Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm phức kim loại (sắt, đồng, kẽm, selen) đến khả năng sản xuất của gà thương phẩm tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.83 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

HÀ VĂN HUY

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ PHẨM PHỨC
KIM LOẠI (SẮT, ĐỒNG, KẼM, SELEN) ĐẾN KHẢ NĂNG
SẢN XUẤT CỦA GÀ THƯƠNG PHẨM

Ngành:

Dinh dưỡng và thức ăn chăn nuôi

Mã số:

9.62.01.07

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NHÀ XUẤT BẢN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP - 2020


Công trình hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn: 1. TS. NGUYỄN HỮU CƢỜNG
2. PGS.TS. NGUYỄN BÁ MÙI

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Huy Đạt
Hội Chăn nuôi

Phản biện 2: TS. Nguyễn Văn Trọng


Cục Chăn nuôi

Phản biện 3: TS. Trần Thị Bích Ngọc
Viện Chăn nuôi

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện họp tại:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi

giờ, ngày

tháng

năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện Lương Định Của, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Các chất khoáng vi lượng sắt, đồng, kẽm và selen có vai trò quan trọng trong
dinh dưỡng động vật, là thành phần của nhiều loại enzym, hocmon (thiroxin) và
vitamin (B12). Ngoài ra, các chất khoáng vi lượng còn đóng vai trò chủ chốt trong hầu
hết các quá trình đồng hóa diễn ra trong cơ thể như quá trình hô hấp mô, tạo máu, sinh
sản, biệt hóa, ổn định màng tế bào, sinh tổng hợp protein, điều hòa gen, phản ứng miễn
dịch và hoạt hóa hàng loạt các phản ứng sinh hóa khác. Sự thiếu hụt một vài khoáng vi
lượng đều có thể dẫn đến sự rối loạn sinh trưởng và phát triển. Ở gia cầm khi bị thiếu

sắt dẫn tới thiếu máu, giảm kích thước và số lượng hồng cầu. Thiếu đồng dẫn tới thiếu
máu; xương có thể bị biến dạng. Thiếu đồng còn làm cho tim của gia cầm sưng to hơn
mức bình thường. Thiếu kẽm gây giảm sinh trưởng và phát triển lông, giảm hoàn thiện
xương, khớp sưng, phôi gà chậm phát triển, tỷ lệ nở thấp. Ngoài ra còn tác động tới xương
ức và xương chân gây biến dạng. Thiếu selen làm giảm tốc độ sinh trưởng, giảm đẻ, giảm
tỷ lệ phôi và ấp nở, hạn chế thành thục sinh dục, gà trống đạp mái kém.
Để bù đắp lượng khoáng thiếu hụt trong thức ăn của vật nuôi người ta thường bổ
sung bằng một số muối vô cơ, hữu cơ của các kim loại như sắt, đồng, kẽm và selen…
với hàm lượng cần thiết để duy trì sự phát triển của vật nuôi. Tuy nhiên, do khả năng
hấp thu các muối vô cơ của gia cầm nói riêng và của động vật nói chung không cao
(chỉ hấp thu tối đa 20%) nên phần lớn các muối này bị thải ra ngoài theo chất thải, gây
lãng phí và làm ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, phức khoáng siêu phân tán được
hấp thu cao đạt 80-90% do kích thước rất nhỏ, có khả năng gắn kết với các hợp chất
hữu cơ nên các hạt kim loại rất dễ được vật nuôi hấp thu và có thể điều chỉnh thời
gian hấp thu chúng trong quá trình tiêu hoá, nhờ vậy, lượng khoáng thải ra môi trường
ít, từ đó giảm ô nhiễm môi trường (Petrovic et al., 2006).
Hàm lượng các nguyên tố vi lượng như Fe, Cu, Zn và Se trong các nguyên liệu
thức ăn có nguồn gốc thực vật và động vật là hoàn toàn đủ để đáp ứng nhu cầu của gia
cầm (NRC, 1994). Tuy nhiên, do mức độ sinh khả dụng của chúng thấp (vì tồn tại ở
dạng các liên kết phức tạp với các phân tử khác) và quan hệ tương tác theo chiều
hướng tiêu cực (kìm hãm sự tiêu hoá và hấp thu), nên mặc dù hàm lượng của các
nguyên tố vi lượng trong thức ăn là khá cao nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu của vật
nuôi lại rất thấp. Ngoài ra, trong môi trường dạ dày với độ pH thấp, một số nguyên tố
vi lượng có xu hướng bị phân ly mạnh để tạo thành các ion, liên kết với một số yếu tố
kháng dinh dưỡng, tạo thành phức không hòa tan, không hấp thu (Suttle, 2010). Bởi
vậy, để tăng hiệu quả hấp thu, tránh những tương tác theo chiều hướng tiêu cực, xu
hướng hiện nay, thay vì sử dụng các nguyên tố khoáng vi lượng ở dạng vô cơ thì các
nhà dinh dưỡng đã sử dụng ở dạng hữu cơ hoặc dạng siêu phân tán. Hiện nay việc
nghiên cứu chế tạo phức kim loại từ các hạt kim loại, oxit kim loại siêu phân tán để
ứng dụng trong chăn nuôi tại Việt Nam chưa được thực hiện. Tuy nhiên nhu cầu sử

dụng khoáng dạng siêu phân tán thay thế khoáng vô cơ ngày càng được quan tâm
nhiều hơn, điều này đặt ra yêu cầu là làm sao Việt Nam có thể chủ động được công
nghệ chế tạo, chủ động được nguồn nguyên liệu vi khoáng, theo kịp xu hướng thế giới,
cụ thể làm thế nào chế tạo được chế phẩm phức kim loại từ các hạt oxit sắt (Fe 2O3),
oxit kẽm (ZnO), hạt kim loại đồng (Cu) và selen (Se) siêu phân tán? Xác định mức
bổ sung phức kim loại phù hợp vào thức ăn chăn nuôi gia cầm nhằm nâng cao năng
1


suất, hiệu quả kinh tế, góp phần bảo đảm an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường.
Từ vấn đề cấp thiết đặt ra của sản xuất, chúng tôi tiến hành nghiên cứu chế tạo
chế phẩm phức kim loại và nghiên cứu ảnh hưởng của nó đến khả năng sản xuất của
gà LV thương phẩm.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu chung
Chế tạo được chế phẩm phức của bốn nguyên tố kim loại siêu phân tán và đánh giá
được ảnh hưởng của việc bổ sung phức kim loại này đến khả năng sản xuất của gà thịt
thương phẩm.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Chế tạo được các hạt oxit sắt, hạt đồng, oxit kẽm và hạt selen siêu phân tán có
kích thước nano để sử dụng làm thức ăn chăn nuôi phù hợp với trình độ và khả năng
công nghệ hiện có của Việt Nam.
- Xác định được ảnh hưởng của các mức phức kim loại (Fe, Cu, Zn, Se) đến một
số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu, sự tồn dư kim loại trong thịt, nội tạng và trong chất
thải của gà LV thương phẩm.
- Xác định được ảnh hưởng của các mức phức kim loại (Fe, Cu, Zn, Se) đến khả
năng sản xuất của gà LV thương phẩm.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Chế tạo các hạt kim loại, oxit kim loại siêu phân tán để sử dụng làm thức ăn chăn
nuôi tại Viện Công nghệ môi trường.

- Đánh giá các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu tại Phòng thí nghiệm Bộ môn Sinh lý
miễn dịch, Trường Đại học Y Hà Nội từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 2 năm 2015.
- Đánh giá sự đào thải kim loại qua chất thải của gà; tồn dư kim loại trong thịt, nội
tạng tại Phòng Phân tích Thức ăn và Sản phẩm chăn nuôi - Viện Chăn nuôi từ tháng 10
năm 2014 đến tháng 6 năm 2015.
- Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của chế phẩm phức kim loại (sắt, đồng, kẽm,
selen) đến khả năng sản xuất của gà LV thương phẩm tại Trạm Nghiên cứu Chăn nuôi
gà Phổ Yên, xã Đắc Sơn, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, thuộc Trung tâm Nghiên
cứu Gia cầm Thụy Phương từ năm 2014 đến năm 2015.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Chế tạo được các hạt kim loại, oxit kim loại siêu phân tán để sử dụng làm thức ăn
chăn nuôi phù hợp với trình độ và khả năng công nghệ của Việt Nam. Đây là công trình
đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu về chế tạo phức kim loại siêu phân tán sử dụng làm
thức ăn chăn nuôi phù hợp công nghệ và trình độ của Việt Nam.
- Xác định được mức phức kim loại (Fe, Cu, Zn, Se) trong khẩu phần thức ăn phù
hợp với gà LV thương phẩm nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế chăn nuôi.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
- Xác định được các tham số tối ưu hóa trong chế tạo một số phức kim loại (Fe,
Cu, Zn, Se) dạng siêu phân tán có kích thước nano sử dụng làm phụ gia bổ sung vi
khoáng cho gà thay thế cho khoáng ở dạng muối vô cơ, nâng cao được sinh khả dụng
của vi khoáng, cải thiện thành tích chăn nuôi và góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường.
- Kết quả đề tài cung cấp phương pháp khoa học chế tạo các kim loại, oxit kim
loại để sản xuất chế phẩm phức kim loại bổ sung vào thức ăn chăn nuôi phù hợp với
công nghệ và trình độ chăn nuôi ở Việt Nam, xác định được mức sử dụng chế phẩm
2


phức kim loại vào khẩu phần thức ăn chăn nuôi gà thương phẩm nhằm nâng cao năng
suất và hiệu quả chăn nuôi.

- Các kết quả thu được là căn cứ khoa học cho các hướng nghiên cứu tiếp theo và là
nguồn tư liệu bổ ích phục vụ cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học về chăn nuôi.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đây là công trình đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu về chế tạo phức kim loại siêu
phân tán sử dụng làm thức ăn chăn nuôi phù hợp công nghệ và trình độ của Việt Nam.
- Kết quả của đề tài mở đường cho việc sản xuất chế phẩm vi khoáng nano làm
thức ăn bổ sung trong chăn nuôi ở Việt Nam, tiến tới dần dần thay thế khoáng vô cơ,
theo kịp với xu hướng của thế giới.

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. VỀ CHẾ TẠO HẠT KIM LOẠI, OXIT KIM LOẠI SIÊU PHÂN TÁN VÀ
CHUYỂN ĐỔI DUNG DỊCH HUYỀN PHÙ CỦA CÁC HẠT KIM LOẠI, OXIT
KIM LOẠI THÀNH DẠNG BỘT
Hiện tại đã có một số nghiên cứu ngoài nước đã nghiên cứu chế tạo hạt oxit sắt
(Fe2O3) siêu phân tán bằng phương pháp nghiền; phương pháp vi nhũ tương; phương
pháp hóa siêu âm; bằng phương pháp thủy nhiệt. Phương pháp nghiền có ưu điểm là
đơn giản và chế tạo được vật liệu với khối lượng lớn. Việc thay đổi chất hoạt hóa bề
mặt và dung môi không ảnh hưởng nhiều đến quá trình chế tạo. Nhược điểm của
phương pháp này là tính đồng nhất của các hạt siêu phân tán không cao vì khó có thể
khống chế quá trình hình thành các hạt siêu phân tán. Arturo et al. (1993) sử dụng
phương pháp vi nhũ tương để tạo hạt oxit sắt siêu phân tán với kích thước có thể được
điều khiển bằng nồng độ chất hoạt hóa bề mặt (CHHBM) là AOT và nhiệt độ, sử dụng
chất dodecyl sulfate sắt, Fe(DS)2. Một số tác giả đã chế tạo các hạt oxit sắt siêu phân
tán (α-Fe2O3) bằng phương pháp thủy nhiệt và phân tích một số đặc trưng của vật liệu
như giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD), kính hiển vi điện tử quét (SEM), kính hiển vi điện
tử truyền qua (TEM) và phổ hồng ngoại (FT-IR) (Chun-Yang et al., 2011; Wenqing et
al., 2011; Almeida, 2010). Phương pháp chế tạo hạt oxit sắt siêu phân tán bằng
phương pháp thủy nhiệt cơ bản phù hợp tại Việt Nam. Vì vậy chúng tôi sử dụng để
nghiên cứu chế tạo hạt oxit sắt siêu phân tán.
Một số nghiên cứu về chế tạo hạt đồng siêu phân tán bằng phương pháp khử như:

