Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Bảo đảm quyền tố cáo của công dân từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
————————

HUỲNH THỊ THÚY TRANG

BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
————————

HUỲNH THỊ THÚY TRANG

BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành

: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số

: 8.38.01.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Bùi Xuân Đức

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ về
“Bảo đảm quyền tố cáo của công dân từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng’’ là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các luận văn khác trong cùng lĩnh
vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS.TS. Bùi Xuân Đức
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Huỳnh Thị Thúy Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO
CỦA CÔNG DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................ 7
1.1. Quyền tố cáo của công dân và việc bảo đảm quyền tố cáo ....................... 7
1.2. Nội dung bảo đảm quyền tố cáo............................................................... 11
1.3. Những yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền tố cáo .......................... 15

Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 17
Chương 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG
DÂN Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................... 19
2.1. Xây dựng quy định và cơ chế thực hiện quyền tố cáo của công dân ....... 19
2.2. Tổ chức tiếp nhận và giải quyết tố cáo của công dân .............................. 23
2.3. Giám sát việc giải quyết và bảo vệ quyền tố cáo của công dân ............... 32
2.4. Xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật và công khai kết
quả giải quyết .................................................................................................. 39
2.5. Bất cập và hạn chế trong thực hiện bảo đảm quyền tố cáo tại TP Đà Nẵng 44
Kết luận Chương 2 .......................................................................................... 51
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG ...................................................................................................... 53
3.1. Quan điểm tăng cường bảo đảm quyền tố cáo ở nước ta hiện nay .......... 53
3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng.......................................................................................... 56
Kết luận Chương 3 .......................................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BĐQTC

Bảo đảm quyền tố cáo

ĐBQH

Đại biểu Quốc hội


GQTC

Giải quyết tố cáo

KNTC

Khiếu nại tố cáo

HĐND

Hội đồng nhân dân

PCTN

Phòng chống tham nhũng

QTC

Quyền tố cáo

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp. Điều 30 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp
nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường
về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. 3.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”. Có thể thấy, việc Hiến
pháp ghi nhận quyền tố cáo của công dân cho thấy vị trí, vai trò quan trọng của
quyền năng pháp lý này.
Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng tố cáo và việc bảo đảm quyền tố cáo
của công dân, coi tố cáo là một trong những kênh thông tin giúp Nhà nước
phát hiện, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tập thể và Nhà nước. Đồng thời qua việc bảo
đảm tố cáo, Nhà nước thể hiện sự thừa nhận và coi trọng quyền làm chủ trực
tiếp của nhân dân trong giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức.
Do vậy, các chính sách pháp luật phải không ngừng được hoàn thiện cho
phù hợp với sự thay đổi của đời sống xã hội, cần thiết phải chỉnh sửa, bổ
sung, ban hành mới. Có thể thấy rằng trong thời gian qua các chính sách pháp
luật không ngừng được hoàn thiện, đóng vai trò quan trọng, thúc đẩy sự phát
triển mọi mặt của đời sống, kinh tế xã hội. Tuy vậy còn bộc lộ nhiều thiếu
sót, hạn chế, bất cập, làm phát sinh tố cáo trong các lĩnh vực quản lý nhà
nước, cũng như tố cáo cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện

1



nhiệm vụ, công vụ. “Thời gian qua, để phát huy vai trò của nhân dân
trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, góp ý, phê bình, đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, Ðảng, Nhà
nước đã ban hành và triển khai thực hiện một số chủ trương, quy định có
liên quan đến bảo vệ người tố cáo và đạt được kết quả bước đầu. Tuy
nhiên, công tác này vẫn còn những hạn chế, bất cập, như tình trạng để lộ
lọt thông tin của người tố cáo; không ít trường hợp người tố cáo không
được bảo vệ, bị trả thù, trù dập; các hành vi trả thù, trù dập chưa được
phát hiện, xử lý nghiêm. Việc biểu dương, khen thưởng người tố cáo đúng
và các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt việc bảo vệ người tố cáo
chưa được quan tâm. Cán bộ, đảng viên và người dân còn chưa an tâm,
ngại đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp ý, phê bình cán
bộ, đảng viên vi phạm”...[7]
“Những hạn chế, bất cập nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ
yếu là do cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, trước hết là người đứng đầu ở
không ít nơi chưa quan tâm đến công tác này. Quy định của Ðảng, pháp luật
của Nhà nước về bảo vệ người tố cáo, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực chưa hoàn thiện, thiếu cụ thể. Công tác giải quyết tố cáo trong một số
trường hợp còn để kéo dài, có biểu hiện bao che người bị tố cáo. Kiểm tra,
thanh tra, điều tra phát hiện, xử lý hành vi trả thù, trù dập người tố cáo và
những vi phạm quy định về bảo vệ người tố cáo chưa được coi trọng, trong
khi những hành vi trả thù, trù dập người tố cáo ngày càng tinh vi, khó phát
hiện”[7]. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, quy định,
hướng dẫn về công tác này như: Chỉ thị 09-CT/TW ngày 06 tháng 3 năm
2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thông báo kết luận số 130-TB/TW
ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại,
tố cáo từ năm 2006 đến nay và giải pháp trong thời gian tới, Chỉ thị số 35-

