Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tiểu luận chứng minh trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.39 KB, 9 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại tòa án
thường chứa đựng những mâu thuẫn nhất định giữa các bên đương sự nên rất phức tạp.
Để giải quyết đươc vụ việc dân sự thì mọi vấn đề của vụ việc dân sự dù ai nêu ra cũng
đều phải được làm rõ trước khi tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên,
phải làm thế nào để làm rõ được vấn đề trong các vụ việc dân sự để giải quyết thì mới là
điều quan trọng? Chính vì thế trong quá trình xem xét, giải quyết vụ án dân sự thì điều
không thể thiếu được trong tố tụng dân sự đó chính là “chứng minh”
Tiểu luận dưới đây sẽ nêu rõ hơn về “chứng minh trong tố tụng dân sự”.
NỘI DUNG
I.
Khái niệm và ý nghĩa của chứng minh trong tố tụng dân sự
1. Khái niệm
Khác với tố tụng Hình sự, tố tụng Hành chính đối với việc chứng minh hâu hết là
nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì tố tụng dân sự lại đặt hầu
hết nghĩa vụ chứng minh cho các đương sự. Theo đó, chứng minh là làm cho thấy rõ là có
thật, là đúng bằng việc hoặc bằng lý lẽ. Các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp
luật nêu trên của các chủ thẻ tố tụng nhằm mục đích làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ
việc dân sự nên được gọi là chứng minh trong tố tụng dân sự.
Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng theo
quy định của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự.
Chứng minh là hoạt động có tính chất chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của tòa
án nên có nội hàm rất rộng, Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng
không chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể
hiện ở chỗ phải làm cho mọi người “thấy rõ là có thật, là đúng”. Do vậy, các phương thức
được các chủ thể chứng minh sử dụng để chứng minh trong tố tụng dân sự cũng rất đa
dạng. Nhưng chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra được tất cả các căn cứ pháp lý và thực
tiễn liên quan đến việc dân sự.
Quá trịnh chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự,
từ thời điểm khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự đến khi tòa án ra quyết định giải
quyết quyết vụ việc dân sự. Hoạt động chứng minh trong quá trình tòa án giải quyết vụ


việc dân sự bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng. Trong đó, hoạt
động nghiên cứ và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa của các chủ thể tố tụng mang tính
quyết định.
Trên thực tế, hoạt động chứng minh diễn ra dưới dạng cung cấp, thu thập, nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ là cơ bản và do các đương sự thực hiện là chủ yếu. Vì vậy, chứng
minh thường được hiểu theo nghĩa là hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập, nghiên cứu
và đánh giá chứng cứ và chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chỉ là đương sự. Tuy vậy, nếu


xem xét một cách đầy đủ, toàn diện thì trong quá trình tố tụng, ngoài việc cung cấp, thu
thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, các chủ thể tố tụng còn phải làm rõ cả những cơ sở
pháp lý liên quan đến các yêu cầu trong vụ việc dân sự. Tham gia vào quá trinhg này
không chỉ có các đương sự mà còn có các chủ thể khác như người đại diện, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, tòa án… Do vậy, chứng minh không đồng
nghĩa với việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ và chủ thể chứng
minh trong tố tụng dân sự không chỉ là các đương sự. Chứng minh bao gồm cả hoạt động
cung cấp, thu thập, đánh giá chứng cứ và hoạt động chỉ ra các căn cứ pháp lý để làm cho
mọi người nhận thức đúng sự việc. Chủ thể chứng minh bao gồm cả đương sự và chủ thể
khác tham gia vào quá trình làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
Trên thực tế, các chủ thể tố tụng thường tham gia vào vụ việc dân sự với mục đích
khác nhau nên hoạt động chứng minh rất phức tạp. Để bảo đảm được hiệu quả của việc
giải quyết vụ việc dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thì pháp luật tố
tụng dân sự phải quy định những chủ thể tố tụng nào là chủ thể chứng minh; quyền và
nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể đó; những thình tiết, sự kiện nào trong vụ việc dân
sự phải chứng minh và những tình tiết, sự kiện nào không cần chứng minh; trình tự thủ
tục chứng minh. Ngoài ra, các chủ thể chứng minh cũng phải thực hiện dầy đủ, đúng
quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình đã được pháp luật quy định trong quá trình tố
tụng
2. Ý nghĩa của chứng minh
Chứng minh là hoạt động tố tụng dân sự cơ bản của các chủ thể tố tụng. Kết quả