phương pháp khử KBH4; phương pháp khử hydrazin (N2H4); phương pháp khử
(NaBH4). Qiu-li et al. (2010) chế tạo hạt đồng siêu phân tán bằng phương pháp khử
hóa học sử dụng chất khử KBH4. Kết quả chỉ ra rằng, điều kiện tối ưu của quá trình
tổng hợp hạt đồng siêu phân tán như sau: tỷ lệ mol của KBH4/CuSO4 là 0,75, nồng độ
của CuSO4: 0,4 mol/l, nhiệt độ phản ứng là 300C và chất ổn định là butanol. Kích thước
hạt đồng siêu phân tán trung bình thu được phần lớn dạng hình cầu khoảng 100 nm.
Hassan et al. (2011) nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng như nhiệt độ phản ứng, tỷ lệ
giữa nồng độ chất khử và tiền chất đến hình thái và kích thước hạt nano thông qua hai
phương pháp khử hóa học và điện hóa. Xiangling et al. (2005) đã chế tạo hạt đồng siêu
phân tán bằng phương pháp khử hóa học sử dụng hydrazin (N2H4) làm chất khử.
Abdulla-Al-Mamun et al. (2009) đã chế tạo thành công hạt đồng siêu phân tán bằng
cách khử muối đồng nitrat (Cu(NO3)2) bằng borohydride (NaBH4) trong hỗn hợp dung
môi nước/CH3CN, trong điều kiện sục khí argon. Các hạt đồng siêu phân tán, lần đầu
tiên đã được tổng hợp với quy mô lớn với sự có mặt của acetonitrile (CH3CN) trong
3


nước để tránh sự oxy hóa. Những tính chất đặc trưng của hạt đồng siêu phân tán được
xác định bằng phổ hấp phụ nguyên tử Uv-Vis, kính hiển vi điện tử truyền qua TEM,
phổ X- quang điện tử (XPS), phổ nhiễu xạ tia X (XRD). Phương pháp chế tạo hạt đồng
siêu phân tán bằng khử (NaBH4) cho thấy sự ổn định tuyệt vời của hạt đồng siêu phân
tán so với sự bảo vệ hạt đồng siêu phân tán bằng citrate. Chúng tôi sử dụng phương
pháp này để nghiên cứu chế tạo hạt Cu siêu phân tán.
Chế tạo hạt oxit kẽm siêu phân tán được thực hiện bằng một số phương pháp
như: phương pháp nhũ tương hóa, tổng hợp pha dung dịch (Solution-phase synthesis),
CVD, lắng đọng xung laser (pulsed-laser deposition), phương pháp EBL (electronbeam lithography) kết hợp với CVD hay phương pháp dung dịch... Mỗi phương pháp
đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, quan trọng hơn là tùy vào mục đích sử dụng
khác nhau, người ta sẽ chọn phương pháp chế tạo phù hợp nhất. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi tổng hợp oxit kẽm siêu phân tán theo phương pháp thủy nhiệt theo các
nhiệt độ phản ứng khác nhau.

Hạt selen siêu phân tán chủ yếu được tổng hợp bằng hai phương pháp chính là
phương pháp vật lý và phương pháp hóa học. Trong đề tài này chúng tôi tập trung
nghiên cứu chế tạo hạt selen siêu phân tán bằng phương pháp dung dịch nước. Phương
pháp dung dịch nước được sử dụng rộng rãi hơn so với các phương pháp khác nhờ sử
dụng thiết bị đơn giản, trong đó phản ứng hình thành hạt selen được diễn ra trong một
dung dịch đồng nhất chứa các thành phần tham gia ban đầu là các ion Se4+ hòa tan
cùng với chất chống tập hợp và tác nhân khử được thêm vào sau bằng cách nhỏ giọt.
Phương pháp khử hóa học là dùng các tác nhân hóa học để khử ion Se4+ thành Selen
kim loại.
Chuyển đổi dung dịch huyền phù của hạt kim loại, oxit kim loại siêu phân tán
thành dạng bột để dễ bảo quản, sử dụng: thông thường sử dụng phương pháp sấy phun
chân không; phương pháp ly tâm và sấy gia nhiệt thông thường. Sau khi xem xét các
ưu điểm, nhược điểm của các phương pháp, chúng tôi thấy rằng sự kết hợp giữa
phương pháp ly tâm và phương pháp sấy gia nhiệt thông thường là phương pháp phù
hợp nhất để chuyển dạng huyền phù hạt kim loại, oxit kim loại siêu phân tán thành
dạng bột trong điều kiện phòng thí nghiệm tại Viện Công nghệ môi trường.
2.2. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG TRONG CHĂN NUÔI
Theo Cai et al. (2012) về ảnh hưởng của nano selen đến hiệu suất, chất lượng
thịt, chức năng miễn dịch, kháng oxy hóa và hàm lượng selen trong mô gà thịt (gà
Arbor Acres) cho thấy: hàm lượng selen trong cơ ngực của gà lúc 42 ngày tuổi khi sử
dụng nano selen với các mức 0,00; 0,30; 0,50; 1,00 và 2,00 mg/kg lần lượt là 0,007;
0,19; 0,26; 0,43 và 0,46 ppm. Lô sử dụng mức 0,00 mg/kg nano selen có sai khác với
các lô còn lại (P<0,05); giữa lô sử dụng mức 0,30 và lô sử dụng mức 0,50 mg/kg nano
selen có sai khác về hàm lượng selen trong cơ ngực gà, nhưng sự sai khác không có ý
nghĩa thống kê (P>0,05); giữa lô sử dụng mức 1,00 và lô sử dụng mức 2,00 mg/kg
nano selen có sai khác về hàm lượng selen trong cơ ngực gà, nhưng sự sai khác không
có ý nghĩa thống kê (P>0,05); giữa lô sử dụng mức 0,30 và lô sử dụng mức 0,50
mg/kg nano selen, sai khác có ý nghĩa thống kê so với lô sử dụng mức 1,00 và lô sử
dụng mức 2,00 mg/kg nano selen (P<0,05).
Kết quả nghiên cứu của Selim et al. (2015) về ảnh hưởng của selen dạng vô cơ,

hữu cơ hoặc nano selen trong thức ăn của gà thịt đến sinh lý, miễn dịch của gà thịt (gà
4


Arbor Acres) cho thấy: khi sử dụng selen dạng vô cơ (NaSe) với mức 0,15 và 0,3 ppm
thì hàm lượng hemoglobin của gà Arbor Acres lần lượt là 13,66 và 13,46 g/dl; sử dụng
selen dạng hữu cơ (Se-yeast) với mức 0,15 và 0,3 ppm thì hàm lượng hemoglobin của
gà Arbor Acres lần lượt là 13,90 và 13,94 g/dl. Tuy nhiên khi sử dụng nano selen dạng
bột với mức 0,15 và 0,3 ppm thì hàm lượng hemoglobin của gà Arbor Acres là 13,97
và 14,07 g/dl. Khi sử dụng nano selen dạng dung dịch với mức 0,15 và 0,3 ppm thì
hàm lượng hemoglobin của gà là 13,93 và 13,86 g/dl.
Theo Samanta et al. (2011), khi sử dụng đồng (CuSO4.5H2O) ở các mức 75, 150,
250 mg/kg thức ăn đã làm tăng số lượng hồng cầu và hàm lượng hemoglobin của đàn gà
thương phẩm so với đối chứng. Mức bổ sung (150 mg CuSO4.5H2O/kg thức ăn) đàn gà
có số lượng hồng cầu là 4,19 triệu/mm3 và hàm lượng Hb là 10,44 g/dl đều cao hơn ở
mức bổ sung (75 mg CuSO4.5H2O/kg thức ăn) số lượng hồng cầu (3,30 triệu/mm3), Hb
(10,26 g/dl).
Nghiên cứu của Nollet et al. (2007) đã cho thấy mức thải Zn theo chất thải của gà
broiler ở nhóm được ăn khẩu phần có bổ sung Zn ở dạng vô cơ là 277 ppm, cao hơn
57,4% so với nhóm gà được ăn khẩu phần có bổ sung Zn ở dạng hữu cơ (176 ppm).
Kết quả ở nghiên cứu này cũng cho thấy, khi bổ sung Zn ở dạng siêu phân tán, mức
thải Zn theo chất thải ở gà LV thương phẩm giảm rất rõ rệt so với lô được ăn khẩu
phần có bổ sung Zn vô cơ (ZnSO4.7 H2O) theo liều khuyến cáo của NRC (1994).
Nghiên cứu của Falandysz (1991) khi tác giả phân tích thịt cơ của gà thấy hàm
lượng sắt dao động từ 10 đến 35 ppm, đồng dao động 0,52 – 7,3 ppm và kẽm dao động
5,7 - 40 ppm.
Theo Sawosz et al. (2018) khi nghiên cứu ảnh hưởng của hạt nano đồng đến hàm
lượng khoáng chất của các mô và sự tăng trưởng của gà Ross 308. Lô đối chứng sử
dụng 7,5 mg Cu/kg thức ăn (CuS04 vô cơ), trong khi đó lô thí nghiệm sử dụng phức
hợp nano đồng có kích thước 45nm, bổ sung với mức 25; 50; 70 và 100 % so với lô

đối chứng. Kết quả hàm lượng Fe thải qua chất thải tại lô đối chứng là 738 mg/kg, các
lô có sử dụng hàm lượng nano đồng với các mức 25; 50; 75 và 100% so với lô đối
chứng thì hàm lượng Fe thải ra lần lượt là 749; 756; 809 và 873 mg/kg, sự sai khác
giữa lô đối chứng và lô sử dụng nano đồng ở mức 25; 50% không có ý nghĩa thống kê;
giữa lô đối chứng và lô sử dụng nano đồng ở mức 75 và 100% có ý nghĩa thống kê
(P<0,05). Giữa các lô có sử dụng nano đồng thì mức sử dụng 25% lượng Fe thải ra là
thấp nhất, giữa lô sử dụng nano đồng mức 25% và 50% sự sai khác không có ý nghĩa
thống kê, tuy nhiên giữa lô sử dụng nano đồng mức 25% và 50% so với lô sử dụng
75% và 100 %, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Hàm lượng Cu thải qua chất
thải tại lô đối chứng là 51 mg/kg; các lô có sử dụng hàm lượng nano đồng với các mức
25; 50; 75 và 100% so với lô đối chứng thì hàm lượng Cu thải ra lần lượt là 28,5; 36,5;
44,7 và 43,5 mg/kg; sự sai khác giữa lô đối chứng và lô sử dụng nano đồng có ý nghĩa
thống kê (P<0,001). Giữa các lô có sử dụng nano đồng thì mức sử dụng 25% lượng Cu
thải ra là thấp nhất, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,001). Hàm lượng Zn thải qua
chất thải tại lô đối chứng là 298 mg/kg, các lô có sử dụng hàm lượng nano đồng với các
mức 25; 50; 75 và 100% so với lô đối chứng thì hàm lượng Zn thải ra lần lượt là 307;
339; 297 và 303 mg/kg, sự sai khác giữa lô đối chứng và lô sử dụng nano đồng không
có ý nghĩa thống kê. Hàm lượng Fe trong cơ thịt gà của lô đối chứng là 24,2 mg/kg, các
5


lô sử sụng nano đồng với mức 25; 50; 70 và 100 % thì hàm lượng Fe trong cơ thịt gà lần
lượt là 23,6; 22,1; 30,5 và 22,9 mg/kg. Hàm lượng Cu trong cơ thịt gà của lô đối chứng
là 1,27 mg/kg; các lô sử sụng nano đồng với mức 25; 50; 70 và 100 % thì hàm lượng Cu
trong cơ thịt gà lần lượt là: 1,46; 1,48; 1,52 và 1,16 mg/kg. Hàm lượng Zn trong cơ thịt
gà của lô đối chứng là 22,0 mg/kg, các lô sử sụng nano đồng với mức 25; 50; 70 và 100
% thì hàm lượng Zn trong cơ thịt gà lần lượt là 21,4; 20,7; 26,0 và 21,9 mg/kg. Hàm
lượng Fe, Cu, Zn trong gan gà của lô đối chứng lần lượt là 970; 16,5 và 126 mg/kg, các
lô sử dụng nano đồng với mức 25; 50; 70 và 100 % thì hàm lượng các nguyên tố Fe, Cu,
Zn trong gan gà cụ thể như sau: hàm lượng Fe từ 812-1090 mg/kg, hàm lượng Cu từ

14,3-15,5 mg/kg và hàm lượng Zn từ 108-137 mg/kg.

