Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.05 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC TỈNH

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT
TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ
KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC TỈNH

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT
TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ
KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Ngành

: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự

Mã số


: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật hình
sự và tố tụng hình sự của tôi là kết quả của quá trình học tập và nghiên cứu
của tự bản thân. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong thực hiện đề tài là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh
vực.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm lời cam đoan của mình./.
Tác giả

Nguyễn Ngọc Tỉnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO
VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIÊN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN ............................................................................................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của viện kiểm sát nhân dân ........................7

1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ...................................................................16
1.3. Các yếu tố tác động đến thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ...................................................................27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ
KHỞI TỐ TẠI TỈNH QUẢNG NAM ...................................................................30
2.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến công tác thực hành quyền công tố trong
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ở tỉnh Quảng Nam ......30
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam................37
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ...................53
3.1. Dự báo các yếu tố tác động đến hoạt động thực hành quyền công tố trong
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam trong thời gian tới .................................................................................53
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân .....................57
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ Luật Hình sự

BLTTHS


: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

TAND

: Tòa án nhân dân

THQCT

: Thực hành quyền công tố

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố từ năm 2015 - 2018 .......................................................................................37
Bảng 2.2: Số vụ án hình sự khởi tố, không khởi tố, tạm đình chỉ và số viện kiểm
sát kiến nghị khởi tố qua THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố từ năm 2015 - 2018 ........................................................38
Bảng 2.3: Số tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố chưa giải quyết và
quá hạn từ năm 2015 - 2018 ......................................................................................38


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay, bộ máy Nhà nước đang trong quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu
lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói
riêng. Việc nghiên cứu để hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật, trong đó có vấn
đề THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong
pháp luật tố tụng hình sự là một trong những nhiệm vụ cấp thiết.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND 2014,
VKSND là cơ quan thuộc hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. VKS nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu
hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất,
góp phần bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi
trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Điều này được ghi nhận cụ thể tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “VKS nhân
dân THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp”, Điều 2 Luật tổ chức VKS nhân dân
2014 quy định: “VKS nhân dân là cơ quan THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, theo đó VKSND vẫn giữ
chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều
phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phải đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội
phạm. Với tư cách là cơ quan THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, một trong
những chức năng quan trọng của VKSND là THQCT trong giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đây là hoạt động đầu tiên của quá trình giải
quyết vụ án hình sự nhằm kịp thời phát hiện hành vi phạm tội, các cơ quan tố tụng
có trách nhiệm sẽ dựa trên cơ sở đó để xác định việc có dấu hiệu tội phạm hay
không nhằm quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
1


Trong những năm vừa qua, trên cơ sở quy định của pháp luật về chức năng,
nhiệm vụ của VKSND, công tác THQCT và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm của ngành Kiểm sát cả nước nói chung và ngành Kiểm sát ở tỉnh
Quảng Nam nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định như đã hạn chế tình
trạng truy tố oan sai, đã phát hiện, khởi tố, xử lý kịp thời các hành vi phạm tội và tội
phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
góp phần hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, giữ vững an
ninh trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy công tác thực hành
quyền công tố ở tỉnh Quảng Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập như: vẫn còn một
số vụ án truy tố oan, sai gây bức xúc trong nhân dân, tình trạng bỏ lọt tội phạm, còn
để xảy ra án trả hồ sơ điều tra bổ sung có liên quan đến trách nhiệm Viện kiểm
sát;... Trước sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, các loại tội phạm mới xuất
hiện đặt ra yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố trong giai đoạn tiếp theo thì việc tiếp tục nghiên cứu
các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về công tác THQCT trong

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là hết sức cần thiết. Với những lý do nêu
trên, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ Luật học là “Thực hành quyền
công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự được quy
định thành một nguyên tắc tố tụng, việc nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề liên quan
về nguyên tắc này ở các mức độ khác nhau đã được một số nhà khoa học pháp lý,
các chuyên gia lý luận và thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Trong những năm vừa
qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến vấn đề này, cụ thể như:
Nguyễn Quang Thành (2015), “Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và khởi tố, điều tra vụ án hình sự của VKS nhân dân theo
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014”, Tạp chí Kiểm sát; Vũ Việt Hùng
2