giải quyết vụ việc dân sự phụ thuộc phần lớn vào kết quả của hoạt động chứng minh.
Chứng minh trước hết có ý nghĩa xác định, làm rõ được các sự kiện, tình tiết của vụ việc
dân sự, bảo đảm việc giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự. Xét cả dưới góc độ lý luận
và thực tiễn thì chứng minh vẫn là biện pháp duy nhất để xác định các sự kiện, tình tiết
của vụ việc dân sự. Thông qua hoạt động chứng minh, thẩm phán, hội thẩm nhân dân biết
rõ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết. Trên thực tế, không loại
trừ trường hợp thẩm phán, hội thẩm nhân dân giải quyết vụ việc dân sự có thể biết được
một sự kiện, tình tiết nào đó vủa vụ việc dân sự do ngâu nhiên. Nhưng để giải quyết đúng
vụ việc dân sự thì thẩm phán, hội thẩm nhân dân vẫn không được sử dụng những sự hiểu
biết riêng này của họ làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự trừ trường hợp đó là những
sự kiện, tình tiết mà mọi người đều biết. Trong trường hợp này, để loại trừ khả năng thẩm
phán, hội thẩm nhân dân có kết luận trước về vụ việc dân sự thì thầm phán, hội thẩm
nhân dân không được tiến hành tố tụng giải quyết vụ việc dân sự đó và có thể được lấy
lời khai với tư cách là người làm chứng. Do vậy, cho dù thẩm phán, hội thẩm nhân dân
giải quyết vụ việc dân sự có thể biết được một sự kiện, một tình tiết nào đó của vụ việc
dân sự thì để giải quyết đúng được vụ việc dân sự vẫn phải tiến hành các hoạt động


chứng minh để làm rõ vụ việc dân sự. Ngoài ra, cũng có trường hợp một tình tiết, sự kiện
liên quan đến vụ việc dân sự được thẩm phán, hội thẩm nhân dân chứng kiến diễn ra ngay
tại phiên tòa. Tình tiết, sự kiện này có thể là tình tiết. sự kiện pháp lý mà sự phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các bên đương sự liên quan đến nó như: sự
kiện bị đơn trả cho nguyên đơn một số tiền đã vay tại phiên tòa, tòa án và mọi người đã
trực tiếp chứng kiến nên không phải chứng minh. Song, đây cũng chỉ là trường hợp các
biệt, còn lại đa số các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự muốn làm rõ, muốn nhận thức
được thì đề phải được chứng minh.
Đối với đương sự, chứng minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự làm rõ được cơ
sở quyền, lợi ích hợp pháp của họ, trên cơ sở đó thuyết phục tòa án bảo vệ. Trước tòa án,
nếu đương sự không chứng minh được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì
quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể sẽ không được tòa án bảo vệ. Vì trên thực tế, các

tòa án cũng có thể có sai lầm trong việc xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự,
không làm sáng tỏ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự không đúng với sự thật,
mặt khác làm cho đương sự không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Do vậy,
chứng minh không chỉ có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của tòa án được
đúng đắn mà còn có ý nghĩa bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của mình trước tòa
II.
Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 bao gồm các chủ thể có
nghĩa vụ phải chứng minh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án.
1. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự đối với nguyên đơn
Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ sở có sự tranh
chấp trong quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau nhưng bình
đẳng về địa vị pháp lý mà trong đó có một quy tắc chung cho cả hai bên đương sự:
“Người nào đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phải chứng minh”.
Theo quy tắc này, mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh những sự kiện,
tình tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối của mình, hay nói
một cách giản đơn là khẳng định một sự việc gì thì phải chứng minh sự việc ấy.
Quy định này xuất phát từ cơ sở khi yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình với
tư cách là người trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật nội dung có vi phạm hay
tranh chấp, đương sự là người hiểu rõ nhất vì sao họ có yêu cầu đó, họ biết được những
tình tiết, sự kiện trong vụ việc, do đó có khả năng cung cấp chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu của mình, về mặt tâm lý, khi đưa ra yêu cầu của mình bao giờ đương sự cũng là
người đứng ở thế chủ động, tự nguyện đưa ra những lý lẽ để chứng minh, bênh vực cho
quyền lợi của mình.