PHẦN 3. NỘI DUNG, VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.1.1. Nghiên cứu chế tạo chế phẩm phức kim loại (sắt, đồng, kẽm và selen)
- Nghiên cứu chế tạo các hạt oxit sắt siêu phân tán;
- Nghiên cứu chế tạo các hạt kim loại đồng siêu phân tán;
- Nghiên cứu chế tạo các hạt oxit kẽm siêu phân tán;
- Nghiên cứu chế tạo các hạt selen siêu phân tán;
- Nghiên cứu tạo vỏ bọc các hạt kim loại siêu phân tán.
3.1.2. Nghiên cứu chuyển dạng huyền ph (o it sắt, đồng, o it kẽm và selen siêu
ph n tán) sang dạng bột làm thức ăn chăn nuôi gia cầm
Chuyển dạng huyền phù sắt, đồng, kẽm và selen siêu phân tán thành dạng bột:
Nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độ, thời gian li tâm và số lần rửa siêu âm với từng loại
huyền phù để đạt hiệu quả thu hồi cao.
3.1.3. Nghiên cứu sử dụng chế phẩm phức kim loại (Fe, Cu, Zn, Se) bổ sung vào
thức ăn nuôi gà LV thƣơng phẩm
Ảnh hưởng của các mức chế phẩm phức kim loại đến các chỉ tiêu: một số chỉ tiêu
sinh lý sinh hóa máu; sự tồn dư kim loại trong thịt, nội tạng; sự đào thải qua chất thải
của gà và khả năng sản xuất thịt cũng như chất lượng thịt.
3.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Nghiên cứu chế tạo chế phẩm phức kim loại (sắt, đồng, kẽm và selen)
- Phương pháp chế tạo hạt oxit sắt, oxit kẽm siêu phân tán bằng phương pháp
thủy nhiệt (nghiên cứu, xác định điều kiện tối ưu về pH phản ứng, nhiệt độ phản ứng
và thời gian phản ứng để chế tạo được hạt oxit sắt, oxit kẽm siêu phân tán có kích
thước nhỏ nhất). Xác định kích thước hạt của các hạt oxit sắt và oxit kẽm siêu phân tán
được thực hiện bằng phương pháp SEM.
- Phương pháp chế tạo chế tạo hạt đồng siêu phân tán bằng phương pháp khử,
sử dụng chất khử NaBH4 (xác điều kiện tối ưu về tỷ lệ nồng độ [Na3C6H5O7]/[CuSO4],
pH phản ứng, nhiệt độ phản ứng để chế tạo được hạt đồng siêu phân tán có kích thước

nhỏ nhất). Xác định kích thước của các hạt đồng siêu phân tán tạo thành bằng phương
pháp SEM.
- Phương pháp chế tạo hạt slen siêu phân tán bằng phương pháp ôxy hóa khử, sử
dụng chất khử L-Ascorbic (xác định điều kiện tối ưu về tỷ lệ nồng độ L Ascorbic/Se4+; nồng độ chất ổn định chitosan; pH phản ứng và nồng độ dung dịch
6


selen để chế tạo được hạt selen siêu phân tán có kích thước nhỏ nhất). Xác định kích
thước hạt của các hạt selen siêu phân tán bằng phương pháp TEM.
- Các hạt oxit sắt, đồng, oxit kẽm, selen siêu phân tán được bọc bằng màng bọc
chitosan. Đánh giá các đặc tính vật lý của các hạt oxit sắt, đồng, oxit kẽm và selen siêu
phân tán thu được trên cơ sở khảo sát các giản đồ nhiễu xạ (XRD) trên máy đo nhiễu
xạ tia X.
3.2.2. Nghiên cứu chuyển huyền ph o it sắt, đồng, o it kẽm và selen siêu ph n
tán sang dạng bột
Sử dụng máy ly tâm, tủ sấy, máy siêu âm 750W để nghiên cứu, xác định tốc độ
ly tâm, thời gian ly tâm và số lần rửa siêu âm tối ưu để thu được hiệu suất hạt siêu
phân tán là cao nhất. Đánh giá hiệu quả thu hồi hạt siêu phân tán bằng phương pháp
phân tích quang phổ hấp phụ nguyên tử (AAS) để xác định hàm lượng hạt siêu phân
tán còn lại trong dung dịch huyền phù sau quá trình ly tâm.
Độ sạch của hạt siêu phân tán được đánh giá thông qua phổ EDX. Dựa vào phổ
EDX chúng ta sẽ biết được hàm lượng của các hạt kim loại siêu phân tán, thành phần
tạp chất còn lại có mặt trong mẫu đo. Đánh giá các đặc tính vật lý của các hạt siêu
phân tán trên cơ sở khảo sát XRD, SEM và TEM.
3.2.3. Nghiên cứu sử dụng chế phẩm phức kim loại (Fe, Cu, Zn, Se) bổ sung vào
thức ăn nuôi gà LV thƣơng phẩm
Để khảo sát ảnh hưởng của chế phẩm phức kim loại (sắt, đồng, kẽm và selen)
đến khả năng sản xuất của gà LV thương phẩm, thí nghiệm được bố trí theo phương
pháp chia lô so sánh với tổng số 900 gà LV được đeo số cánh từ 1 ngày tuổi, phân
ngẫu nhiên thành 6 lô, mỗi lô nuôi 150 con, trong 3 ô chuồng (50 con/ô chuồng; lặp lại

ba lần).
Lô I (ĐC1): Gà được ăn khẩu phần cơ sở (KPCS) và được trộn với các nguyên tố
khoáng vi lượng (Fe: 80 mg/kg, Cu: 8 mg/kg, Zn: 40 mg/kg và Selen: 0,15 mg/kg) ở
dạng muối vô cơ với liều lượng từng nguyên tố theo khuyến cáo NRC (1994) cho các
giai đoạn sinh trưởng và phát triển của gà LV nuôi thịt.
Lô II (ĐC2): Gà được ăn KPCS và được trộn với các nguyên tố khoáng vi lượng
(Fe: 70 mg/kg, Cu: 12 mg/kg, Zn: 30 mg/kg và Se: 0,18 mg/kg) ở dạng vô cơ theo liều
khuyến cáo của hãng Bayer.
Bốn lô thí nghiệm còn lại (lô III, lô IV, lô V, lô VI) ăn KPCS được trộn với hỗn
hợp phức kim loại (Fe, Cu, Zn và Se) theo liều tăng dần tương ứng với liều lượng (Fe,
Cu, Zn và Se) bằng 15, 20, 25 và 30% so với công thức lô I (ĐC1).
Để đánh giá ảnh hưởng của chế phẩm phức kim loại đến khả năng sản xuất của
gà LV thương phẩm, chúng tôi đánh giá các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa; khả năng sản
xuất của gà LV thương phẩm theo phương pháp thường dùng trong đánh giá sản xuất
gia cầm; các phương pháp xác định đào thải kim loại qua chất thải của gà, xác định
hàm lượng các kim loại trong thịt, một số cơ quan nội tạng, xác định thành phần hóa
học của thịt gà tại Phòng Phân tích thức ăn và sản phẩm chăn nuôi, Viện Chăn nuôi
(các phép thử đã được cơ quan có thẩm quyền quy định).
3.3. PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Đối với tất cả các chỉ tiêu theo dõi được, tính các tham số thống kê bằng phần mềm
SAS phiên bản 9.1. Sử dụng mô hình MIXED để xử lý số liệu theo mô hình thống kê.
7


PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHẾ PHẨM PHỨC KIM LOẠI CHỨA SẮT,
ĐỒNG, KẼM VÀ SELEN
4.1.1. Kết quả nghiên cứu chế tạo các hạt o it sắt siêu ph n tán
4.1.1.1. Xác định pH thích hợp để tạo hạt oxit sắt siêu phân tán
Sau khi đã khảo sát trước, chúng tôi cố định nhiệt độ phản ứng là 1800C trong

thời gian là 7 giờ; lần lượt điều chỉnh pH phản ứng là 9; 10; 11; 12; 13 để khảo sát,
chụp SEM để đo kích thước hạt sắt siêu phân tán. Kết quả tại pH = 9; 10; 11; 12; 13
cho kích thước trung bình của hạt oxit sắt siêu phân tán lần lượt là 170±0,68; 90± 0,93;
175±0,80; 190±0,94 và 220±1,13 nm.
Như vậy kích thước của các hạt oxit sắt được chế tạo trong điều kiện pH = 10 là
nhỏ nhất, trung bình đạt 90 ± 0,93 nm. Điều này có thể giải thích là khi tăng pH của
phản ứng, làm cho lực hút tĩnh điện mạnh hơn dẫn đến sự hình thành các hạt oxit sắt
lớn hơn (Wenqing et al., 2011). Do đó pH của dung dịch phản ứng là 10 sẽ được chọn
để tiến hành trong các khảo sát tiếp theo.
4.1.1.2. Xác định nhiệt độ dung dịch phản ứng thích hợp để tạo ạt
t ắt siêu
phân tán
Sau khi xác định được pH =10 là thích hợp, chúng tôi tiếp tục cố định thời gian
phản ứng là 7 giờ; khảo sát nhiệt độ với các mức 100; 120; 140; 160; 180oC để lựa
chọn nhiệt độ tối ưu. Tại điểm nhiệt độ khảo sát đều chụp SEM để đo kích thước hạt
oxit sắt. Qua ảnh SEM cho thấy các hạt oxit sắt được chế tạo với nhiệt độ phản ứng
khác nhau có cấu trúc tinh thể, các hạt có kích thước tương đối đồng đều, biên hạt tương
đối rõ ràng. Từ các ảnh SEM có thể xác định được kích thước trung bình của các hạt
oxit sắt. Kích thước hạt sắt oxit được tạo ra khi nhiệt độ phản ứng là 100; 120; 140; 160;
180oC lần lượt là 140±1,55; 110± 1,21; 150± 1,75; 120± 1,87 và 90±1,68 nm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay đổi của nhiệt độ phản ứng có ảnh hưởng
đến hình thái và kích thước của các hạt oxit sắt siêu phân tán. Kích thước của các hạt
oxit sắt siêu phân tán được chế tạo trong điều kiện nhiệt độ phản ứng 180oC có kích
thước nhỏ nhất, trung bình đạt 90 ± 1,68 nm. Điều này có thể giải thích là: khi tăng
nhiệt độ phản ứng trong bình Teflon diễn ra mãnh liệt hơn và tạo ra sự xáo trộn mạnh
dẫn đến sự phân tán các hạt oxit sắt tốt hơn (Wenqing et al., 2011). Tại nhiệt độ của
dung dịch phản ứng là 180oC đã chế tạo được hạt oxit sắt có kích thước nano (90 ±
1,68 nm). Với nhiệt độ đã xác định được như trên, chúng tôi lựa chọn nhiệt độ của
dung dịch phản ứng là 180oC để tiến hành trong các khảo sát tiếp theo.
4.1.1.3. Xác định thời gian phản ứng thích hợp để tạo ạt

t ắt siêu phân tán
Sau khi xác định được pH phản ứng thích hợp (pH=10), nhiệt độ phản ứng thích
hợp (180oC), chúng tôi nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến quá trình
hình thành hạt oxit sắt siêu phân tán. Thời gian phản ứng được khảo sát từ 1; 2; 3; 5 và
7 giờ. Mẫu oxit sắt được chế tạo với điều kiện pH = 10 và nhiệt độ phản ứng là 180 oC
được giữ cố định. Các mẫu oxit sắt chế tạo được chụp SEM để xác định kích thước
hạt. Từ các ảnh SEM của hạt oxit sắt siêu phân tán có thể xác định được kích thước
trung bình của các hạt oxit sắt siêu phân tán, cụ thể: thời gian 1; 2; 3; 5 và 7 giờ kích
thước hạt oxit sắt trung bình lần lượt là 135± 1,30; 140 ± 1,55; 140 ± 1,70; 135 ± 1,41
8


và 90± 1,64 nm.
Như vậy kích thước của các hạt oxit sắt được chế tạo trong điều kiện thời gian
phản ứng là 7 giờ, pH = 10 và nhiệt độ phản ứng là 180oC, hạt oxit sắt có kích thước
nhỏ nhất, trung bình đạt 90 ± 1,64 nm. Điều này có thể giải thích là khi tăng thời gian
của phản ứng làm cho sự phân tán các hạt oxit sắt tốt hơn nên kích thước oxit sắt sẽ
nhỏ hơn. Thời gian phản ứng là 7 giờ đã chế tạo được hạt oxit sắt có kích thước nano
(90±1,64 nm), nên chúng tôi lựa chọn thời gian phản ứng là 7 giờ.
4.
t ả t t lập đ ều kiện thích hợp của quá trình ch tạo các hạt oxit sắt
siêu phân tán bằng p ương p áp t ủy nhiệt
Từ các kết quả khảo sát ảnh hưởng của pH, nhiệt độ và thời gian phản ứng, vật
liệu Fe2O3 được chế tạo bằng phương pháp thủy nhiệt theo những điều kiện thích hợp
sau: pH = 10; nhiệt độ phản ứng: 180oC; thời gian phản ứng: 7 giờ; kích thước hạt oxit
sắt siêu phân tán thu được là nhỏ nhất trung bình 90 nm. Với kích thước hạt oxit sắt
siêu phân tán đã thu được chúng tôi có thể khẳng định rằng: bằng phương pháp thủy
nhiệt với điều kiện trên sẽ chế tạo được hạt nano oxit sắt (kích thước trung bình là 90
nm).
4.1.2. Nghiên cứu chế tạo các hạt kim loại đồng siêu ph n tán sử dụng NaBH4 làm