(2009), “Quy định của pháp luật về việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố - Thực trạng và một số đề xuất, kiến nghị”, Tạp chí kiểm sát;
Nguyễn Hải Phong (2006), Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Tất
Viễn (2003), "Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp", Kỷ yếu đề tài
cấp bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Duy Hồng (2009), Thực trạng và một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát; Nguyễn Đình Trung (2012),
Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát; Nông Xuân Trường
(2014), Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm thực trạng và một số giải pháp, Trang thông tin điện tử VKSND tối cao,
Hà Nội; Nguyễn Đăng Khoa (2014), Bàn về thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra, Tạp chí kiểm sát; " thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra", của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất
bản Tư pháp, 2005; Luận án tiến sĩ Luật học "Quyền công tố ở Việt Nam", của Lê
Thị Tuyết Hoa, 2002; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử của VKS nhân dân thành phố Hồ Chí Minh",
của Trần Văn Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004; Luận văn thạc
sĩ Luật học: "Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên
địa bàn thành phố Hà Nội", của Hà Thị Minh Hạnh, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2007...
Những công trình khoa học, những bài viết trên đã tập trung nghiên cứu về tổ
chức, hoạt động, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS nhân dân nói chung và một số
công trình, bài viết nghiên cứu về chức năng hoạt động của VKS trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nói riêng. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu tổng thể nội dung của nguyên
3


tắc THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Hơn nữa,
trong cả lý luận và thực tiễn hiện nay, xung quanh vấn đề này còn chưa thực sự
thống nhất về khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể THQCT và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự; chưa có sự phân định cụ thể, rõ ràng giữa hai
chức năng và đánh giá mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này. Vì thế, cần
tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa những nội dung xoay quanh nguyên tắc này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về THQCT
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cũng như việc
áp dụng trong thực tiễn tại VKS nhân dân tại tỉnh Quảng Nam. Qua đó, đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn, góp phần hoàn
thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được các mục đích nghiên cứu, luận văn cần giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu, cụ thể:
- Phân tích cơ sở lý luận, khái niệm, thẩm quyền, căn cứ pháp luật giải quyết
về tố giác, tin báo về tội phạm; nội dung hoạt động THQCT trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm; các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động THQCT trong giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, quy định của pháp luật về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm trên cơ sở đó đánh giá thực tiễn thực hiện vấn đề THQCT trong
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKS nhân dân tại tỉnh Quảng Nam,
phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên
nhân cơ bản của tồn tại, hạn chế đó.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và nâng cao chất
lượng kiểm sát hoạt này trong thực tiễn công tác của VKSND.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn THQCT trong việc
tiếp nhận, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của VKSND trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam.

4.2.Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chức năng
THQCT trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của
VKS nhân dân, các quy định của BLTTHS và những văn bản hướng dẫn khác có
liên quan, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên
của VKSND tại tỉnh Quảng Nam. Thông qua đó, chỉ ra nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng
cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn.
Về phạm vi nghiên cứu thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện công
tác thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong
04 năm (01/12/2014 – 01/12/2018) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. 1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn có sự kế thừa những kết quả nghiên cứu liên quan đến hoạt động
thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của các công
trình nghiên cứu trước.
Tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong luận văn như: Phương
pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử cụ
thể, thống kê số liệu, hệ thống.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Giải quyết về mặt lý luận tổng thể, toàn diện nội dung thực hành quyền công
tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật
Tố tụng hình sự Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động thực hành quyền
công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp
luật tố tụng hình sự trong thực tiễn hiện nay, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn
thiện các quy phạm có liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố trong tố
tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho
cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học, cũng như góp phần phục vụ
hoạt động lập pháp, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong quá
trình giải quyết án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố
trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát
nhân dân.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường thực hành quyền công tố trong giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ
KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIÊN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và thực hành quyền công tố
trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của viện kiểm sát
nhân dân
1.1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Pháp luật quy định tố giác và tin báo về tội phạm là những cơ sở để xác định
có dấu hiệu tội phạm hay không. Đây chính là một trong những nguồn thông tin
quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện dấu hiệu của tội
phạm, trên cơ sở đó kịp thời tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh để có căn
cứ tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Trong mỗi thời kỳ khác
nhau và trong mỗi giai đoạn khác nhau, tội phạm trong xã hội luôn có sự biến đổi cả
về nội dung lẫn hình thức và mỗi quốc gia khác nhau thì cũng có những quan niệm
khác nhau về tội phạm. Tại Việt Nam, khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8
BLHS 2015 trong đó xác định“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện…”.
Để có căn cứ xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có được coi là tội
phạm hay không phải dựa trên kết quả xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm.
BLTTHS năm 2003 quy định: " Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác
định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở
sau đây: 1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3. Tin báo trên
các phương tiện thông tin đại chúng;..." [14].
Bên cạnh đó là sự ra đời của Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQPBTC-BNN& PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013. Theo đó, tố giác tội phạm là
7