2



CT/TW ngày 26 tháng 5 năm 2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
đến cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, Nghị quyết số 39/2012/QH13 ngày
23/11/2012 của Quốc hội, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 của Thủ
tướng Chính phủ; Chỉ thị 27-CT/TW ngày 10/1/2019 về tăng cường sự lãnh
đạo của đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, Luật Tố cáo năm 2018.
Tuy nhiên, việc đảm bảo quyền tố cáo của các cơ quan hành chính nhà
nước trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng trong những năm quan chưa cao, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu là do cấp ủy, tổ chức đảng,
chính quyền, trước hết là người đứng đầu còn chưa quan tâm đến công tác
này. Công tác giải quyết tố cáo trong một số trường hợp trên địa bàn còn để
kéo dài, có biểu hiện bao che người bị tố cáo. Kiểm tra, thanh tra, điều tra
phát hiện, xử lý hành vi trả thù, trù dập người tố cáo và những vi phạm quy
định về bảo vệ người tố cáo chưa được coi trọng, trong khi những hành vi trả
thù, trù dập người tố cáo ngày càng tinh vi, khó phát hiện.
Vì vậy, để tìm hiểu rõ hơn cơ sở lý luận và thực trạng bảo đảm quyền tố
cáo trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng, học viên chọn đề tài “Bảo đảm quyền tố
cáo của công dân từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình
khoa học sau đây đã được tham khảo:
- Đề tài cấp nhà nước: “Khiếu nại, tố cáo hành chính – cơ sở lý luận và
thực tiễn”, năm 2011, do Tiến sĩ Lê Tiến Hào – Phó Tổng Thanh tra Chính
phủ, Chủ nhiệm đề tài. Và Đề tài thành phần “Thẩm quyền và trách nhiệm
của các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo, vị trí vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong công tác giải quyết

3



khiếu nại, tố cáo hành chính” của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Thư.
- Sách tham khảo: “ Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại,
tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay”, Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra
Chính phủ, nhà xuất bản Chính trị - hành chính, 2012, Chủ biên: Tiến sĩ Lê
Tiến Hào và Tiến sĩ Nguyễn Quốc Hưng.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố: “Nâng cao hiệu quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai của cơ quan hành chính nhà
nước trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, năm 2012, do bà Phan Thị Dung –
chuyên viên Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố chủ nhiệm đề tài (ghi
nhận kết quả nghiên cứu theo Quyết định số 872/QĐ- UBND ngày 15/5/2012
của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng).
- Luận án Tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo
pháp luật Việt Nam hiện nay”, năm 2019, do bà Đặng Thị Kim Ngân –chủ
nhiệm đề tài.
Trên đây là các đề tài, công trình khoa học đã góp phần làm sáng tỏ nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn về tố cáo và giải quyết tố cáo của các cơ quan hành
chính nhà nước. Tuy nhiên, chưa có đề tài, công trình nào đi sâu nghiên cứu
về việc đảm bảo quyền tố cáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận, thực tiễn về bảo đảm quyền tố cáo của
các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tố cáo cho công dân trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tố cáo cho công dân
trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.