chất khử
4.1.2.1. Xác định pH thích hợp để tạo hạt đồng siêu phân tán
Khảo sát với dung dịch đồng với nồng độ 400 ppm, nồng độ natri citrat trong
dung dịch là 720 ppm, tỷ lệ mol NaBH4/Cu2+ = 8,0. Phản ứng được duy trì ở nhiệt độ
30oC. pH khảo sát: 8; 8,5; 9; 9,5; 10; 11.
Kết quả chụp SEM của hạt đồng siêu phân tán cho thấy, các hạt đồng siêu phân
tán có kích thước tương đối đồng đều. Kích thước hạt đồng siêu phân tán trung bình 20
nm - 40 nm và đồng đều nhất tại pH= 9,0 (kích thước 20± 0,96 nm). Phản ứng khử ion
Cu2+ thành Cu xảy ra khó hơn khi pH của hệ phản ứng lớn hơn 9. Độ pH của môi
trường phản ứng có ảnh hưởng lớn đến quá trình khử ion Cu2+. Việc tăng cường động
học của phản ứng có thể có lợi cho việc giảm kích thước tinh thể đồng do sự tăng tỷ lệ
mầm trong hệ phản ứng. pH của phản ứng được điều chỉnh từ 7-11 bằng cách nhỏ giọt
dung dịch NaOH 0,6 M. Trong một báo cáo khác của Dang Thi My Dung et al. (2011)
cho biết pH tối ưu của phản ứng điều chế nano đồng được chọn bằng 10. Tuy nhiên, sự
khác nhau này có thể được giải thích do sự giảm kích thước của hạt đồng siêu phân tán
còn phụ thuộc vào loại dung môi, chất ổn định, nhiệt độ và tỷ lệ các tiền chất trong hệ
phản ứng. Trong trường hợp này, có thể có một số sự thay đổi trong sự sắp xếp của các
phân tử chất ổn định xung quanh các hạt đồng như là một hệ quả của sự thay đổi trong
pH. Vì vậy nhóm nghiên cứu chọn pH = 9 để thực hiện nghiên cứu tiếp theo.
4.1.2.2. Xác định nhiệt độ phản ứng thích hợp để tạo hạt đồng siêu phân tán
Sau khi lựa chọn được pH =9 là thích hợp, chúng tôi cố định thời gian phản ứng là
1 giờ và pH = 9 để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đến quá trình hình
thành, hình thái và kích thước hạt Cu siêu phân tán. Nhiệt độ khảo sát: 6; 15; 22 và
30oC.
Kết quả thu được trên ảnh SEM cho thấy, khi cố định pH=9, thời gian phản ứng
1 giờ, nhiệt độ khảo sát tại các thời điểm trên, cho kích thước hạt đồng siêu phân tán
trung bình 20-50 nm; kết quả này phù hợp với kết quả một số nhóm nghiên cứu đã công
9



bố (Larry, 2006; Church, 1989) kích thước hạt đồng siêu phán tán thu được dao động từ
10 nm đến 90 nm. Về cơ bản, tốc độ phản ứng khử ion Cu2+ tăng khi nhiệt độ phản ứng
tăng, do đó tốc độ của phản ứng tổng hợp tăng nhanh nên khó kiểm soát sự hình thành
kích thước hạt. Khi chất khử được thêm vào hỗn hợp phản ứng tại nhiệt độ 30oC, tốc độ
hình thành hạt kim loại siêu phân tán và kết tụ tăng lên. Những kết quả này dẫn đến hình
thành các hạt kim loại siêu phân tán với kích thước trung bình cao hơn. Với nhiệt độ
phản ứng là 30oC, kích thước hạt đồng siêu phân tán nhỏ nhất, đồng đều nhất (20 ± 1,07
nm). Do đã chế tạo được hạt đồng có kích thước nano ở nhiệt độ 30oC nên chúng tôi lựa
chọn nhiệt độ phản ứng là 30oC để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo.
4.1.2.3. Xác định tỷ lệ nồng độ mol [Na3C6H5O7]/[CuSO4] thích hợp để tạo hạt đồng
siêu phân tán
Tỷ lệ nồng độ mol [Na3C6H5O7(Citratrat)]/[CuSO4(Cu2+)] từ 0,6; 1,2; 1,8; 2,4 và
3,0 ảnh hưởng đến quá trình hình thành hạt đồng siêu phân tán đã được khảo sát.
Kết quả chụp SEM của hạt đồng siêu phân tán cho thấy, kích thước hạt đồng siêu
phân tán khi tỷ lệ nồng độ mol [Na3C6H5O7(Citratrat)]/[CuSO4(Cu2+)] là 0,6; 1,2; 1,8;
2,4 và 3,0 lần lượt là 30 ±1,83; 25 ±1,29; 20 ± 1,16; 20 ± 0,84 và 30 ± 1,43 nm. Có thể
thấy với tỷ lệ [Citrat]/[Cu2+] = 1,8 và tỷ lệ [Citrat]/[Cu2+] = 2,4 cho kết quả hạt đồng siêu
phân tán tốt nhất; kích thước hạt đồng siêu phân tán nhỏ nhất. Điều này có thể được giải
thích như sau: trong quá trình phản ứng, do các ion Cu2+ đã được gắn lên trên các
polyme nên không thể lớn lên một cách tự do. Hơn nữa các hạt khi vừa hình thành đã
được ngăn cách với nhau bởi lớp vỏ polyme lớn và không thể kết tụ được với nhau.
Điều này đã khống chế cả quá trình lớn lên và tập hợp của các hạt đồng siêu phân tán,
do đó dễ tạo hạt đồng đều. Tuy nhiên, khi nồng độ natri citrat trong dung dịch cao,
([Citrat]/[Cu2+] = 3,0), kích thước trung bình của hạt đồng siêu phân tán sẽ lớn hơn. Khi
tỷ lệ [Citrat]/[Cu2+] quá thấp, các hạt đồng siêu phân tán mới hình thành không được bảo
vệ và do vậy chúng dễ dàng tập hợp với nhau thành hạt lớn hơn. Với kết quả nghiên cứu
trên, chúng tôi chọn tỷ lệ [Citrat]/[Cu2+] = 1,8 để chế tạo hạt đồng siêu phân tán.
t ả t t lập các đ ều kiện thích hợp để tạo hạt đồng siêu phân tán, sử
dụng chất khử NaBH4
Như vậy, các hạt đồng siêu phân tán đã được chế tạo thành công bằng phương

pháp khử hóa học, sử dụng NaBH4 làm chất khử. Xác định điều kiện thích hợp chế tạo
vật liệu đồng siêu phân tán: Tỷ lệ nồng độ mol [Na3C6H5O7]/[CuSO4] = 1,8, pH phản
ứng = 9,0, nhiệt độ phản ứng ở 30oC. Kích thước hạt đồng thu được là nhỏ nhất
(khoảng 20 nm). Với kích thước hạt đồng siêu phân tán đã thu được có thể khẳng định
rằng: bằng phương pháp khử hóa học, sử dụng NaBH4 làm chất khử với điều kiện trên,
có thể chế tạo được hạt nano đồng (kích thước trung bình là khoảng 20 nm).
4.1.3. Kết quả nghiên cứu chế tạo các hạt o it kẽm siêu ph n tán
4.1.3.1. Xác định pH thích hợp để tạo hạt oxit kẽm siêu phân tán
Nghiên cứu ảnh hưởng của pH đến quá trình hình thành hạt oxit kẽm siêu phân
tán được khảo sát ở pH từ 9,0; 10,0; 11,0; 12,0; 13,0. Hạt oxit kẽm được chế tạo với
nhiệt độ phản ứng là 180oC và thời gian phản ứng là 7 giờ cố định. Phân tích cấu trúc
tinh thể và đo kích thước hạt oxit kẽm thu được để tìm ra điều kiện tối ưu nhất.
Qua hình ảnh SEM cho thấy kết quả tại pH = 9; 10; 11; 12; 13 cho kích thước
10


trung bình của hạt oxit kẽm siêu phân tán lần lượt là 170± 2,61; 60± 2,90; 175± 2,80;
190± 3,44 và 220±1,90 nm. Như vậy có thể thấy rằng kích thước của các hạt oxit kẽm
được chế tạo trong điều kiện pH = 13 là lớn nhất (220±1,90 nm), trong khi đó các hạt
oxit kẽm được chế tạo với điều kiện pH = 10, kích thước hạt oxit kẽm trung bình đạt
60 ± 2,90 nm. Điều này có thể giải thích là khi tăng pH của phản ứng, làm cho lực hút
tĩnh điện mạnh hơn dẫn đến sự hình thành các hạt oxit kẽm lớn hơn (Byrappa, 2007).
Do đó pH = 10 sẽ được chọn để tiến hành trong các khảo sát tiếp theo.
4.1.3.2. Xác định nhiệt độ dung dịch phản ứng thích hợp để tạo hạt oxit kẽm siêu
phân tán
Sau khi xác định được pH phản ứng thích hợp (pH=10) để tổng hợp các hạt oxit
kẽm, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đến quá trình hình
thành hạt oxit kẽm. Nhiệt độ phản ứng được khảo sát là: 100; 120; 140; 160; 180oC. Mẫu
oxit kẽm được chế tạo với trong điều kiện pH phản ứng là 10 và thời gian phản ứng là 7
giờ giữ cố định. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay đổi của nhiệt độ phản ứng có

ảnh hưởng đến hình thái và kích thước của các hạt oxit kẽm. Kích thước của các hạt
oxit kẽm được chế tạo trong điều kiện nhiệt độ phản ứng 180 oC có kích thước nhỏ
nhất, trung bình đạt 70 ± 1,73 nm. Như vậy khi tăng nhiệt độ của phản ứng, làm cho
phản ứng trong bình Teflon diễn ra mãnh liệt hơn và tạo ra sự xáo trộn mạnh hơn dẫn
đến sự phân tán các hạt oxit kẽm tốt hơn.
Nhiệt độ của dung dịch phản ứng là 180 oC đã chế tạo được hạt oxit kẽm có kích
thước nano (70 ± 1,73 nm), trên cơ sở đó chúng tôi lựa chọn nhiệt độ phản ứng là
180oC để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo.
4.1.3.3. Xác định thời gian phản ứng thích hợp để tạo hạt
t ẽ
p n tán
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến quá trình hình thành
hạt oxit kẽm siêu phân tán được khảo sát: 1; 2; 3; 5 và 7 giờ. Mẫu được chế tạo với pH
phản ứng là 10 và nhiệt độ phản ứng là 180oC giữ cố định.
Qua hình ảnh SEM cho thấy thấy sự thay đổi của thời gian phản ứng có ảnh
hưởng đến hình thái và kích thước của các hạt oxit kẽm siêu phân tán. Kích thước hạt
oxit kẽm siêu phân tán được chế tạo trong điều kiện thời gian phản ứng là 7 giờ có
kích thước nhỏ nhất, trung bình đạt 60 ± 1,30 nm. Khi tăng thời gian của phản ứng đã
làm cho sự phân tán các hạt oxit kẽm tốt hơn nên kích thước oxit kẽm sẽ nhỏ hơn.
Thời gian phản ứng 7 giờ đã chế tạo được hạt oxit kẽm có kích thước nano (60
± 1,03 nm), do vậy chúng tôi lựa chọn thời gian phản ứng là 7 giờ.
4.1.3
t ả t t lập đ ều kiện thích hợp của quá trình ch tạo các hạt oxit kẽm
siêu phân tán bằng p ương p áp t ủy nhiệt
Qua kết quả khảo sát ảnh hưởng của pH, nhiệt độ và thời gian phản ứng đến kích
thước hạt oxit kẽm siêu phân tán, cho thấy bằng phương pháp thủy nhiệt, hạt oxit kẽm được
chế tạo với điều kiện pH = 10, nhiệt độ phản ứng là 180oC, thời gian phản ứng là 7 giờ sẽ
cho kích thước hạt oxit kẽm siêu phân tán thu được là nhỏ nhất trung bình từ 60-70 nm.
Với kích thước hạt oxit kẽm siêu phân tán đã thu được có thể khẳng định rằng:
bằng phương pháp thủy nhiệt với điều kiện pH = 10, nhiệt độ phản ứng là 180oC, thời

gian phản ứng là 7 giờ, có thể chế tạo được hạt nano oxit kẽm (kích thước trung bình
là 60-70 nm).
11