những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ
ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Tin báo về
tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện

thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có
trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước
khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn
bản kiến nghị CQĐT xem xét khởi tố vụ án hình sự [1].
Tuy nhiên, việc đưa ra khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm như quy định
tại Thông tư liên tịch 06/2013 phần nào đó vẫn chưa đảm bảo tính chính xác, chưa
phản ánh được bản chất của tố giác, tin báo về tội phạm. Vì nếu theo cách giải thích
từ ngữ tại Thông tư này thì tất cả các thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do
cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp thì đều được coi là tố giác về tội
phạm, chứ không coi là tin báo về tội phạm và cá nhân cũng có thẩm quyền tiếp
nhận tố giác, tin báo về tội phạm.
Nhận thức được vấn đề trên, BLTTHS năm 2015 đã kế thừa các quy định của
BLTTHS năm 2003 và Thông tư liên tịch số 06, quy định rõ các khái niệm:
Nguồn tin về tội phạm gồm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của
cơ quan, tổ chức, cá nhân, lời khai của người phạm tội tự thú và thông tin về tội
phạm do cơ quan tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện;
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội
phạm với cơ quan có thẩm quyền;
Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan,
tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm
trên phương tiện thông tin đại chúng;
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị bằng văn
bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKS có thẩm quyền
xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm [15].
Từ những quy định cụ thể vừa nêu có thể thấy, về bản chất tố giác, tin báo về
tội phạm đều là những thông tin chứa đựng những dấu hiệu tội phạm mà các cơ
quan tiến hành tố tụng có được thông tin.

8



Qua những phân tích trên có thể hiểu:
- Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu về các tội
phạm được quy định trong Bộ Luật hình sự, do công dân có tên, tuổi, địa chỉ rõ
ràng cung cấp cho cơ quan hoặc cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.
Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình sự với các cơ quan, tổ chức đó là
quyền và nghĩa vụ của công dân. Công dân có quyền tố cáo về tội phạm với mọi cơ
quan, tổ chức và sự tố cáo của công dân về tội phạm đều được coi là tố giác. Tố
giác tội phạm có thể thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như: thông qua điện
thoại, văn bản hoặc có thể tố cáo trực tiếp bằng miệng … Trường hợp người bị hại
trình báo và yêu cầu khởi tố thì bản chất của sự việc cũng là sự tố giác về tội phạm,
chính vì thế điều luật không quy định riêng một khoản độc lập.
- Tin báo về tội phạm là toàn bộ thông tin về những hành vi chứa đựng dấu
hiệu về các tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự trên các phương tiện
thông tin đại chúng trong và ngoài nước hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ
quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.
Tố giác tội phạm là hành vi của công dân là đối với một cơ quan, tổ chức bất
kỳ nào đó. Tin báo là sự phản ánh mối liên hệ giữa một bên truyền tin đi với một cơ
quan có quyền khởi tố vụ án hình sự. Trong đó, tin báo tội phạm có thể là sự chuyển
tiếp những thông tin mà cơ quan, tổ chức đã nhận được từ tố giác tội phạm của công
dân. Cũng có thể là những thông tin thu được từ hoạt động nghiệp vụ của ngay
chính tổ chức đó (ví dụ, qua thanh tra, kiểm tra) hoặc được phản ánh bằng chính
hoạt động truyền thông theo chức năng nghề nghiệp (các cơ quan thông tin đại
chúng). Căn cứ vào Điều 144 của BLTTHS năm 2015 thì tin báo tội phạm có thể
được phân thành hai loại: Tin báo tội phạm có thể là tin do cơ quan, tổ chức gửi đến
cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự (khoản 2) trực tiếp phản ánh
về tội phạm; tin báo có thể được chính thức thông báo hoặc phản ánh trên các
phương tiện thông tin đại chúng mà các cơ quan chuyên trách đấu tranh với tội
phạm có thẩm quyền phải xem xét, nghiên cứu để rút ra những kết luận (Khoản 3).
- Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng

văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, VKS có
thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
9


Kiến nghị khởi tố chính là việc các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội,
kinh tế thông qua công tác kiểm tra, thanh tra và khi thực hiện các nhiệm vụ, công tác
khác phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, người có hành vi phạm tội và có văn
bản, kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét,
khởi tố vụ án hình sự, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội để điều tra, xử lý.
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm công tác thực hành quyền công tố trong giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân
VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đảm
bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Chức năng của
VKSND được thể hiện tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “ Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và Điều 2 Luật Tổ chức Viện
KSND năm 2014: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[20].
Xác định khái niệm quyền công tố và theo đó là THQCT sẽ làm rõ hơn vai trò,
vị trí của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong các cơ quan tư
pháp; xác định rõ chức năng của VKS, nhất là trong TTHS. Vấn đề khái niệm
quyền công tố và THQCT đã được đề cập nhiều trong khoa học pháp lí nước ta với
các mức độ khác nhau và nó vẫn đang là vấn đề với nhiều ý kiến khác nhau.
Có quan điểm cho rằng: Quyền công tố là quyền của VKS thay mặt nhà nước
bảo vệ lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm pháp luật. Vì
vậy, VKS THQCT không chỉ trong TTHS mà cả trong lĩnh vực tố tụng khác như
dân sự, kinh tế và các hoạt động tư pháp khác [5].
Có quan điểm khác cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho
các cơ quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để
xét xử và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa [23].

Có quan điểm khác lại cho rằng: Công tố không phải là chức năng độc lập của
VKS mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHS.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng chúng đều ít nhiều có sự hợp lý,
bởi các quan điểm này đều dựa trên quy định của pháp luật và thực tiễn.
Từ những phân tích trên, khái niệm quyền công tố được hiểu như sau: Quyền
10


công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về Nhà nước, cơ quan được
nhà nước giao cho quyền này (ở nước ta là VKSND) thực hiện các hoạt động nhằm
phát hiện, điều tra tội phạm, truy tố người phạm tội trước Tòa án và bảo vệ sự buộc
tội đó trước phiên tòa.
Như vậy, THQCT thực chất là hoạt động đưa những quy định của pháp luật về
quyền công tố thuộc chức năng của VKS vào thực tế nhằm truy cứu trách nhiệm
hình sự người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Tuy còn
nhiều quan điểm khác nhau về THQCT, nhưng qua nghiên cứu tổng hợp các quan
điểm khoa học về THQCT, cũng như thực tiễn quy định của pháp luật về THQCT,
chúng tôi đưa ra khái niệm về THQCT như sau:
“Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp
lý mà pháp luật quy định để đưa người (và pháp nhân thương mại) phạm tội ra truy
tố và buộc tội trước Tòa án”.
Nội dung THQCT được BLTTHS năm 2015 quy định kể từ khi tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, xét phê chuẩn lệnh bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp hạn chế quyền
công dân, quyền con người. Thời điểm này là ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội
phạm. Bản chất việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, nhất là việc giữ người
trong trường hợp khẩn cấp và việc phê chuẩn bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp chính là việc bắt và tạm giữ hình sự. Việc pháp luật quy định VKS tham
gia vào quá trình này chính là sự khẳng định chức năng THQCT của VKS trong

việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm. Xuất phát từ khái niệm THQCT đã
được phân tích ở trên, tác giả đưa ra khái niệm THQCT trong việc giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm như sau:
"Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm là
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc
tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự".
Đặc điểm của công tác THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố được thể hiện thông qua các hoạt động cụ thể:
11


- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia
hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
- Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ
quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố;
- Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện;
- Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong
trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục;
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác để THQCT theo quy định của
BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội;
1.1.1.3. Ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân
VKS có hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc VKS thực hiện đồng thời hai

chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn của mình là mang tính khách quan, bảo đảm mọi hành vi
phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp
luật
Để mọi hành vi phạm tội được phát hiện xử lý xử lý đúng quy định pháp luật,
không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội thì việc xác
định căn cứ cho việc khởi tố vụ án hình sự rất là quan trọng nhằm mở đầu cho
những giai đoạn tố tụng tiếp theo. Tuy nhiên, để có được những căn cứ khởi tố vụ
án cần phải có những thông tin ban đầu được tiếp nhận, xác minh theo những trình
tự thủ tục nhất định được pháp luật quy định.
- Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng được
phép tiến hành kiểm tra xác minh nguồn tin, thu thập tài liệu chứng cứ và được ra
một số quyết định tố tụng trước khi khởi tố vụ án hình sự. Để có cơ sở tiến hành các
biện pháp nói trên thì trách nhiệm của VKS trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin
12


báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng. Quy định chức năng
THQCT của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố góp phần đảm bảo các quyết định tố tụng, hoạt động tố tụng của các cơ quan
có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đúng theo quy định
của pháp luật, các chứng cứ, tài liệu được thu thập theo một trình tự thủ tục khách
quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác tạo tiền đề vững chắc cho quá trình điều tra vụ
án; những vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố sẽ được phát hiện kịp thời, khắc phục và xử lý nghiêm minh.
1.1.2. Nội dung của thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.2.1. Chủ thể có quyền thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Bộ luật TTHS 2015 quy định chủ thể có quyền thực hành quyền công tố trong

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố bao gồm: Cơ quan điều
tra, VKS tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; cơ quan tổ chức
khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Mọi tố giác tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời; cơ quan tổ chức có
trách nhiệm tiếp nhận không được từ chối tiếp nhận tố giác tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố[15].
Bộ luật TTHS cũng quy định cụ thể thủ tục tiếp nhận theo từng nhóm chủ thể.
- Thủ tục tiếp nhận của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Nếu cơ
quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ
quan có thẩm quyền tiến hành lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận (có thể
ghi âm, ghi hình việc tiếp nhận); nếu tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
được gửi qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì
ghi vào sổ tiếp nhận. Sau đó, VKS cần chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm
quyền kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận.
- Thủ tục tiếp nhận của Công an phường, thị trấn, đồn Công an, Công an xã:
Công an phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay
tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều
13


tra có thẩm quyền. Công an xã có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm,
lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội
phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
- Đối với cá nhân, tổ chức khác: sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm
thì chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Trường hợp khẩn cấp thì có
thể báo tin trực tiếp qua điện thoại hoặc hình thức khác cho Cơ quan điều tra nhưng
sau đó phải thể hiện bằng văn bản.
1.1.2.2. Đối tượng và phạm vi của hoạt động thực hành quyền công tố trong
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là
một trong những nội dung cụ thể của THQCT trong tố tụng hình sự nên đối tượng
của THQCT trong giai đoạn này cũng chính là đối tượng của THQCT trong tố tụng
hình sự.Với ý nghĩa là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý nhằm mục
đích truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, truy tố họ ra trước Tòa án để xét
xử, đối tượng của hoạt động THQCT là tội phạm và người phạm tội.
Phạm vi của hoạt động THQCT:
Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đã quy định
KSV là người đại diện cho VKS THQCT, vì vậy, ngay từ trong giai đoạn tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố KSV đã bắt đầu thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Các giai đoạn của THQCT cũng đã được phân
định một cách rõ ràng trong các văn bản luật thực định của nước ta, từ THQCT
trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT
trong giai đoạn điều tra; THQCT trong giai đoạn truy tố; THQCT trong giai đoạn
xét xử. Như vậy, THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là một phần của hoạt động THQCT trong tố tụng hình sự nói chung.
Theo Điều 2 Quy chế THQCT & KSĐT xác định:
THQCT thì thời điểm phát sinh hoạt động THQCT phải là thời điểm được sử
dụng các quyền năng pháp lý công khai để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, tức là sau khi tội phạm đã được phát hiện (xác định có dấu hiệu của
tội phạm) và có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thời điểm kết thúc hoạt động
THQCT có sự trùng khớp với thời điểm kết thúc quyền công tố, đó là khi vụ án
14