4


- Phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tố cáo cho công
dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, nhằm chỉ ra những vướng mắc, bất
cập, hạn chế trong quá trình thực hiện, về thẩm quyền bảm đảm quyền
tố cáo cho công dân trên địa bàn.
- Đề xuất giải pháp đảm bảo nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm
quyền tố cáo cho công dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những quy định hiện hành
của pháp luật về bảo đảm quyền tố cáo cho công dân và thực tiễn công tác
bảo đảm quyền tố cáo cho công dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: công tác bảo đảm quyền tố cáo cho công dân
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
-Về thời gian nghiên cứu: Công tác bảo đảm quyền tố cáo cho công
dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành việc nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp hệ thống;
- Phương pháp biện chứng;
- Phương pháp thống kê;


5


- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm;
- Phương pháp lựa chọn điển hình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Làm rõ các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tố cáo của công dân trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng. Qua đó áp dụng vào thực tiễn thành phố Đà Nẵng
để tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tố cáo của công
dân; đảm bảo công tác quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo an
ninh trật tự xã hội, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của
người tố cáo.
Qua việc nghiên cứu trên, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho công
tác thực tiễn, cũng như những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy trên
địa bàn cả nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận luận văn được cơ cấu thành 3 chương như
sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở
Việt Nam hiện nay
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở thành phố
Đà Nẵng
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của
công dân qua thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

6



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA
CÔNG DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Quyền tố cáo của công dân và việc bảo đảm quyền tố cáo
1.1.1. Khái niệm tố cáo
Theo quy định tại Luật Tố cáo 2011, Tố cáo là việc công dân theo thủ
tục quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi
vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức.
Công dân dù bị ảnh hưởng trực tiếp hay không bị ảnh hưởng bởi hành vi
vi phạm pháp luật đều có quyền thực hiện việc tố cáo khi biết được có hành vi
vi phạm pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội. Mục đích của hoạt động tố
cáo là nhằm vào việc xử lý hành vi vi phạm và người có hành vi vi phạm, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể được cho là bị gây thiệt hại, bảo
vệ trật tự an toàn xã hội.
Tố cáo là việc cá nhân báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền
về bất kì hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà họ cho rằng hành vi ấy vi
phạm pháp luật hoặc vi phạm quy định của tổ chức, cộng đồng đã gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp, uy tín, danh dự
của Nhà nước, tổ chức, cá nhân để xử lý, ngăn ngừa hoặc khắc phục hậu quả
do hành vi, việc làm đó gây ra. Tố cáo hành chính là một dạng tố cáo có tính
pháp lý, để phân biệt với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tố giác tội
phạm), có thể hiểu: Tố cáo hành chính là việc cá nhân báo cho cơ quan hành
chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước về
bất kì hành vi nào của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà họ cho rằng hành vi ấy vi

7



phạm pháp luật hoặc vi phạm quy định của tổ chức, cộng đồng đã gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp, uy tín, danh dự
của Nhà nước, tổ chức, cá nhân để xử lý, ngăn ngừa hoặc khắc phục hậu quả
do hành vi, việc làm đó gây ra.
1.1.2. Khái niệm quyền tố cáo của công dân
Điều 30 của bản Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể về quyền
khiếu nại, tố cáo như sau: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải
tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được
bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của
pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng
quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác” [23]. Với
ý nghĩa là bước tiến quy định về quyền con người, quyền công dân nên
Hiến pháp 2013 có quy định thành một chương (chương 2), trong đó có
nhấn mạnh tại Điều 30 Hiến pháp, mở rộng chủ thể có quyền khiếu nại,
quyền tố cáo không chỉ là công dân mà là mọi người sinh sống, làm việc
trên đất nước Việt Nam có quyền khiếu nại, tố cáo về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đồng thời, Hiến pháp cũng tiếp
tục ghi nhận cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật
chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm
cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố
cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác [23].
Theo quy định này, tố cáo không chỉ là quyền Hiến định của công dân
Việt Nam mà đã được công nhận là quyền con người.“Hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ

8



bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 là một trong những
biện pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Trên tinh thần đó, Luật Tố cáo đã quy định mở rộng
phạm vi chủ thể thực hiện quyền tố cáo là cá nhân. Cá nhân bao gồm công
dân Việt Nam, công dân nước ngoài và người không quốc tịch.
Quyền tố cáo của công dân được hiểu là khả năng của công dân thực
hiện các hành vi dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm thông báo chính thức
cho cơ quan, cá nhân có thẩm quyền về hành vi của bất kỳ cá nhân, tổ chức
nào vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, uy tín
và danh dự của nhà nước, tổ chức, hoặc của cá nhân; với mục đích để cá
nhân, cơ quan có thẩm quyền xử lý, ngăn ngừa hoặc khắc phục hậu quả do
hành vi, việc làm đó gây ra.
1.1.3. Khái niệm, vai trò bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Trong tiếng Việt, bảo đảm được hiểu là “làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [33, tr.38]. Như các
quyền công dân khác, quyền tố cáo sẽ chỉ là nhu cầu và khả năng ở dạng tiềm
năng và không thể trở thành hiện thực nếu không có các điều kiện để thực hiện.
Khi nghiên cứu về bảo đảm pháp lý thực hiện quyền con người, quyền
công dân nói chung, có quan điểm cho rằng “bảo đảm pháp lý gồm một hệ
thống thống nhất về mặt pháp lý các yếu tố sau: cơ chế pháp lý thực hiện
quyền và nghĩa vụ pháp lý; hệ thống các quyền và nghĩa vụ pháp lý; hành vi
hợp pháp và trình độ văn hóa pháp lý của mỗi cá nhân công dân [1, tr.112].
Có quan điểm tiếp cận từ góc độ rộng hơn, coi bảo đảm pháp lý thực hiện
quyền bao gồm cả sự tương tác giữa các yếu tố trong hệ thống bảo đảm. Hệ
thống đó không chỉ bao gồm quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của chủ
thể, trình tự, thủ tục thực hiện quyền và nghĩa vụ, việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể mà còn có cả hệ tư tưởng chính trị - pháp lý, văn

9



hóa pháp lý của các chủ thể và hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích,
giáo dục pháp luật cũng như sự tham gia của xã hội. Theo quan niệm này, bảo
đảm pháp lý thực hiện quyền công dân là “điều kiện, môi trường pháp lý
thuận lợi do pháp luật tạo ra trên cơ sở hệ tư tưởng chính trị - pháp lý tiến bộ,
để công dân vừa thực sự được hưởng quyền vừa sử dụng đúng quyền mà hiến
pháp đã quy định” [42, tr.25]. Nhìn chung, các quan niệm về bảo đảm pháp lý
thực hiện quyền con người, quyền công dân hiện nay đều khẳng định đó là hệ
thống gồm nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là các yếu tố được nhà
nước tạo lập.
Trong nhà nước pháp quyền dân chủ, để bảo đảm thực hiện quyền con
người, quyền công dân thì “trách nhiệm trước tiên thuộc về Nhà nước, cụ
thể là các cơ quan trong bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức nhà nước.
Do nhà nước và pháp luật là hai phạm trù gắn bó chặt chẽ với nhau, vì vậy,
bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân phải gắn liền với sự
điều chỉnh của pháp luật, trước hết phải được hiến pháp, pháp luật ghi
nhận, quy định, bởi lẽ “quyền con người, quyền công dân khi được hiến
pháp, luật ghi nhận trở thành độc lập đối với bất kỳ quyền uy nào”. Thông
qua pháp luật, trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm thực hiện quyền
mới được xác lập trên cả ba phương diện là “nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ
bảo vệ và nghĩa vụ thực hiện”. Bằng hệ thống pháp luật, nhà nước quy định
cụ thể các biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền của công dân, cấm các
hành vi xâm hại và quy định các biện pháp trừng phạt đối với các chủ thể
xâm hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Pháp luật là cơ sở
quan trọng nhất tạo ra các điều kiện, môi trường pháp lý để công dân thực
hiện QTC và để các chủ thể tham gia vào quá trình này và bảo vệ QTC của
công dân trước các nguy cơ bị xâm phạm. Tuy nhiên, nếu chỉ có hệ thống
pháp luật thì chưa đủ. Để QTC của công dân được thực hiện trên thực tế