4.1.4. Chế tạo các hạt selen siêu ph n tán bằng phƣơng pháp khử, sử dụng chất
khử L-Ascorbic
4.1.4.1. Xác định tỷ lệ nồng độ mol [L-Ascorbic]/[Se4+] thích hợp để ch tạo hạt
selen siêu phân tán
Nồng độ axit L-Ascorbic là một trong những yếu tố quyết định và ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình hình thành sản phẩm hạt selen siêu phân tán. Nồng độ axit L-Ascorbic
không được quá lớn để tránh quá trình phản ứng xảy ra quá nhanh, các hạt selen tạo
thành dễ có khả năng keo tụ. Vì vậy tiến hành khảo sát tỷ lệ nồng độ mol [LAscorbic]/[Se4+] theo các tỷ lệ 3,0; 4,0; 5,0; 6,0 và 10,0, nhiệt độ tiến hành phản ứng tại
nhiệt độ phòng.
Qua ảnh TEM của mẫu dung dịch selen siêu phân tán với nồng độ 200 ppm với
tỷ lệ nồng độ mol [L-Ascorbic]/[Se4+] là 3,0; 4,0; 5,0; 6,0 và 10,0 cho kích thước hạt
selen lần lượt tlà 65 ±1,96; 60±1,25; 70 ± 1,93; 75± 1,65 và 80±1,55 nm. Kết quả
nghiên cứu cho thấy thi tăng tỷ lệ nồng độ mol [L-Ascorbic]/[Se4+] từ 3,0-5,0 cho thấy
có sự xuất hiện của các hạt selen có hình cầu, kích thước từ 60 - 80 nm đồng đều, tuy
nhiên khi nồng độ axit L-Ascorbic tăng lên 6,0 và 10,0 các hạt selen siêu phân tán bắt
đầu có sự co cụm tạo thành những hạt lớn hơn và dung dịch không bền theo thời gian.
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi chọn tỷ lệ nồng độ mol [L-Ascorbic]/[Se4+] = 4
để chế tạo hạt selen với kích thước là 60 ± 1,25 nm.
4.1.4.2. Xác định nồng độ chất ổn định chitosan thích hợp để tạo hạt selen siêu
phân tán
Vai trò của chất ổn định chitosan là rất quan trọng trong quá trình điều chế hạt
selen siêu phân tán. Để tăng nồng độ của hạt selen trong dung dịch và tăng độ đồng
đều của các hạt selen siêu phân tán, chống lại quá trình co cụm của các hạt thì cần
khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng chất ổn định. Tiến hành điều chế dung dịch selen
siêu phân tán 200 ppm với nồng độ chitosan tương ứng: 300 ppm, 400 ppm, 500 ppm,

600 ppm, 700 ppm. Kết quả chụp ảnh TEM mẫu đại diện để đánh giá hình thái và kích
thước của các hạt selen thu được sau 24 giờ điều chế.
Kích thước của các hạt selen trong các mẫu khảo sát có nồng độ chitosan từ 300
ppm đến 700 ppm cho kích thước hạt từ 55-70 nm. Tuy nhiên, khi nồng độ chitosan
cao thì độ nhớt trong dung dịch tăng cũng ảnh hưởng đến quá trình phản ứng, làm phản
ứng xảy ra chậm các hạt selen tạo thành có điều kiện để co cụm với nhau dẫn đến kích
thước các hạt tăng. Vậy nồng độ chitosan tối ưu cho quá trình điều chế dung dịch selen
siêu phân tán được chọn là 500 ppm, kích thước trung bình là 55 ± 1,79 nm.
4.1.4.3. Xác định pH thích hợp để tạo hạt selen siêu phân tán
Amoni hydroxyl (NH4OH) và axit axetic (CH3COOH) được sử dụng như môi
trường đệm để duy trì sự ổn định pH của dung dịch. Để khảo sát ảnh hưởng của pH
đến quá trình hình thành dung dịch selen siêu phân tán, chúng tôi tiến hành khảo sát
với dung dịch selen với nồng độ 100 ppm, nồng độ chitosan trong dung dịch là 500
ppm, tỷ lệ [L-Ascorbic]/[Se4+] = 4,0. Phản ứng được duy trì ở nhiệt độ phòng thí
nghiệm. Khi pH =7,0 và 8,0: dung dịch selen siêu phân tán bị tủa ngay sau điều chế.
Chúng tôi tiến hành đo TEM ba mẫu đại diện dung dịch selen 200 ppm với pH = 4, pH
= 5 và pH = 6 cho kích thước hạt selen lần lượt là 65 ± 2,39; 80 ± 1,55 và 70 ± 1,71nm.
Kết quả đo TEM cho thấy kích thước hạt selen thu được khá đồng đều và nhỏ
nhất ở pH = 4 (với kích thước là 65 ± 2,39 nm). Tuy nhiên, khi pH tăng lên các hạt
12


selen tạo thành có xu hướng kết tụ lại với nhau, dẫn đến độ ổn định của dung dịch
selen siêu phân tán giảm. Chúng tôi chọn pH = 4 để thực hiện nghiên cứu tiếp theo.
4.1.4.4. Xác định nồng độ selen thích hợp để tạo hạt selen siêu phân tán
Sau khi chọn được các điều kiện thích hợp: nồng độ chất khử, giá trị pH, nồng
độ chất ổn định chitosan trong dung dịch. Chúng tôi tiến hành khảo sát ảnh hưởng của
nồng độ Se4+ đến hình thái và kích thước của hạt selen siêu phân tán.
Nồng độ selen khảo sát là 100 ppm, 200 ppm, 300 ppm, 400 ppm và 500 ppm.
Kết quả đo TEM cho thấy mẫu dung dịch selen có nồng độ 100 ppm đến 500 ppm hạt

thu được hình cầu, kích thước hạt tương đối đồng đều chủ yếu khoảng 60 - 100 nm.
Tuy nhiên đối với dung dịch selen nồng độ 500 ppm, các hạt có kích thước lớn hơn và
độ đồng đều kém hơn so với mẫu dung dịch selen nồng độ 100 ppm. Điều này cho
thấy khi nồng độ selen trong dung dịch cao, các hạt dễ có xu hướng kết tụ tạo thành
hạt lớn hơn. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn nồng độ chất ổn định chitosan
(nồng độ dung dịch selen) là 100 ppm để chế tạo hạt selen với kích thước hạt là 60±
1,16 nm.
4.1.4.5. t ả t t lập các đ ều kiện thích hợp để tạo vật liệu selen siêu phân tán
bằng p ương p áp ử, sử dụng L-Ascorbic làm chất khử
Các hạt selen siêu phân tán đã được chế tạo thành công bằng phương pháp oxy
hóa khử, sử dụng axit L -Ascorbic làm chất khử. Từ các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng
của tỷ lệ nồng độ với tỷ lệ nồng độ mol [L-Ascorbic]/[Se4+] tăng dần từ 3,0; 4,0; 5,0; 6,0
và 10,0 lần, nồng độ chất ổn định chitosan 300; 400; 500; 600 và 700 ppm, pH dung
dịch phản ứng 4; 5; 6; 7; 8 và nồng độ selen từ 100; 200; 300; 400 và 500 ppm đến quá
trình hình thành hạt selen siêu phân tán đã được khảo sát.
Tìm ra điều kiện thích hợp để tổng hợp các selen siêu phân tán: tỷ lệ nồng độ mol
[L-Ascorbic]/[Se4+] là 4,0; nồng độ chất ổn định chitosan là 500 ppm; pH dung dịch phản
ứng là 4,0 nhiệt độ phản ứng duy trì ở nhiệt độ phòng; nồng độ dung dịch selen là 100
ppm, hạt selen thu được kích thước nhỏ nhất và đồng đều trung bình từ 55 - 70 nm. Với
kích thước hạt selen siêu phân tán đã thu được có thể khẳng định bằng phương pháp oxy
hóa khử, sử dụng axit L -Ascorbic làm chất khử, với điều kiện tỷ lệ nồng độ mol [LAscorbic]/[Se4+] là 4,0; nồng độ chất ổn định chitosan là 500 ppm; pH dung dịch phản
ứng là 4,0; nhiệt độ phản ứng duy trì ở nhiệt độ phòng; nồng độ dung dịch selen là 100
ppm có thể chế tạo được hạt nano selen (kích thước trung bình là 55 - 70 nm).
4.1.5. Kết quả nghiên cứu tạo v bọc các hạt siêu ph n tán
Các hạt kim loại, oxit kim loại sau khi được chế tạo được bọc vỏ bọc chitosan.
Đo kích thước các hạt bằng phương pháp nhiễu xạ tia X. Kết quả phân tích kích thước
hạt cho thấy các hạt oxit sắt, đồng, oxit kẽm và selen sau khi bọc có kích thước ổn
định và vẫn nằm trong vùng kích thước nanomet. Cụ thể tại bảng 4.1.
Bảng 4.1. Kích thƣớc của các hạt siêu ph n tán sau khi tạo v bọc
Hạt nano

Hạt nano oxit sắt
Hạt nano đồng
Hạt nano oxit kẽm
Hạt nano selen

Kích thƣớc hạt (nm)
Mean ± SE
90 ± 1,20
25 ± 1,03
70 ± 1,28
70 ± 1,55
13

Cv (%)
4,22
13,06
5,79
7,03


4.2. KẾT QUẢ CHUYỂN ĐỔI CÁC DUNG DỊCH HUYỀN PHÙ CỦA HẠT
SIÊU PHÂN TÁN THÀNH DẠNG BỘT
4.2.1. Ảnh hƣởng của tốc độ ly t m đến hiệu suất thu hồi các hạt kim loại, oxit
kim loại siêu phân tán
4.2.1.1. Ản ưởng của tốc độ ly t
đ n hiệu suất thu hồi các hạt oxit sắt siêu
phân tán
Với cùng lượng Fe2O3 ban đầu là 135 mg, sau khi sử dụng tốc độ ly tâm khác nhau
(từ 1.000 vòng/phút; 3.000 vòng/phút; 5.000 vòng/phút và 7.000 vòng/phút) lượng Fe2O3
thu được có sự khác nhau. Tại tốc độ ly tâm 1.000 vòng/phút và 3.000 vòng/phút, hiệu

suất thu hồi hạt oxit sắt siêu phân tán đạt khá thấp (27,95% và 74,15%); Kết quả này là
do ứng suất của trường lực ly tâm quán tính lớn hơn nhiều lần ứng suất của trường trọng
lực cho nên việc phân chia dưới tác động của trường lực ly tâm xảy ra rất nhanh và
hoàn toàn. Khi tốc độ ly tâm đạt là 7.000 vòng/phút thì hiệu suất thu hồi hạt oxit sắt
siêu phân tán là cao nhất, đạt 99,21% (khoảng 99,21% hạt sắt siêu phân tán đã được
tách khỏi dung dịch huyền phù).
4.2.1.2. Ản ưởng của tốc độ ly t đ n hiệu suất thu hồi các hạt đồng siêu phân tán
Kết quả nghiên cứu cho thấy: với cùng lượng Cu ban đầu là 135 mg, sau khi sử
dụng tốc độ ly tâm khác nhau (từ 3.000 vòng/phút; 6.000 vòng/phút; 8.000 vòng/phút
và 10.000 vòng/phút) lượng Cu thu được có sự khác nhau. Tại tốc độ ly tâm 3.000
vòng/phút và 6.000 vòng/phút, hiệu suất thu hồi hạt đồng siêu phân tán đạt khá thấp.
Kết quả này là do ứng suất của trường lực ly tâm quán tính lớn hơn nhiều lần ứng suất
của trường trọng lực cho nên việc phân chia dưới tác động của trường lực ly tâm xảy
ra rất nhanh và hoàn toàn. Hiệu suất thu hồi hạt đồng siêu phân tán có xu hướng tăng
khi tăng tốc độ ly tâm từ 3.000 vòng/phút lên 10.000 vòng/phút. Khi tốc độ ly tâm đạt
10.000 vòng/phút hiệu suất thu hồi hạt đồng siêu phân tán đạt cao nhất (93,38 %).
4.2.1.3. Ản

ưởng của tốc độ ly t

đ n hiệu suất thu hồi các hạt kẽm siêu phân tán

Với cùng lượng ZnO ban đầu là 135 mg, sau khi sử dụng tốc độ ly tâm 2.000
vòng/phút; 4.000 vòng/phút; 6.000 vòng/phút và 8.000 vòng/phút thì hiệu suất thu hồi
hạt oxit kẽm lần lượt là 40,21; 60,82; 89,34 và 96,58%. Hiệu suất thu hồi hạt kẽm siêu
phân tán có xu hướng tăng khi tốc độ ly tâm tăng từ 2.000 vòng/phút lên 8.000
vòng/phút, cao nhất ở tốc độ ly tâm 8.000 vòng/phút có 96,58% hạt kẽm siêu phân tán
đã được tách khỏi dạng huyền phù, thấp nhất ở tốc độ ly tâm 2.000 vòng/phút (hiệu
suất thu hồi đạt 40,21%).
4.2.1.4. Ản


