nguyên tắc: các hóa chất dùng để lọc rửa TT ở các nồng độ khác nhau
có chức năng lọc, loại bỏ TT chết, dị dạng, di động kém và các thành phần
khác trong tinh dịch. Phần tinh dịch lọc rửa, rửa hai lần với môi trường nuôi
cấy để loại bớt hóa chất trong bước lọc.
Cách thực hiện:
+ Tạo hai lớp môi trường vào ống nghiệm sil - select 90% và 45%: cho
mỗi lớp 1 ml.
+ Cho khoảng 1 ml tinh dịch đã ly giải hoàn toàn lên trên thật nhẹ nhàng.

+ Ly tâm ở 300 - 500 g trong vòng 15 phút.


21

+ Hút bỏ phần trên, để lại phần cặn ở đáy, cho vào ống nghiệm chứa 2
ml môi trường đã được chuẩn bị sẵn.
+ Ly tâm 300 g trong vòng 10 phút.
+ Hút bỏ lớp môi trường ở trên, để lại khoảng 0,3 - 0,4 ml.
+ Trộn đều, lấy một giọt cho vào buồng đếm kiểm tra.
+ Phần còn lại để ấm sẵn sàng thực hiện kỹ thuật IUI.
Thang nồng độ dùng Percoll đã được mô tả và sử dụng từ năm 1990
(Mortimer), lớp thang nồng độ sau đây được xem là cho tinh trùng với chất
lượng khá tốt: 0,5 ml percoll 95% và 0,5 ml percolll 47,5% hoặc 3 ml percoll
72% và 3 ml 36%.
Ngoài ra hiện nay người ta có thể dùng Puresperm, Isolate, Si - select
...Các loại đó đều đẳng trương.
1.3.2. Lợi ích từ việc lọc rửa tinh trùng
Chọn được những TT bình thường di động tốt, đồng thời cô đặc TT
trong một thể tích nhỏ, thuận lợi cho việc bơm TT vào BTC.
Loại được những tế bào chết, hầu hết các vi sinh vật, phần lớn các chất
độc với TT do đó giảm được phần lớn nguy cơ nhiễm trùng từ tinh dịch.
Loại được phần lớn PG trong tinh dịch, tránh co thắt TC trong phương
pháp IUI. Kích thích sự hoạt hóa đầu TT, tạo thuận lợi cho quá trình thụ tinh
với noãn.
Tránh được nguy cơ sốc phản vệ đôi lúc xảy ra khi cho tinh dịch vào BTC.
1.4. Phƣơng pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung
1.4.1. Khái niệm
Thuật ngữ IUI được dùng để chỉ kỹ thuật thụ tinh nhân tạo bằng bơm
TT trực tiếp vào BTC nhằm giảm một số yếu tố có hại lên TT như là pH acid

của âm đạo, chất nhầy CTC (trong trường hợp chất nhầy có hại cho TT).
Nguyên tắc của kỹ thuật IUI là chọn lọc và cô đặc một thể tích TT với mật độ