10


đòi hỏi phải có sự điều chỉnh pháp luật, là các hoạt động cụ thể “có mục
đích, có định hướng, có tổ chức và được thực hiện thông qua hệ thống các
phương tiện, quy trình pháp lý”.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể hiểu:
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật là việc Nhà nước
ghi nhận quyền tố cáo, các biện pháp, cách thức để công dân thực hiện
quyền tố cáo trong hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện trên thực tế
các biện pháp, cách thức đó để công dân thực hiện quyền tố cáo một cách
an toàn, thuận tiện và hiệu quả.
Vai trò của bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Thứ nhất, bảo đảm quyền tố cáo của công dân góp phần bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân; giúp mọi cá nhân trong xã hội bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
Thứ hai, bảo đảm quyền tố cáo của công dân nhằm tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, bảo đảm quyền tố cáo của công dân là công cụ hữu hiệu trong
cuộc chiến chống tham nhũng và các vi phạm pháp luật khác.
Thứ tư, bảo đảm quyền tố cáo của công dân góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng tăng
cường tính công khai, minh bạch, xử lý nghiêm minh, có hiệu quả các hành vi
vi phạm pháp luật.
1.2. Nội dung bảo đảm quyền tố cáo
Thứ nhất, ghi nhận quyền tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo của công dân
trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Một trong những nội dung
quan trọng của BĐQTC của công dân là việc ghi nhận quyền tố cáo trong
Hiến pháp và ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác như luật, nghị định,
thông tư... Điều 32 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định như sau: “Cá


11


nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc
các cơ quan đó.
Cơ quan, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu
nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người
khiếu nại, tố cáo, cơ quan, tổ chức khiếu nại và có biện pháp khắc phục.
Trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do Bộ Luật này
quy định.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống người khác.”
Quyền tố cáo của công dân là một trong những quyền cơ bản của công
dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Bộ Luật Tố tụng hình sự đã cụ thể hóa
quyền đó và coi đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Nguyên tắc này là một trong những biểu hiện bản chất dân chủ của tố tụng hình
sự nước ta, là phương tiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức và cũng là một trong những hình thức phát hiện và khắc phục
những sai lầm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Chủ thể có quyền tố
cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ
quan và những người nói trên là công dân.
Thứ hai, thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân về bảo đảm
quyền tố cáo của công dân. Để bảo đảm quyền tố cáo của công dân, hệ thống
pháp luật cần quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân
trong việc này, bao gồm: (1) Xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước
trong GQTC và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý công
tác GQTC. (2) Quy định về thẩm quyền và trách nhiệm trong việc bảo vệ

người tố cáo trong hệ thống pháp luật. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của

12


các cấp, các ngành đối với công tác bảo đảm quyền tố cáo của công dân. Xác
định việc bảo vệ người tố cáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội, là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên. Tổ chức quán triệt, triển khai
thực hiện nghiêm túc, đồng bộ có hiệu quả các quy định của pháp luật đến cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân về quyết tâm bảo vệ quyền tố cáo của
công dân. Thủ trưởng các bộ, sở, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương
kiên quyết khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác bảo đảm quyền
tố cáo của công dân và tăng cường sự lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt công tác
bảo vệ người phát hiện và tố cáo hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, thủ tục bảo đảm quyền tố cáo của công dân để người dân thực
hiện quyền tố cáo được thuận lợi và để cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm
quyền thực hiện nghiêm túc trách nhiệm bảo đảm quyền tố cáo của công dân,
cần quy định rõ ràng, cụ thể thủ tục BĐQTC của công dân, bao gồm: quy định
thủ tục giải quyết tố cáo và quy định thủ tục bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên,
các quy định của pháp luật nhìn chung chỉ mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể
và nằm phân tán trong nhiều văn bản với hiệu lực pháp lý khác nhau. Cơ sở
pháp lý là yếu tố tiên quyết hình thành cơ chế bảo vệ người tố cáo và bảo đảm
cho việc thực thi cơ chế này trên thực tế.
Thứ tư, quy định và thực hiện các quy định về nguồn lực bảo đảm quyền
tố cáo của công dân. Nội dung này đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có quy
định về trình độ, năng lực, đạo đức, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ
công chức và quy định về chế độ tài chính, cơ sở vật chất mà Nhà nước xây
dựng để tạo điều kiện cho công dân thực hiện có hiệu quả QTC của mình.
Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán

bộ, công chức, viên chức, đảng viên; tạo chuyển biến trong việc tu dưỡng, rèn
luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân,