ưởng của tốc độ ly t

đ n hiệu suất thu hồi các hạt selen siêu phân tán

Với cùng lượng selen ban đầu là 135 mg, sau khi sử dụng tốc độ ly tâm 3.000
vòng/phút; 5.000 vòng/phút; 7.000 vòng/phút và 9.000 vòng/phút thì hiệu suất thu hồi
hạt selen siêu phân tán lần lượt là 38,86; 65,47; 79,94 và 90,28 %. Tốc độ ly tâm 9.000
vòng/phút hiệu suất thu hồi hạt selen siêu phân tán là cao nhất đạt 90,28 % (có 90,28 hạt
selen siêu phân tán đã được tách khỏi dạng huyền phù); thấp nhất là tốc độ ly tâm 3.000
vòng/phút, hiệu suất thu hồi các hạt selen siêu phân tán là 38,86 % (chỉ có 38,86% hạt
selen siêu phân tán đã được tách khỏi dạng huyền phù).
14


4.2.2. Ảnh hƣởng của thời gian ly t m đến hiệu suất thu hồi các hạt kim loại, o it
kim loại siêu ph n tán
4.2.2.1. Ản ưởng của thờ g an ly t
đ n hiệu suất thu hồi các hạt oxit sắt siêu
phân tán
Tốc độ ly tâm sử dụng khảo sát ảnh hưởng của thời gian ly tâm đến hiệu suất thu
hồi các hạt oxit sắt siêu phân tán là 7.000 vòng/phút (tốc độ ly tâm đạt được hiệu suất thu
các hạt sắt siêu phân tán cao là 99,21%). Thời gian ly tâm khảo sát là (3 phút, 6 phút, 9
phút, 12 phút và 15 phút). Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu suất thu hồi các hạt oxit sắt
siêu phân tán gần như hoàn toàn khi thời gian ly tâm bằng 15 phút (đạt 99,71%), thấp
nhất là 64,72% ở thời gian ly tâm là 3 phút.
4.2.2.2. Ản ưởng của thờ g an ly t
đ n hiệu suất thu hồi các hạt đồng siêu
phân tán
Tốc độ ly tâm sử dụng khảo sát khảo sát ảnh hưởng của thời gian ly tâm đến hiệu

suất thu hồi các hạt đồng siêu phân tán là 10.000 vòng/phút (tốc độ ly tâm đạt được
hiệu suất thu các hạt đồng siêu phân tán cao là 93,38 %). Thời gian ly tâm khảo sát là
(5 phút, 10 phút, 15 phút, 20 phút và 25 phút). Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu suất
thu hồi hạt đồng siêu phân tán đạt cao nhất là 93,76 % tại thời gian ly tâm là 25 phút
và thấp nhất là 70,08 % tại thời gian ly tâm là 5 phút.
3 Ản ưởng của t ờ g an ly t
đ n ệ
ất t
ồ các ạt oxit ẽ
phân tán
Tốc độ ly tâm sử dụng khảo sát khảo sát ảnh hưởng của thời gian ly tâm đến hiệu
suất thu hồi các hạt oxit kẽm siêu phân tán là 8.000 vòng/phút (tốc độ ly tâm đạt được
hiệu suất thu các hạt kẽm siêu phân tán cao là 96,58 %). Thời gian ly tâm khảo sát là
(5 phút, 10 phút, 15 phút, 20 phút và 25 phút).
Kết quả nghiên cứu cho thấy: với cùng lượng ZnO ban đầu là 135 mg, với tốc độ
ly tâm là 8.000 vòng/phút, tại thời gian ly tâm là 5 phút, hiệu suất thu hồi hạt kẽm siêu
phân tán thấp nhất đạt 73,06 %; hiệu suất thu hồi các hạt oxit kẽm siêu phân tán gần
như hoàn toàn khi thời gian ly tâm bằng 25 phút (98,36 % hạt kẽm siêu phân tán đã
tách khỏi dung dịch huyền phù).
4.2.2.4. Ản ưởng của thờ g an ly t
đ n hiệu suất thu hồi các hạt selen siêu
phân tán
Tốc độ ly tâm sử dụng khảo sát khảo sát ảnh hưởng của thời gian ly tâm đến hiệu
suất thu hồi các hạt selen siêu phân tán là 9.000 vòng/phút (tốc độ ly tâm đạt được hiệu
suất thu các hạt selen siêu phân tán cao là 90,28%); thời gian ly tâm khảo sát là (10;
15; 20; 25 và 30 phút).
Hiệu suất thu hồi các hạt selen siêu phân tán tăng khi tăng thời gian ly tâm tăng từ
10 lên 30 phút. Hiệu suất thu hồi các hạt selen siêu phân tán tại thời gian ly tâm 10; 15;
20; 25 và 30 phút lần lượt là 68,96; 76,14; 83,72; 90,28 và 92,38%. Như vậy tại thời
gian 30 phút hiệu suất thu hồi hạt selen siêu phân tán đạt cao nhất là 92,38%. Hiệu suất

thu hồi các hạt selen siêu phân tán thấp nhất là 68,96 % tại thời gian ly tâm là 10 phút.
15


4.2.3. Ảnh hƣởng của số lần rửa đến độ sạch của các hạt kim loại, o it kim loại
siêu phân tán
Để loại bỏ tạp chất thì số lần rửa là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến độ sạch
của các hạt siêu phân tán, trong nghiên cứu này chúng tôi khảo sát ảnh hưởng của số lần
rửa (1 lần, 3 lần, 5 lần và 7 lần) đến độ sạch của hạt siêu phân tán. Độ sạch của hạt siêu
phân tán được đánh giá thông qua phổ EDX. Dựa vào phổ EDX chúng ta sẽ biết được
hàm lượng của các hạt siêu phân tán, thành phần tạp chất còn lại có mặt trong mẫu đó.
4.2.3.1. Ản ưởng của số lần rửa đ n độ sạch các hạt oxit sắt siêu phân tán
Độ sạch của hạt oxit sắt siêu phân tán phụ thuộc rất lớn vào số lần rửa siêu âm. Khi
số lần rửa siêu âm tăng lên, thành phần phần trăm về khối lượng trung bình của các tạp
chất (Na, S, Al, Cu) trong mẫu Fe2O3 đều giảm đi. Khi mẫu Fe2O3 được rửa siêu âm 5 lần
và 7 lần thành phần phần trăm về khối lượng trung bình của các tạp chất thay đổi không
đáng kể. Do đó để tiết kiệm chi phí sản xuất, nhóm nghiên cứu lựa số lần rửa siêu âm là 5
lần (nguyên tố Fe là 66,12 ± 0,03 %; Nguyên tố O là 23,52± 0,02 %).
4.2.3.2. Ản ưởng của số lần rửa đ n độ sạch các hạt đồng siêu phân tán
Độ sạch của hạt đồng siêu phân tán phụ thuộc vào số lần rửa siêu âm. Khi số lần
rửa siêu âm tăng lên, thành phần phần trăm về khối lượng trung bình của các tạp chất
(S, Al, Fe) trong mẫu đồng đều giảm đi. Khi mẫu đồng được rửa siêu âm 7 lần, thành
phần phần trăm trung bình các tạp chất trong mẫu đo không đáng kể, do đó chúng tôi
lựa số lần rửa siêu âm là 7 lần (nguyên tố Cu là 86,32 ± 0,03 %).
4.2.3.3. Ản ưởng của số lần rửa đ n độ sạch các hạt kẽm oxit siêu phân tán
Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi số lần rửa siêu âm tăng lên, thành phần phần
trăm về khối lượng trung bình của các tạp chất (Na, S, Al, Cu) trong mẫu ZnO đều
giảm đi. Khi mẫu ZnO được rửa siêu âm 5 lần và 7 lần, thành phần phần trăm về khối
lượng trung bình của các tạp chất thay đổi không đáng kể. Để tiết kiệm chi phí sản
xuất, nhóm nghiên cứu đã chọn số lần rửa siêu âm là 5 lần (nguyên tố Zn là 49,63 ±

0,04%; nguyên tố O là 36,52 ± 0,10%).
4.2.3.4. Ản ưởng của số lần rửa đ n độ sạch các hạt selen siêu phân tán
Kết quả nghiên cứu thấy rằng khi số lần rửa siêu âm tăng lên, thành phần phần
trăm về khối lượng trung bình của các tạp chất (Na, S, Al, Cu, Fe) trong mẫu selen đều
giảm đi. Khi mẫu selen được rửa siêu âm 5 lần và 7 lần, thành phần phần trăm về khối
lượng trung bình của các tạp chất thay đổi không đáng kể. Để tiết kiệm chi phí sản xuất,
nhóm nghiên cứu lựa số lần rửa siêu âm là 5 lần (nguyên tố Se là 60,55 ± 0,05 %).
4.3. NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG CHẾ PHẨM PHỨC KIM LOẠI (SẮT, ĐỒNG,
KẼM, SELEN) LÀM THỨC ĂN NUÔI GÀ LV THƢƠNG PHẨM
4.3.1. Ảnh hƣởng của chế phẩm phức kim loại chứa Fe, Cu, Zn và Se đến một số
chỉ số sinh lý, sinh hoá máu gà LV thƣơng phẩm
Việc sử dụng phức kim loại siêu phân tán ở các mức khác nhau trong khẩu phần ăn
của gà LV thương phẩm không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu về sinh hoá máu, nhưng lại
ảnh hưởng đến một số chỉ tiêu sinh lý máu (số lượng hồng cầu, bạch cầu và hàm lượng
hemoglobin) của gà LV thương phẩm. Một số chỉ tiêu sinh lý máu có xu hướng tăng lên
khi tăng mức sử dụng phức kim loại siêu tán. Tuy nhiên các chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá máu
của gà LV thương phẩm nằm trong khoảng chỉ tiêu sinh lý bình thường của gia cầm và
phù hợp với kết quả công bố của Nguyễn Quang Mai và Cù Xuân Dần (2003) cho thấy,
16


số lượng hồng cầu gà đạt từ 2,5 đến 3,2 triệu/mm3. Số lượng hồng cầu, hàm lượng
hemoglobin, hàm lượng protein, albumin và globulin huyết thanh của gà LV thương
phẩm có xu hướng thấp nhất ở tuần tuổi thứ 4 và đạt cao nhất ở tuần tuổi thứ 8 rồi ổn
định ở tuần tuổi thứ 12.
Phức kim loại ở dạng siêu phân tán không ảnh hưởng đến hàm lượng protein
huyết thanh, hàm lượng albumin huyết thanh, hàm lượng globulin huyết thanh
(P>0,05), ngoại trừ số lượng hồng cầu, hàm lượng hemoglobin (P<0,01), chỉ số A/G
(P<0,05) và số lượng bạch cầu (P<0,05). Tương tác giữa phức kim loại với tính biệt
với tuần tuổi và tương tác giữa phức kim loại với tính biệt không ảnh hưởng đến tất cả

các chỉ tiêu vế sinh lý, sinh hoá máu của gà LV thương phẩm (P>0,05).
4.3.2. Nghiên cứu ảnh hƣởng của chế phẩm phức kim loại (Fe, Cu, Zn và Se) đến
khả năng sản uất của gà LV thƣơng phẩm
4.3.2.1
ả năng n trưởng
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của phức kim loại đến khả năng tăng khối lượng
cơ thể và tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của gà LV thương phẩm qua các tuần tuổi được
trình bày tại bảng 2.
* Khối lượng gà LV thương phẩm qua các tuần tuổi
Kết quả tại bảng 2 cho thấy đến 8 tuần tuổi khối lượng gà LV thương phẩm ở lô
VI đạt cao nhất là 1.565,56 g/con, cao hơn so với lô I (ĐC1) là 106,14 g/con, lô II
(ĐC2) là 54,59 g/con, sự sai khác giữa lô VI so với lô I và lô II là có ý nghĩa thống kê
(P<0,01).
So sánh giữa các lô thí nghiệm có sử dụng phức kim loại cho thấy: khối lượng gà
ở lô VI đạt cao nhất (1.565,56 g/con) sau đó đến lô V là 1.495,46 g/con, lô IV là
1.487,98 g/con và cuối cùng là lô III là 1.476,17 g/con, sự sai khác giữa lô VI với lô
III, lô IV, lô V có ý nghĩa thống kê (P<0,01); khối lượng gà LV thương phẩm giữa các
lô III, lô IV và lô V, tuy có khác nhau nhưng không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Kết thúc thí nghiệm 12 tuần tuổi, khối lượng gà LV thương phẩm cao nhất ở lô VI
là 2.249,90 g/con và thấp nhất ở lô I (ĐC1) là 2.064,42 g/con. Sự sai khác về khối lượng
cơ thể lúc 12 tuần tuổi giữa lô VI (30%) và các lô còn lại có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
* Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)
Qua kết quả tại bảng 2 cho thấy: tính chung cả giai đoạn 01-12 tuần tuổi, sinh
trưởng tuyệt đối của gà các lô giao động trong phạm vi 24,08 - 26,29 g/con/ngày, cao
nhất lô VI là 26,29 g/con/ngày và thấp nhất lô I (ĐC1) là 24,08 g/con/ngày. Sự sai
khác giữa lô VI và lô I có ý nghĩa thống kê (P<0,01); giữa các lô thí nghiệm có sử
dụng phức kim loại (lô III, lô IV, lô V và lô VI), sinh trưởng tuyệt đối gà ở lô VI cao
nhất và thấp nhất là lô III. Sự sai khác giữa lô VI so với các lô khác có sử dụng phức
kim loại là có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
Như vậy, việc bổ sung phức kim loại vào khẩu phần thức ăn đã cải thiện được tốc