22

cao gồm những TT có độ di động tốt, khả năng thụ tinh cao và đặt ở vị trí gần
VTC xung quanh thời điểm phóng noãn để tạo điều kiện tối ưu cho quá trình
thụ tinh. Để tăng tỷ lệ thành công người ta thường kèm với kích thích buồng
trứng bằng thuốc và kiểm soát thời điểm phóng noãn bằng hCG.
Trong thực tế thụ tinh nhân tạo bao gồm nhiều phương pháp khác nhau
như bơm tinh dịch vào cùng đồ sau, ống CTC, vào BTC, vào VTC. Tuy nhiên
bơm TT vào âm đạo, CTC hầu như không có hiệu quả cao hơn so với giao
hợp trực tiếp. Thụ tinh nhân tạo với TT của người chồng thường được chỉ
định cho những cặp vợ chồng VS nguyên nhân do chất nhầy CTC, do có
kháng TT ở người vợ hoặc chồng, do bất thường nhẹ TT chồng (TT ít, yếu...)
hay VS không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên hầu như không có kết quả thụ thai
ở những trường hợp TT quá yếu. Ngoài ra PG có trong tinh dịch có thể gây
co thắt TC, do đó khi bơm tinh dịch trực tiếp vào BTC có thể gây dị ứng
hoặc sốc phản vệ. Vì vậy các phương pháp lọc rửa TT ra đời và kĩ thuật
bơm TT đã qua xử lý được phổ biến nhanh chóng và được chấp nhận rộng
rãi trên thế giới.
Kỹ thuật IUI với TT sau chuẩn bị (lọc rửa) thường được sử dụng trong
điều trị VS nam do thiểu năng TT nhẹ với kết quả có thai khoảng 10% - 15%.
1.4.2. Kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung
Sau khi đã có chỉ định cụ thể, phác đồ IUI gồm:
1. Kích thích buồng trứng bằng thuốc để được số nang phát triển. Thuốc
sử dụng là CC hoặc gonadotropin, hoặc kết hợp CC và gonadotropin. Bệnh
nhân được theo dõi bằng siêu âm đầu dò âm đạo để đánh giá sự trưởng thành
của nang noãn.

2. Cho hCG 5.000 - 10.000 UI để kích thích giai đoạn phát triển cuối
cùng của nang noãn và gây phóng noãn.


23

3. Lấy tinh dịch, lọc rửa và bơm TT cho bệnh nhân 34 - 38 giờ sau khi
tiêm hCG. Thời điểm bơm TT không quá 2 giờ sau khi lấy mẫu tinh dịch.
4. Bơm tinh trùng vào BTC:
Kỹ thuật IUI thường do bác sĩ phụ khoa thực hiện. Tuy nhiên, nhiều nơi
trên thế giới kỹ thuật này có thể do nữ hộ sinh thực hiện. Người ta thấy rằng
nữ hộ sinh hoặc điều dưỡng được huấn luyện tốt, hoàn toàn có thể thực hiện
được thủ thuật này.
Kỹ thuật:
-

Bệnh nhân nằm ở tư thế sản khoa, trải săng vô trùng lên vùng bụng và hai
đùi bệnh nhân.

- Lau âm hộ bằng nước muối sinh lý.
- Đặt mỏ vịt bộc lộ CTC. Dùng gạc tẩm nước muối sinh lý nhẹ nhàng lau
sạch âm đạo, CTC. Lau lại bằng gạc khô.
- Lấy bơm tiêm 1 ml gắn vào đầu catheter và hút TT đã lọc rửa đưa nhẹ
nhàng vào BTC, không chạm đáy tử cung, khi đưa catheter vào đến BTC
bơm từ từ TT đã lọc rửa vào BTC, rút nhẹ catheter ra.
- Tháo mỏ vịt, cho bệnh nhân nằm nghỉ 10 - 15 phút.
Sau bơm TT, bệnh nhân có thể được cho thuốc để hỗ trợ giai đoạn
hoàng thể tuỳ theo phác đồ kích thích BT được sử dụng. Các phác đồ hỗ trợ
giai đoạn hoàng thể trong IUI hiện nay phổ biến là phác đồ sử dụng
progesterone đơn thuần:

Liều sử dụng là 200mg/ngày, duy trì trong 2 tuần.
Dạng dùng phổ biến và đạt hiệu quả cao là viên đặt âm đạo.
Xét nghiệm thử thai thường được thực hiện 2 tuần sau khi bơm TT. Nếu
xét nghiệm thử thai dương tính, bệnh nhân được hẹn siêu âm khoảng 2 - 3
tuần sau để xác định thai trong BTC.