13


khuyến khích tự tu dưỡng, rèn luyện, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các phương tiện
truyền thông trong công tác tuyên truyền các quy định của pháp luật và công
khai kết quả giải quyết tố cáo rộng rãi đến toàn dân.
Thứ năm, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc bảo đảm quyền tố cáo của
công dân và xử lý vi phạm quyền tố cáo. Quyền tố cáo được bảo đảm thực
hiện khi có cơ chế để bảo đảm thực thi. Quy định pháp luật về cơ chế bảo
đảm thực thi QTC bao gồm các cách thức để QTC được bảo đảm thực hiện
trên thực tế như giám sát, thanh tra, kiểm tra việc BĐQTC và xử lý hành vi vi
phạm quyền tố cáo. Ủy ban kiểm tra các cấp, thanh tra đẩy mạnh công tác
kiểm tra, thanh tra, giám sát để kịp thời phát hiện các cơ quan chức năng, tổ
chức, cá nhân không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao trong việc
bảo vệ người tố cáo, người phản ánh, kiến nghị, cung cấp thông tin về những
biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của cán bộ, đảng viên, các cơ quan,
tổ chức…; phát hiện, làm rõ, xử lý hoặc đề nghị xử lý nghiêm tổ chức, cá
nhân có hành vi trả thù, trù dập người tố cáo. Các cấp ủy đảng tăng cường tập
hợp đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia giám sát, phát hiện và
kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi trả thù, trù
dập, chưa thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ người tố cáo.
Thứ sáu, bảo vệ, khen thưởng người tố cáo. Bảo vệ và khen thưởng
người tố cáo sẽ tạo động lực khuyến khích cá nhân thực hiện QTC, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, của xã hội, của công dân. Việc bảo vệ người tố cáo được
các công ước quốc tế và pháp luật các quốc gia đặc biệt quan tâm. Chú trọng
giới thiệu, biểu dương những mô hình hay, các gương điển hình tiên tiến,

người tốt, việc tốt trong công tác phát hiện và tố cáo người có hành vi vi
phạm pháp luật; động viên, cổ vũ các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia tố
giác tội phạm.

14


1.3. Những yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền tố cáo
Thứ nhất, sự tác động của yếu tố chính trị: Yếu tố chính trị có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hiệu quả bảo đảm quyền tố cáo của công dân; bao gồm môi
trường chính trị, hệ thống các chuẩn mực chính trị, chủ trương, đường lối,
chính sách của đảng cầm quyền và quá trình tổ chức thực hiện chúng; các
quan hệ chính trị và ý thức chính trị; hoạt động của hệ thống chính trị; nền
dân chủ xã hội và bầu không khí chính trị - xã hội.
Thứ hai, sự tác động của yếu tố pháp lý: Pháp luật là yếu tố tiên quyết,
cơ bản cho bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền tố
cáo nói riêng. Cơ sở pháp lý là yếu tố tiên quyết hình thành cơ chế bảo vệ
người tố cáo và đảm bảo cho việc thực thi cơ chế này trên thực tế. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều văn kiện khẳng định vai trò quan
trọng của xã hội trong phòng, chống tham nhũng; về bảo vệ người tố cáo,
phát hiện tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, cho
đến nay, Đảng và Nhà nước chưa ban hành một văn bản, nghị quyết chuyên
đề riêng về cơ chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng và các hành vi vi phạm
pháp luật. Các nội dung bảo vệ người tố cáo còn mờ nhạt.
Thứ ba, sự tác động của ý thức trách nhiệm của cơ quan nhà nước:
Nhà nước tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ quyền tự do của công dân được
thể hiện qua quy định của luật pháp chứ không chỉ mang tính chính trị hay
thể hiện đạo lý. Nhà nước có ưu thế và vai trò quyết định, chi phối, định
hướng cho hoạt động của mọi chủ thể trong xã hội nên bảo đảm quyền tố
cáo là trách nhiệm của nhà nước. Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ người tố cáo

được giao cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau và được quy định rải rác
trong nhiều văn bản pháp luật. Luật không quy định trách nhiệm bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và tính mạng của người tố cáo thuộc về
cơ quan nhà nước nào mà chỉ quy định trách nhiệm phối hợp với các cơ