độ sinh trưởng của gà LV thương phẩm so với lô I (ĐC1) và lô II (ĐC2). Kết quả cho
thấy lô thí nghiệm bổ sung phức kim loại ở mức 30% cho kết quả sinh trưởng tuyệt đối
là cao nhất. Gà tăng trưởng cao hơn lô đối chứng từ 4,41% (26,29/25,18 g/ngày) đến
9,17% (26,29/24,08 g/ngày).
17


18
18


4.3.2.2 T
tốn t ức ăn gà LV t ương p ẩ
Ảnh hưởng của chế phẩm phức kim loại đến hiệu quả thu nhận thức ăn của gà LV
thương phẩm được trình bày tại bảng 4.3. Tổng thức ăn tiêu tốn và tiêu tốn thức ăn/kg
tăng khối lượng tăng dần theo tuổi, điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển
của gia cầm.
Bảng 4.3. Hiệu quả sử dụng thức ăn (n=3)
Giai
Lô I
Lô II
Lô III
Lô IV
Lô V
Lô VI
SEM
đoạn
Tổng thức ăn tiêu tốn (g/con/giai đoạn)
a
1-4

887,47
877,22b
856,62d
846,77d 866,70c 867,56bc 2,11
5-8
2184,35ab 2194,89ab 2165,69ab 2132,03b 2151,64b 2221,09a 13,19
9-12
2937,27b 2986,01a 2864,09c 2932,13b 2826,42c 2910,88b 8,16
1-12
6009,09a 6058,12a 5886,40b 5910,93b 5844,76b 5999,53a 14,79
Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng (kg)
c
1-4
1,60
1,66a
1,65ab
1,61bc
1,65ab
1,58c
0,01
5-8
2,42a
2,34ab
2,36ab
2,31b
2,31b
2,28b
0,02
a
b

a
b
c
d
9-12
4,86
4,68
4,80
4,67
4,51
4,25
0,02
a
ab
a
ab
b
c
1-12
2,92
2,88
2,90
2,85
2,81
2,72
0,02
Ghi chú: Trong cùng một hàng, các giá trị LSM mang chữ cái khác nhau, sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Tính chung cả quá trình nuôi từ 1-12 tuần tuổi mức tiêu tốn thức ăn/kg tăng
khối lượng của gà LV thương phẩm cao nhất ở lô I (2,92) và thấp nhất ở lô VI là

2,72 (P<0,01). Khi so sánh mức tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của gà LV
thương phẩm giữa các lô có bổ sung chế phẩm phức kim loại ta thấy: mức tiêu tốn
thức ăn/kg tăng khối lượng giữa các lô III; lô IV; lô V và lô VI lần lượt là: 2,90;
2,85; 2,81 và 2,72, cao nhất là lô III và thấp nhất là lô VI. Như vậy, có thể thấy, tổng
lượng thức ăn tiêu tốn của gà LV thương phẩm ở các giai đoạn có sự biến động giữa
các lô nhưng tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của gà LV thương phẩm đều thấp
nhất ở lô VI.
4.3.3. Nghiên cứu sự đào thải Fe, Cu, Zn và Se theo chất thải của gà sau khi gà
LV thƣơng phẩm sử dụng chế phẩm phức kim loại
4.3.3.1. Ản ưởng của việc bổ sung sắt ở dạng vô cơ và dạng
p n tán đ n
à lượng sắt thải ra theo chất thải của gà LV t ương p ẩm
Tính trung bình các lần khảo sát, cho thấy hàm lượng Fe thải ra qua chất thải của
gà LV thương phẩm dao động từ 164,96 đến 208,74 ppm; hàm lượng Fe thải ra của gà
LV thương phẩm thẩm tại các lô đối chứng cao hơn so với các lô có sử dụng chế phẩm
phức kim loại (lô I cao hơn từ 10,12-20,97 % và lô II cao hơn từ 7,07-18,29%). Tuy
nhiên sự sai khác giữa các lô đối chứng và lô có sử dụng chế phẩm phức kim loại
không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Kết quả trung bình cả các lần khảo sát cũng cho
thấy hàm lượng Fe thải ra qua chất thải của gà LV thương phẩm có xu hướng tăng khi
tăng hàm lượng nguyên tố vi lượng Fe trong thức ăn. Tuy nhiên sự sai khác giữa các lô
không sử dụng chế phẩm phức kim loại và các lô có sử dụng chế phẩm phức kim loại
không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
4.3.3.2. Ản ưởng của việc bổ ng đồng ở dạng vô cơ và dạng
p n tán đ n
à lượng đồng thải ra theo chất thải của gà LV t ương p ẩm
Tính trung bình các lần khảo sát, cho thấy hàm lượng Cu thải ra theo chất thải
của gà LV thương phẩm tại lô I là cao nhất (10,92 ppm), cao hơn các lô có sử dụng
19



chế phẩm phức kim loại từ 1,45-4,44 ppm (tương ứng từ 13,27 - 40,65 %), sự sai khác
có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Hàm lượng Cu thải ra theo chất thải gà LV ở lô II là
9,89 ppm, cao hơn các lô có sử dụng chế phẩm phức kim loại từ 0,42-3,41 ppm (tương
ứng từ 4,24-34,47%); giữa lô II và lô IV, lô V, lô VI sự sai khác không có ý nghĩa
thống kê (P>0,05); giữa lô II và lô III sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). So
sánh giữa các lô có sử dụng phức kim loại, chúng tôi thấy rằng hàm lượng Cu thải theo
chất thải của gà LV thương phẩm tại lô VI là cao nhất, thấp nhất là lô III; có xu hướng
hàm lượng Cu thải ra tăng lên khi bổ sung tăng dần hàm lượng nguyên tố khoáng Cu
trong thức ăn. Sự sai khác giữa lô III và các lô có sử dụng chế phẩm phức kim loại còn
lại có ý nghĩa thống kê (P<0,05); giữa các lô IV, lô V, lô VI hàm lượng Cu thải ra có
sự khác nhau, tuy nhiên sự sai khác không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Sự khác biệt về mức đào thải Cu theo chất thải của gà LV thương phẩm có thể
được giải thích bằng sự khác biệt về hàm lượng và sinh khả dụng của Cu trong từng
khẩu phần thức ăn. Sở dĩ hàm lượng Cu thải theo chất thải ở gà LV thương phẩm lô I
và II cao hơn các lô còn lại, một phần vì hàm lượng Cu trong khẩu phần thức ăn cho
gà ở 2 lô này cao hơn đáng kể so với các lô có sử dụng chế phẩm phức kim loại.
Nhưng một nguyên nhân nữa rất quan trọng là sinh khả dụng của Cu ở các lô I và II
(sử dụng Cu dạng vô cơ) thấp hơn so với 4 lô còn lại có sử dụng phức kim loại. Đối
với gia cầm, sinh khả dụng của Cu dưới dạng hợp chất vô cơ rất khác nhau từ 0% ở
đồng ở dạng oxyt (CuO) (Norvell et al., 1975; Baker et al., 1991; Ledoux et al., 1991)
đến 100% ở dạng muối sulfat và acetate (Nelson, 1997).
4.3.3.3. Ản ưởng của việc bổ sung kẽm ở dạng vô cơ và dạng
p n tán đ n
à lượng kẽm thải ra theo chất thải của gà LV t ương p ẩm
Tính trung bình các lần khảo sát, chúng tôi thấy rằng hàm lượng Zn thải ra môi
trường qua chất thải của gà LV thương phẩm ở lô I là cao nhất (65,12 ppm), cao hơn các
lô sử dụng chế phẩm phức kim loại từ 15,8 đến 21,76 ppm (tương ứng cao hơn từ 24,26
đến 33,41%), sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Hàm lượng Zn trong chất thải của
gà LV thương phẩm ở lô II cao hơn các lô sử dụng chế phẩm phức kim loại từ 3,27 đến
9,23 ppm (tương ứng cao hơn từ 6,21 đến 17,55 %); giữa lô II và lô III sự sai khác có ý

nghĩa thống kê (P<0,05); giữa lô II và lô IV, lô V, lô VI sự sai khác không có ý nghĩa
thống kê (P>0,05). So sánh giữa các lô có sử dụng chế phẩm phức kim loại thấy rằng sự
đào thải kẽm qua chất thải của gà LV thương phẩm có xu hướng tăng dần từ lô III lên lô
VI khi tăng hàm lượng nguyên tố Zn trong khẩu phần thức ăn; giữa lô III và các lô còn lại
có sử dụng chế phẩm phức kim loại thì sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05); giữa các
lô IV, lô V, lô VI sự sai khác không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Theo Ewa Sawosz et al. (2018), kết quả hàm lượng Zn thải qua chất thải của gà
Ross 308 tại lô đối chứng là 298 mg/kg (sử dụng 7,5 mg Cu/kg thức ăn dạng CuS04 vô
cơ); các lô có sử dụng hàm lượng nano đồng kích thước 45 nm với các mức 25; 50; 75
và 100% so với lô đối chứng thì hàm lượng Zn thải ra lần lượt là 307; 339; 297 và 303
mg/kg; sự sai khác giữa lô đối chứng và lô sử dụng nano Cu không có ý nghĩa thống
kê. So với kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì hàm lượng Zn thải ra theo nghiên cứu
của Ewa Sawosz và cộng sự là cao hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi.
4.3.3 Ản ưởng của v ệc bổ ng selen ở dạng vô cơ và dạng
p n tán đ n
à lượng elen t ả ra t e c ất t ả của gà LV t ương p ẩ
Tính trung bình các lần khảo sát cho thấy hàm lượng selen thải qua chất thải gà
LV thương phẩm ở lô I (0,50 ppm) là cao nhất, cao hơn các lô có sử dụng chế phẩm
20


phức kim loại từ 0,02-0,08 ppm (tương ứng từ 4-16%); hàm lượng selen thải qua chất
thải của gà LV thương phẩm ở lô II (0,49 ppm) cao hơn các lô có sử dụng chế phẩm
phức kim loại từ 0,01-0,07 ppm (tương ứng từ 2,04 - 14,28%). Tuy nhiên sự sai khác
không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Hàm lượng Se thải ra qua chất thải của gà LV
thương phẩm có xu hướng tăng khi tăng hàm lượng nguyên tố vi lượng Se trong khẩu
phần thức ăn.
4.3.4. Nghiên cứu ác định hàm lƣợng các kim loại Fe, Cu, Zn và Se trong thịt và
cơ quan nội tạng gà LV thƣơng phẩm sau khi sử dụng chế phẩm phức kim loại
4.3.4.1