Sự thật là cơ sở của yêu cầu và phản đối của các bên nên các bên sẽ quan tâm và
tìm mọi cách để khẳng định sự thật này. Khi đưa ra yêu cầu thì nguyên đơn phải chứng
minh cho yêu cầu của mình đối với bị đơn, tức là phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,

tham gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận… để chứng minh, bởi vì bị đơn
được suy đoán là không có bất cứ trách nhiệm gì với nguyên đơn cho đến khi trách nhiệm
của bị đơn chưa được chứng minh. Cung cấp chứng cứ chỉ là một trong các biện pháp
chứng minh của đương sự.
Ngoài ra, còn có các trường hợp nguyên đơn không có nghĩa vụ phải chứng minh
như:
- Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị
kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp
được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử
dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung
cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án. Người lao động khởi kiện vụ án
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao
động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc
trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy
định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng
lao động;
- Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
2. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự đối với bị đơn
Bị đơn có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn hoặc bị đơn đưa ra yêu
cầu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp bị đơn đưa ra yêu cầu có liên
quan đến yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn phải cung cấp chứng cứ để chỉ ra yêu cầu đó
có cơ sở thực tế, cơ sở pháp lý hay không, có đúng đắn không? Khi đó nguyên đơn cũng
có quyền phản đối lại yêu cầu đó của bị đơn, đồng thời phải chứng minh cho việc phản
đối yêu cầu của mình;
Bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (có thể bị đơn chỉ chấp nhận
phần yêu cầu và phản đối phần còn lại của yêu cầu đó hoặc không chấp nhận hoàn toàn)
hoặc thậm chí chỉ trong trường hợp bị đơn đang nắm giữ chứng cứ liên quan đến nguyên

đơn.
3. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự đối với người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan


Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, họ có nghĩa vụ,
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Chẳng hạn, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập tham gia vào vụ kiện giữa nguyên đơn và bị đơn, họ cho
rằng đối tượng đang tranh chấp là thuộc sởhữu của họ chứ không phải thuộc sở hữu
nguyên đơn hay bị đơn. Trong trường này, nghĩa vụ chứng minh (nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ, tham gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận…) của họ cũng giống
như nghĩa vụ của nguyên đơn khi chứng minh cho yêu cầu của mình.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập, dù đứng về phía
nguyên đơn hay bị đơn, họ đều có nghĩa cung cấp chứng cứ chứng minh cùng nguyênđơn
hay bị đơn vì lợi ích của họ liên quanđến vụ kiện. Việc cung cấp chứng cứ của họ để
chứng minh làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ kiện để bảo vệ quyền lợi cho đương
sự mà họ đứng về phía đương sự đó, hoặc có thể làm căn cứ cho yêu cầu của họ đối với
một trong các bên đương sự; hoặc chứng cứ do họ cung cấp làm căn cứ để họ phản đối về
việc kiện đòi hoàn lại mà một bên đương sự đặt ra cho họ.
4. Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh trong tố tụng dân sự
Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh được quy định tại Điều 92 Bộ luật
tố tụng dân sự 2015 bao gồm:
Một là, đối với những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết thì không phải chứng
minh. Chứng không phải chứng minh vì mục đích của chứng minh là để làm rõ tình tiết,
sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự. Tuy vậy, để giải quyết được vụ việc dân sự thì tòa
án phải nắm vững được các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc; nếu sự chưa biết phải
cho chứng minh làm sáng tỏ. Vì thế, một tình tiết, sự kiện mọi người đều biết chỉ không
phải chứng minh trong trường hợp tòa án cũng biết rõ về nó và “được tòa án thừa nhận”.
Hai là, Đối với những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết
định của tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp

luật cũng không phải chứng minh. Việc không phải chứng minh những tình tiết, sự kiện
này là bởi chúng đã được chứng minh trước đó, việc chứng minh lại là không cần thiết vì
tòa án, cơ quan nhà nước nào giải quyết vụ việc cũng đều dựa trên thực hiện quyền lực
Nhà nước ta. Nếu chứng minh lại có thể kết quả khác nhau sẽ dẫn đến sự phức tạp cho
quá trinhg giải quyết vụ việc dân sự.
Ba là, Đối với nhứng tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công
chứng, chứng thực cũng không phải chứng minh. Vì những tình tiết, sự kiện này được ghi
lại dưới hình thức nhất định nên rõ ràng và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác
nhận. Mặt khác, phải đảm bảo giá trị các giấy tờ, tài liệu đã được cơ quan nhà nước công
chứng, chứng thực hợp pháp. Tuy nhiên, đối với các trường hợp giả mạo, gian dối dẫn
đến việc công chứng, chứng thực không hợp pháp thì tòa án vẫn phải cho chứng minh.