15


quan có thẩm quyền và cơ quan công an. Luật phòng chống tham nhũng tuy
là văn bản luật chuyên ngành nhưng chỉ quy định trách nhiệm của các cơ
quan, người có thẩm quyền trong việc bảo vệ người tố cáo tham nhũng một
cách chung chung. Như vậy, có quá nhiều cơ quan bảo vệ người tố cáo
nhưng thẩm quyền thì chồng chéo, không có cơ quan chuyên biệt bảo vệ
người tố cáo cũng như người thân của người tố cáo.
Thứ tư, sự tác động của ý thức pháp luật của người dân: Trong bảo đảm
thực hiện QTC, ý thức pháp luật giữ vai trò quan trọng, bảo đảm thúc đẩy và
thực hiện. Mục đích này muốn đạt được phụ thuộc vào hai chủ thể chính là
nhà nước với vai trò chủ thể ban hành pháp luật và chủ thể thứ hai là người
dân với tư cách là chủ thể thực hiện, chủ thể thụ hưởng quyền. Một bộ phận
không nhỏ nhân dân có trình độ dân trí chưa cao, nhận thức pháp luật kém.
Kiến thức pháp luật của nhân dân, đặc biệt là nhân dân vùng nông thôn và
vùng núi còn rất thấp. Rất nhiều người tham gia pháp luật mà không biết
những quy định của pháp luật mặc dù nó rất gần gũi, phổ biến trong cuộc
sống. Ngoài ra, ở nước ta còn tồn tại tư tưởng tâm lý người dân ngại va chạm,
còn sợ sệt.
Thứ năm, sự tác động của yếu tố nguồn nhân lực và cơ sở vật chất:
Nguồn nhân lực chính là số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác liên quan đến bảo đảm QTC. Yếu tố cơ sở vật chất cũng
đóng vai trò quan trọng đến bảo đảm QTC của công dân, bao gồm: cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác tiếp dân tạo điều kiện thuận lợi cho

người dân đến tố cáo, để người giải quyết tố cáo xử lý thông tin, xác minh nội
dung tố cáo kịp thời, chính xác, đúng pháp luật; trang thiết bị và nguồn tài
chính bảo đảm cho việc bảo vệ, khen thưởng người tố cáo. Bên cạnh đó, cần
có cơ chế, chính sách đãi ngộ đặc thù để thu hút cán bộ giỏi, động viên cán bộ

16


yên tâm khi làm công tác liên quan đến bảo đảm QTC từ đó giúp họ nâng cao
ý thức trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ.
Kết luận Chương 1
Trong chương này, Luận văn đã làm rõ khái niệm về quyền tố cáo và bảo
đảm quyền tố cáo của công dân. Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo
pháp luật Việt Nam đã và đang được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Việc
ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy quyền tố cáo của công dân đã được Hiến pháp
và các văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ. Tuy nhiên, những vấn đề bảo
đảm quyền tố cáo của công dân chưa được nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện
nên việc thể chế hóa các nội dung này trong hệ thống pháp luật của nước ta
chưa đầy đủ và còn nhiều hạn chế dẫn đến nhiều khó khăn trong việc thực
hiện. Chương 1 của luận văn đã chỉ ra những nội dung của việc bảo đảm
quyền tố cáo, bao gồm:
- Một là ghi nhận quyền tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo của công dân
trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác;
- Hai là thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân về bảo đảm quyền
tố cáo của công dân;
- Ba là thủ tục bảo đảm quyền tố cáo của công dân;
- Bốn là quy định và thực hiện các quy định về nguồn lực bảo đảm quyền
tố cáo của công dân;
- Năm là giám sát, kiểm tra, thanh tra việc bảo đảm quyền tố cáo của
công dân và xử lý vi phạm quyền tố cáo;

- Sáu là bảo vệ, khen thưởng người tố cáo;
- Bảy là ý thức pháp luật của công dân và văn hóa pháp lý của cộng đồng
trong việc bảo đảm thực hiện quyền tố cáo.
Trong bảy nội dung trên thì nội dung thứ hai là thẩm quyền, trách nhiệm