24

Hình 1.3. Kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung[30]
1.4.3. Tai biến của bơm tinh trùng vào buồng tử cung
Các tai biến có thể bao gồm: lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường
tình dục, co thắt TC, nhiễm trùng đường sinh dục trên, sốc phản vệ. Tuy nhiên
các tai biến trên thường gặp trong các trường hợp bơm tinh dịch tươi, ít gặp
đối với các trường hợp sử dụng TT đã qua xử lý. Ngoài ra còn có các tai biến
như hội trứng quá kích thích buồng trứng và đa thai. Những tai biến này
thường gặp ở các chu kỳ có sử dụng thuốc kích thích buồng trứng và có thể
tránh bằng cách theo dõi sát bệnh nhân trong chu kỳ điều trị.
1.5. Một số nghiên cứu về lọc rửa tinh trùng và bơm tinh trùng vào
buồng tử cung
1.5.1. Các tác giả nước ngoài
Nghiên cứu của Edith Rammer và Florian Friedrich (1998) [41]tại
Australia, các tác giả đã phân tích hồi cứu ở 78 cặp VS mà nguyên nhân VS
được xác định là do nam giới (TT ít hoặc TT di động yếu). Kết quả có thai là
48,6% (53 có thai/109 chu kỳ IUI) với phác đồ HMG + IUI. Các tác giả kết
luận rằng: phác đồ kích thích phóng noãn cho vợ và phương pháp IUI được
coi là một giải pháp đáng tin cậy cho những trường hợp VS do TT chồng yếu.
Một nghiên cứu của Nuojua-Huttunen và cộng sự năm 1999 [42] tại
Phần Lan, phân tích 811 chu kỳ IUI theo phác đồ CC/HMG được dùng để
kích thích buồng trứng. Tỷ lệ có thai sau lần đầu IUI là 12,6%, tỷ lệ đa thai là



25

13,7% và tỷ lệ sảy thai là 23,5%. Qua phân tích các tác giả phát hiện 5 yếu tố
có liên quan đến khả năng có thai:
 Số chu kỳ điều trị IUI
 Thời gian vô sinh
 Tuổi
 Số lượng nang noãn có được sau dùng CC/hMG
 Nguyên nhân vô sinh
Tỷ lệ có thai khác nhau có ý nghĩa thống kê khi tuổi của bệnh nhân nữ
< 40 tuổi, VS không rõ nguyên nhân và thời gian VS ≤ 6 năm. Có > 1 nang
noãn chín sau dùng CC/hMG thì tỷ lệ có thai cao hơn chỉ có 1 nang noãn và
97% có thai sau 4 lần được điều trị bằng IUI.
Kết quả chỉ ra rằng: CC + IUI rất có hiệu quả trong điều trị lựa chọn
cho những phụ nữ dưới 40 tuổi, không có LNMCT và thời gian VS < 6 năm.
Năm 1999 tại Viện nghiên cứu sinh sản và Trường Đại học Y
Louisiana, New Orleans, Hoa Kỳ, Richard Dickey và cộng sự [43] đã nghiên
cứu sự liên quan của các đặc tính tinh dịch với kết quả IUI. Các thông số
được đánh giá gồm: mật độ TT(/ml), tổng số TT đếm được và TTdi động (%),
tổng số TT di động. Tất cả các tiêu chuẩn để đánh giá là các kết quả phân tích
tinh dịch trước khi lọc rửa. Kết quả là tỷ lệ có thai cho mỗi lần IUI có thể đạt
≥ 8,2% khi mật độ TT là 5x106/ml, tổng số TT đếm được là 10x10 6, tỷ lệ di
động là 30% và tổng số TT di động đếm được là 5x10 6.Khi mật độ TT là
40x106 và tổng số TT đếm được là 80x10 6 tỷ lệ có thai sau mỗi lần IUI là
12,9%.
Nghiên cứu của Dadkhah (2002) với mục đích tìm mối liên quan giữa các
tham số của tinh dịch trước và sau lọc rửa cho thấy tỷ lệ có thai là 7,84% theo
chu kỳ, tỷ lệ có thai có liên quan với thời gian vô sinh. Tổng số tinh trùng di

động sau lọc rửa ở nhóm có thai cao hơn nhóm không có thai với p < 0,05 [3].


×