hình sự bị đình chỉ hoặc khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và không bị
kháng nghị.
Theo đó, THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố bắt đầu từ khi tội phạm bị phát hiện và cơ quan có thẩm quyền nhận được
tin báo, tố giác tội phạm và quá trình này sẽ kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra

quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết tin báo, tố giác tội phạm.
1.1.2.3. Nội dung và trình tự thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
- Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành
vi phạm tội.
Tại Điều 159, Điều 160 BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS khi THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Quyết định phân công
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Viện
trưởng VKS trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, phân công KSV, Kiểm tra
viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động
THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và gửi ngay một bản cho Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra đã ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã rõ về dấu hiệu của
tội phạm mà Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự thì Viện trưởng VKS trực tiếp
tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, phân công KSV,
Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt
động THQCT và kiểm sát việc khởi tố, điều tra theo quy định của BLTTHS năm
2015.

15


Theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 BLTTHS năm 2015, công dân có thể tố

giác tội phạm với Cơ quan điều tra, VKS, Toà án hoặc với các cơ quan khác, tổ
chức khác. Điều này có nghĩa là bất kể là cơ quan, tổ chức nào khi công dân tố giác
tội phạm đều có trách nhiệm tiếp nhận. Quy định này đã tạo điều kiện cho cơ chế
thông tin về tội phạm được nhanh chóng, nhân dân có thể tham gia rộng rãi và thuận
tiện vào cuộc đấu tranh với tội phạm, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức trong việc đấu tranh với tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.2.1. Khái quát về lịch sử quy định của pháp luật Việt Nam về công tác
thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố
Các quy định của pháp luật về hoạt động THQCT ngày càng được hoàn thiện
qua các thời kỳ lịch sử, việc tuân thủ pháp chế và bảo vệ quyền của con người,
quyền của công dân trong TTHS ngày càng được tôn trọng và nghiêm ngặt hơn.
Vấn đề này được thể hiện rõ ở quy định của pháp luật qua các thời kỳ.
Trải qua các thời kỳ phát triển, ở nước ta có cả hai mô hình là Viện công tố và
VKS. Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà ra đời (02/9/1945), ngày 13/9/1945 Chính phủ lâm thời do Chủ
tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã ban hành một loạt các sắc lệnh để thiết lập ngay các
cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Công tố nhằm đấu tranh một cách kịp thời và
có hiệu quả với các hành vi phạm tội, bảo đảm cho việc củng cố chính quyền cách
mạng và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Theo các Sắc lệnh, cơ quan Công tố nằm
trong cơ cấu tổ chức của Toà án, do Bộ Tư pháp quản lý và có thẩm quyền THQCT
(là người buộc tội nhân danh Nhà nước). Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, đánh
dấu sự thay đổi lớn tổ chức các cơ quan tư pháp nói chung, các cơ quan Công tố nói
riêng, bằng việc quy định: “Công tố viên có quyền kháng cáo về việc hộ cũng như
về việc hình”, đánh dấu sự mở rộng thẩm quyền kiểm sát của các cơ quan Công tố ở
nước ta đối với hoạt động xét xử.