17


của tổ chức, cá nhân về bảo đảm quyền tố cáo của công dân đã và đang ngày
càng được Đảng và Nhà nước chú trọng quan tâm. Thực hiện nội dung thứ 6
là bảo vệ, khen thưởng người tố cáo một cách có hiệu quả.
Chương này cũng nêu rõ bốn vai trò của bảo đảm quyền tố cáo của công
dân: Thứ nhất, bảo đảm quyền tố cáo của công dân góp phần bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, giúp mọi cá nhân trong xã hội bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Thứ hai, bảo đảm quyền
tố cáo của công dân nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, bảo
đảm quyền tố cáo của công dân là công cụ hữu hiệu trong cuộc chiến chống
tham nhũng và các vi phạm pháp luật khác. Thứ tư là bảo đảm quyền tố cáo
của công dân góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước theo hướng tăng cường tính công khai, minh bạch, xử lý
nghiêm minh, có hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật.
Nhận thấy vai trò của bảo đảm quyền tố cáo của công dân là rất lớn, luận
văn tiếp tục làm rõ thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở các cơ
quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ở chương tiếp theo.

18


Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN Ở

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Xây dựng quy định và cơ chế thực hiện quyền tố cáo của công
dân
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của việc khiếu nại, tố cáo và giải
quyết hiệu quả các khiếu nại, tố cáo nên Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
tới công tác này. Những năm qua, nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã đề cập
đến việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trên cơ sở đó, Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng quy định về giải quyết
khiếu nại, tố cáo, như: Quyền tố cáo của công dân trong hệ thống pháp luật
Việt Nam Hiến pháp năm 2013 là văn bản pháp lý cao nhất hiện nay ghi nhận
về QTC của công dân và thiết lập cơ chế bảo đảm của Nhà nước đối với việc
thực hiện QTC của công dân; Luật Tố cáo năm 2011; Điều 478 và 479 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 509 và 510 Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Luật
Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2008; Luật Tố cáo năm
2018; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018... và các văn bản hướng dẫn
thi hành, trong đó các quy định trong Luật Tố cáo năm 2011 và các văn bản
hướng dẫn của Luật này và Luật Tố cáo năm 2018 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2019) là hệ thống và đầy đủ nhất về bảo đảm QTC của công dân, là cơ
sở pháp lý để bảo đảm QTC của công dân được thực hiện trên thực tế.
Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26-5-2014 của Bộ Chính trị về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải
quyết khiếu nại, tố cáo”, UBND TP Đà Nẵng đã tổ chức hội nghị triển khai
Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Các

19


đại biểu đã được quán triệt nội dung Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết

khiếu nại, tố cáo. Trên cơ sở đó Thành uỷ và UBND thành phố, tất cả các
quận, huyện đã tiếp thu và ban hành các chỉ thị, kế hoạch để triển khai thực
hiện đến toàn thể đại biểu là cán bộ chủ chốt, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức trên địa bàn. Cụ thể như: Quyết định số: 9262/QĐ-UBND
của UBND Thành phố Đà Nẵng, ngày 23 tháng 12 năm 2014, quyết định về
việc ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của Ban Tiếp công dân
Thành phố Đà Nẵng; Quyết định số: 17/2017/QĐ-UBND của UBND TP Đà
Nẵng, ngày 24 tháng 5 năm 2017 quy định về tiếp nhận, xử lý, giải quyết đơn
kiến nghị phản ánh của tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;
Công văn số 1666-CV/TU ngày 26-9-2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về
việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW đến các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội nhằm quán triệt, phổ biến, lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện từ thành phố đến cơ sở; Quyết định số 11660QĐ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy ngày 29-9-2014 ban hành Quy chế đối
thoại trực tiếp giữa người đứng đầu các cấp ủy đảng, người đứng đầu chính
quyền các cấp với nhân dân; Công văn số 2967-CV/TU ngày 26-02-2019 về
tiếp tục đẩy mạnh công tác dân vận của chính quyền, trong đó có nội dung chỉ
đạo thực hiện nghiêm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và công tác hòa giải ở cơ sở; Quy định số 13195-QĐ/TU ngày 187-2019 của Ban Thường vụ Thành ủy về thẩm quyền, quy trình tiếp công dân
và xử lý đơn, thư gửi đến Thường trực Thành ủy và Ban Thường vụ Thành
ủy; Công văn số 9349/UBND-TCD ngày 16-10-2014 về chấn chỉnh, tăng
cường và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân; Kế hoạch số 10732/KHUBND ngày 24-11-2014 về triển khai Chỉ thị số 35-CT/TW, trong đó đã chỉ
đạo tăng cường rà soát, giải quyết dứt điểm các vụ việc KNTC tồn đọng, phức

20


×