t ả ổ ả át
Để đánh giá khả năng cho thịt của gà thí nghiệm, chúng tôi đã tiến hành mổ khảo
sát gà LV lúc 12 tuần tuổi. Kết quả mổ khảo sát cho thấy: Khả năng cho thịt của gà LV
ở các lô thí nghiệm khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,01), ngoại trừ tỷ lệ thân thịt.
Tỷ lệ thân thịt của gà ở các lô thí nghiệm lần lượt là: 71,83; 72,03; 71,68; 71,96; 72 và
72,13% cao nhất ở lô VI và thấp nhất ở lô III (P>0,05). Tỷ lệ thịt đùi của gà LV từ lô I
đến lô VI lần lượt là 22,25; 22,24; 22,28; 22,29; 22,40 và 22,42%, cao nhất ở lô VI và
thấp nhất ở lô II. Tỷ lệ thịt ngực của gà LV từ lô I đến lô VI lần lượt là: 20,16; 20,23;
20,26; 20,39; 20,44 và 20,51%, cao nhất ở lô VI và thấp nhất ở lô I. Sự khác nhau về
tỷ lệ mỡ giữa các lô thí nghiệm không có ý nghĩa thống kê, dao động từ 2,27 - 2,44%,
P>0,05. Theo Liu et al. (2011), tỷ lệ thân thịt của gà broiler giết thịt tại thời điểm 12
tuần tuổi khi bổ sung hạt nano Zn với các mức 60; 120 và 180 mg/kg khẩu phần không
khác nhau và đều bằng 70,1%, thấp hơn so với kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi.
Tuy nhiên, tỷ lệ thịt đùi lần lượt là: 24,0; 24,1 và 24,4% và tỷ lệ thịt ngực lần lượt là:
26,4; 26,4 và 25,8% thì cao hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.
4.3.4.2. Thành phần hóa học của thịt
Qua kết quả phân tích thành phần hóa học của thịt gà cho thấy: hầu hết các chỉ
tiêu về thành phần hóa học của thịt ở các lô thí nghiệm có sự sai khác không có ý
nghĩa thống kê (P>0,05). Tỷ lệ vật chất khô, khoáng tổng số và protein thô trong thịt
có sự biến động nhẹ giữa các lô thí nghiệm. Hàm lượng vật chất khô cao nhất ở lô II
(26,75%) và lô V (26,75%), thấp nhất ở lô IV (26,20%). Hàm lượng protein thô cao
nhất ở lô III (24,43%) và thấp nhất ở lô VI (23,85%). Hàm lượng lipit tổng số dao
động từ 0,50 - 0,76%, cao nhất ở lô II và thấp nhất ở lô IV. Hàm lượng khoáng tổng số
từ 1,17 - 1,26%, cao nhất ở lô II và thấp nhất ở lô V.
Theo Liu et al. (2011) bổ sung nano Zn với các mức 60; 120 và 180 mg/kg thức
ăn khẩu phần thì tỷ lệ vật chất khô ở thịt ngực của gà broiler giết thịt tại thời điểm 12
tuần tuổi dao động từ 25,0 – 25,40%. Tuy nhiên sự khác nhau giữa các mức bổ sung là
không có ý nghĩa thống kê (P>0,01).
4.3.4.3 Hà lượng các ng y n tố v lượng Fe, C , Zn và Se tr ng t ịt lườn gà LV
Kết quả nghiên cứu hàm lượng nguyên tố vi lượng Fe, Cu, Zn và Se trong thịt

lườn gà LV thương phẩm cho thấy: khi kết thúc nuôi thịt (12 tuần tuổi) hàm lượng các
nguyên tố vi lượng Fe, Cu, Zn và Se trong thịt lườn gà LV ở các lô thí nghiệm như
sau: Hàm lượng Fe trong thịt lườn gà LV tại các lô thí nghiệm dao động từ 8,953 12,148 ppm, cao nhất là lô III, thấp nhất lô IV. Hàm lượng Cu trong thịt lườn của gà
LV tại các lô thí nghiệm dao động từ 0,923 -1,972 ppm, cao nhất là lô II, thấp nhất là
lô III. Giữa các lô có sử dụng chế phẩm phức kim loại với các mức khác nhau, hàm
21


lượng Cu tại lô V (1,582 ppm) là cao nhất, tiếp theo là lô IV (1,482 ppm), lô V (1,142
ppm) và thấp nhất là lô III (0,923 ppm), tuy nhiên sự sai khác không có ý nghĩa thống
kê (P>0,05). Hàm lượng Zn trong thịt lườn gà LV tại các lô thí nghiệm dao động từ
6,707 - 8,375 ppm, cao nhất lô VI, thấp nhất lô V. Kết quả phân tích kẽm trong thịt
lườn của chúng tôi tương đương với kết quả nghiên cứu của Gerber et al. (2009) khi
tác giả nghiên cứu phân tích thịt lườn của gà thấy hàm lượng kẽm là 7 ppm.
Hàm lượng Se dao động từ 0,047 - 0,177 ppm, cao nhất lô IV, thấp nhất lô III (so
với công bố của Nguyễn Công Khẩn và cs., 2007) thì hàm lượng Se trong thịt gà LV
tại các lô I, lô II, lô III, lô V và lô VI thấp hơn từ 0,09-0,097 ppm; hàm lượng Se tại lô
IV cao hơn là 0,033 ppm. Sự sai khác về hàm lượng Fe, Cu, Zn và Se giữa các lô đối
chứng và lô có sử dụng chế phẩm phức kim loại không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
4.3.4.4 Hà lượng các nguyên tố v lượng Fe, Cu, Zn và Se trong nội tạng (tim,
gan, thận) của gà LV t ương p ẩm
Kết quả nghiên cứu hàm lượng từng nguyên tố Fe, Cu, Zn và Se có trong nội
tạng (gan, tim, thận), cho thấy có sự sai khác về hàm lượng sắt, đồng, kẽm và selen
trong tim gà LV giữa các lô đối chứng và lô sử dụng phức kim loại, tuy nhiên sự sai
khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Ở gan hàm lượng Fe đạt từ 185,170 - 240,872 ppm, cao nhất lô I, thấp nhất lô V.
Hàm lượng Cu đạt từ 4,393 - 7,762 ppm, cao nhất lô II, thấp nhất lô III; hàm lượng Zn
đạt từ 35,945 - 40,778 ppm, cao nhất lô IV, thấp nhất lô II và hàm lượng Se đạt từ
0,051-0,071 ppm, cao nhất ở lô II, thấp nhất ở lô I và lô VI, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi tương đương với kết quả đã công bố của Falandysz (1991).

Ở thận khi phân tích chúng tôi thấy: hàm lượng Fe đạt 101,148 - 121,905 ppm;
hàm lượng Cu đạt 2,640 - 4,328 ppm; Zn đạt 21,792 - 28,462 ppm và Se đạt 0,026 0,044 ppm. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tương với kết quả nghiên cứu của
Falandysz (1991) khi tác giả phân tích thận gà thấy hàm lượng sắt dao động 59-180
ppm, đồng 2,8 - 15 ppm và kẽm 21 - 30 ppm.
So sánh hàm lượng vi khoáng sắt, đồng, kẽm và selen trong gan và thận giữa lô đối
chứng (lô I, lô II) và lô có sử dụng phức kim loại hoặc giữa các lô có sử dụng phức kim
loại với các mức khác nhau chúng tôi thấy hàm lượng của từng nguyên tố có khác nhau,
tuy nhiên sự sai khác không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Khi so sánh giữa các lô đối chứng (lô I, lô II) và các lô có sử dụng phức kim loại
với mức khác nhau (15, 20, 25 và 30%), chúng tôi thấy hàm lượng các nguyên tố Fe,
Cu, Zn và Se trong 3 cơ quan nội tạng (tim, gan, thận) của gà LV thương phẩm giữa
các lô không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Từ kết quả này cho thấy,
việc hấp thu và tích lũy các vi khoáng Fe, Zn, Cu và Se ở gà LV thương phẩm của các
lô sử dụng phức kim loại đạt hiệu quả cao hơn so với lô sử dụng khoáng vô cơ trong
khẩu phần. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt rõ rệt có ý nghĩa thống
kê giữa các lô thí nghiệm về hàm lượng Se trong nội tạng (P>0,05). Selen là nguyên tố
vi lượng rất nhạy cảm, nhưng hoạt tính sinh học và khả năng tích trữ của chúng trong
các mô ở động vật phụ thuộc không chỉ vào hàm lượng của nó trong khẩu phần mà quan
trọng hơn là phụ thuộc vào dạng liên kết mà chúng tồn tại (Zhou et al., 2011).
22


Mức sử dụng các nguyên tố Fe, Cu, Zn và Se của chế phẩm phức kim loại thấp hơn
của khoáng vô cơ từ 3 đến 6 lần, nhưng các nguyên tố này ở dạng siêu phân tán hay dạng
vô cơ đều tích lũy như nhau trong mô cơ hay trong gan, tim, thận. Điều đó chứng tỏ sinh
khả dụng của các nguyên tố kim loại trong phức cao hơn của các nguyên tố kim loại trong
muối vô cơ.
4.3.5. Đánh giá ảnh hƣởng của chế phẩm phức kim loại đến hiệu quả chăn nuôi gà
LV thƣơng phẩm
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của chế phẩm phức kim loại đến hiệu quả chăn

nuôi gà LV thương phẩm qua chỉ số sản xuất (PN – Production number) và chỉ số kinh
tế (EN - Economic number) là những đại lượng biểu thị mối quan hệ tổng hợp giữa khối
lượng cơ thể, tỷ lệ nuôi sống, tiêu tốn thức ăn, chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng và thời
gian nuôi. Kết quả về chỉ số sản xuất và chỉ số kinh tế được trình bày tại bảng 4.4.
Bảng 4.4. Chỉ số sản xuất và chỉ số kinh tế của gà LV thƣơng phẩm
Tuần tuổi
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Lô I
PN EN
73,31 0,40
74,36 0,44
76,76 0,43
81,25 0,43
85,71 0,45
90,86 0,47
91,84 0,45
93,45 0,45
92,35 0,43

60,60 0,19
41,20 0,09
45,11 0,11

Lô II
Lô III
Lô IV
Lô V
PN
EN
PN
EN
PN
EN
PN
EN
73,19 0,40 78,70 0,45 74,94 0,42 76,82 0,44
74,42 0,45 73,11 0,43 77,36 0,48 79,26 0,49
78,46 0,45 79,00 0,45 83,14 0,49 82,09 0,47
83,32 0,45 83,08 0,45 84,65 0,46 85,79 0,47
86,41 0,45 88,68 0,47 86,05 0,44 88,22 0,46
89,17 0,45 96,81 0,39 90,53 0,46 91,98 0,46
93,40 0,47 98,77 0,39 100,60 0,53 99,77 0,52
103,04 0,53 100,76 0,38 103,37 0,53 103,47 0,62
82,71 0,34 95,79 0,45 94,89 0,43 87,14 0,37
65,46 0,22 61,01 0,19 58,55 0,17 82,41 0,34
56,50 0,17 46,04 0,11 47,52 0,12 41,32 0,09
55,41 0,16 45,25 0,11 54,32 0,16 45,66 0,11

Lô VI

PN
EN
74,78 0,42
78,05 0,48
78,58 0,44
86,32 0,47
88,98 0,47
90,42 0,45
99,67 0,51
126,49 0,75
80,90 0,31
70,70 0,24
68,08 0,23
66,66 0,22

* C ỉ ố ản ất
Qua kết quả ở bảng 4.4 cho thấy: Đến 8 tuần tuổi, chỉ số sản xuất của gà LV ở các
lô thí nghiệm dao động từ 93,45 - 126,49, cao nhất là lô VI (126,49), tiếp theo là lô V
(103,47), lô IV (103,37), lô II (103,04) và lô III (100,76), thấp nhất là lô I (93,45). Giữa
các lô có sử dụng phức kim loại với các mức khác nhau thì chỉ số sản xuất của gà LV ở
lô VI là cao nhất, cao hơn các lô có sử dụng phức kim loại còn lại từ 23,02 đến 27,73.
Kết thúc thí nghiệm lúc 12 tuần tuổi chỉ số sản xuất của gà LV ở lô VI cao nhất, cao hơn
lô I (ĐC1) và lô II (ĐC2) lần lượt là 21,55 và 11,25. So sánh giữa các lô thí nghiệm có
sử dụng chế phẩm phức kim loại với các mức khác nhau cho thấy lô VI (66,66) là cao
nhất và thấp nhất là lô III (45,25). Diễn biến về chỉ số sản xuất của gà LV ở các lô thí
nghiệm phù hợp với khả năng sinh trưởng và khả năng sử dụng thức ăn của gà LV.
Qua kết quả chỉ số sản xuất của gà LV tại bảng 4.4 cũng cho chúng ta thấy gà
giết mổ ở 8 tuần tuổi là kinh tế hơn cả. Nhưng trong thực tế hiệu quả kinh tế trong
chăn nuôi còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng (gà đạt khối
lượng mong muốn), phụ thuộc vào giá cả thị trường. Gà nuôi xuất bán mang lại hiệu

quả kinh tế cao nhất là khi chất lượng sản phẩm thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng.
* Chỉ số kinh t
Kết quả bảng 4.4 cho thấy: Tại 8 tuần tuổi, chỉ số kinh tế của gà LV ở các lô thí
nghiệm dao động từ 0,38 đến 0,75, cao nhất là lô VI, thấp nhất là lô III. Chỉ số kinh tế của
23


×