16


Sau ngày hoà bình lập lại, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá I (từ ngày 16/4/1958
đến ngày 29/4/1958), Quốc hội quyết định lập Toà án tối cao và hệ thống Toà án và
hệ thống Công tố, cả hai tách khỏi Bộ Tư pháp, trực thuộc Hội đồng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký ban hành Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959,
Nghị định số 321/TTg ngày 02/7/1959 xác định tương đối cụ thể và rõ ràng vị trí,
vai trò, chức năng, thẩm quyền của Viện công tố trong bộ máy Nhà nước ta. Chức
năng, thẩm quyền của cơ quan Công tố không chỉ giới hạn ở THQCT, không chỉ
điều khiển, giám sát hoạt động điều tra mà còn trực tiếp tiến hành điều tra và thực
hiện cả sự giám sát đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố tụng dân
sự, có quyền kháng cáo cả bản án hình sự và bản án dân sự.
BLTTHS đầu tiên của nước ta, cũng ghi nhận vai trò THQCT của VKS. Như
vậy, sự ra đời của VKS ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống
nhất. Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã thu hẹp phạm vi
hoạt động của VKS, VKS thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, tập trung thực hiện chức
năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp; thay vì có trách nhiệm bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất thì chỉ có trách
nhiệm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi này nhằm đảm bảo
VKS tập trung vào nhiệm vụ chính của mình là thực hiện chức năng công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp. BLTTHS năm 2003 ra đời đã thể hiện được những
quan điểm mới về cải cách tư pháp hình sự. Để bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều
phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt người phạm tội Bộ luật quy định VKS
THQCT trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà
án…. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội pháp luật về THQCT luôn

phát triển và dần hoàn thiện qua các thời kỳ lịch sử.

17


1.2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về thực hành quyền công tố trong
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.2.2.1. Chủ thể của hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Một trong những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án
hình sự là phải quy định rõ thẩm quyền giải quyết của các cơ quan và đề cao trách
nhiệm, tính chủ động của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố. Trên cơ sở đó, Bộ luật TTHS 2015 quy định thẩm quyền giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gắn với thẩm quyền điều tra.
Cụ thể là, Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của
mình, nhằm bảo đảm nguyên tắc ‘phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực”. Bộ
luật quy định VKS chủ yếu thực hiện trách nhiệm THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp; tuy nhiên khi có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, Điểm c,
Khoản 2, Điều 145 Bộ luật TTHS quy định VKS phải trực tiếp xác minh, tố giác tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong 02 trường hợp đó là: (1) Trường hợp phát
hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2)Trường hợp phát hiện có dấu hiệu bỏ lọt
tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục.
Đồng thời, nhằm tạo thuận lợi cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Bộ
luật hình sự 2015 quy định các biện pháp xác minh tố giác, tin báo tội phạm, kiến
nghị khởi tố gồm: a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; b) Khám nghiệm hiện trường;c)
Khám nghiệm tử thi; d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản. Mặt khác,

Bộ luật TTHS 2015 cho phép triệu tập người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
để thu thập thông tin và quy định việc dẫn giải họ chỉ được thực hiện khi qua kiểm
tra xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được
khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc
không do trở ngại khách quan[15].

18


1.2.2.2. Đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là
một trong những nội dung cụ thể của THQCT trong tố tụng hình sự nên đối tượng
của THQCT trong giai đoạn này chính là tội phạm và người phạm tội.
Trong BLHS Việt Nam, khái niệm tội phạm được định nghĩa tại Điều 8 như
sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa” [12].
Người phạm tội là người có đủ dấu hiệu chủ thể của tội phạm và đã thực hiện
hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm.
Theo đó, các hoạt động được BLTTHS quy định trong giai đoạn đầu tiên giải
quyết nguồn tin về tội phạm, được KSV có nhiệm vụ tiến hành nhằm xác định tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, với yêu cầu của pháp luật giao cho VKSND quản lý và xử lý tin báo
tội phạm, BLTTHS năm 2015 đã xác lập nội dung THQCT kể từ khi tiếp nhận, giải

quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, xét phê chuẩn lệnh bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp hạn chế quyền
công dân, quyền con người. Thời điểm này chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can, mới
là ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Vì bản chất việc giải quyết tin báo,
tố giác tội phạm, nhất là việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp và việc phê
chuẩn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chính là việc bắt và tạm giữ hình
sự. Việc VKS tham gia sớm vào giai đoạn này chính là sự khẳng định chức năng
THQCT của VKS trong việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm, đảm bảo được
án oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.

19


×