Bốn là, Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện,
tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên
đương sự đó không phải chứng minh hoặc Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng
thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không
vượt quá phạm vi đại diện. Trong trường hợp này hướng về bản chất của tranh chấp giữa
các đương sự là có quyền và lợi ích đối lập nhau nên khi cả hai cùng chấp nhận về một
tình tiết, sự kiện nào đó thì đương nhiên tình tiết sự kiện đó không phải chứng minh, giúp
cho việc giải quyết trở nên dễ ràng hơn.
III. Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
1. Cung cấp chứng cứ
Cung cấp chứng cứ là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng trong việc đưa lại cho tòa
án, viện kiểm sát các chứng cứ của vụ việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, các đương sự,
các nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện hoặc quản lý, lưu giữ chứng cứ có nghĩa vụ cung
cấp cho tòa án. Ngoài ra, họ cũng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho viện kiểm sát khi
viện kiểm sát yêu cầu.
Việc cung cấp chứng cứ tiến được tiến hành từ khởi kiện. Trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự, nếu thất chứng cứ chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự thì tòa

án yêu cầu đương sự cung cấp bổ sung. Để bảo đảm giải quyết vụ việc dân sự đúng hạn,
pháp luật quy định thẩm phán có thẩm quyền ấn định cho đương sự một thời hạn không
vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc
dân sự để họ cung cấp chứng cứ. Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung
cấp chứng cứ mà tòa án đã yêu cầu cung cấp nhưng đương sự không cung cấp được vì có
lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm cung cấp chứng cứ
đó. Đối với những chứng cứ mà trước đó tòa án không yêu cầu đương sự cung cấp hoặc
đượng sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì
đương sự có quyền cung cấp tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc
các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.
Khi cung cấp chứng cứ, tài liệu cho tòa án thì đương sự phải sao gửi chứng cứ, tài
liệu đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ; đối với chứng cứ, tài
liệu không công khai hoặc chứng cứ, tài liệu không thể sao gửi được thì phải thông báo
bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Trong trường hợp
giao nộp cho tòa án các văn bản chứa đựng chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng
nước ngoài thì đương sự phải nộp kèm theo bản dịch sang tiếng Việt đã được công chứng,
chứng thực hợp pháp (Điều 97 BLTTDS 2015). Các chủ thẻ có nghĩa vụ cung cấp chứng
chứ phải thực hiện đầy đủ và đúng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình. Trong trường
hợp chủ thể có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng


nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thì phải chịu trách nhiệm của việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đó của họ. Về vấn đề này, Khoản 1 Điều 96 BLTTDS 2015
quy định: “Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và
nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được
giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự
giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không
đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án
căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy

định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự”.
Để xác định trách nhiệm của các bên trong việc giao nhận, bảo quản, sử dụng
chứng cứ, thủ tục giao nộp chứng cứ được pháp luật quy định cụ thể. Việc đương sự giao
nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải được lập biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên
gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ
và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và
dấu của Tòa án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và
một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ.
2. Thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ
việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự. Việc thu thập
chứng cứ có ý nghĩa quan trọng đối với cả việc chứng minh của đương sự và việc giải
quyết vụ việc dân sự của tòa án. Vì đương sự chỉ có thể chứng minh được quyền và lợi
ích hợp pháp của mình khi có chứng cứ, tòa án chỉ có thể giải quyết đúng được vụ việc
dân sự khi có đầy đủ các chứng cứ để làm rõ được các vấn đề của vụ việc dân sự.
Các chủ thể chứng minh nói chung đều có quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ.
trong tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ chứng minh chủ yếu nên đương sự, người đại
diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải tiến hành thu thập các
chứng cứ để cung cấp cho tòa án. Khi thấy chưa đủ chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ
việc dân sự, thì tòa án xác định các chứng cứ, tài liệu cần thu thập và yêu cầu các đương
sự cung cấp. Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp pháp luật có quy định.
Để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự, các biện pháp thu thập chứng cứ, trình tự, thủ
tục thu thập chứng cứ của các chủ thể tố tụng phải được pháp luật quy định cụ thể. Các
chủ thể tố tụng khi tiến hành thu thập chứng cứ phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục
pháp luật đã quy định.
Đối với các đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự được áp dụng một hoặc một số biện pháp quy định tại Khoản 1 Điều 97
BLTTDS 2015 để thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, BLTTDS 2015 chưa quy định được đầy



đủ trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ của đượng sự, người đại
diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Đối với tòa án, được áp dụng một hoặc một số biện pháp quy định tại Khoản 2
Điều 97 BLTTDS 2015 để tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp pháp luật có quy
định. Trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ của tòa án hiện nay được
quy định đầy đủ tại các điều từ Điều 97 đến Điều 106 BLTTDS 2015.
Đối với viện kiểm sát, trong trường hợp thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cũng có quyền thu thập chứng cứ. Các biện pháp
viện kiểm sát sử dụng để thu thập chứng cứ được giới hạn trong phạm vi biện pháp yêu
cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, các nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho
việc thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm (Điều
106 BLTTDS 2015)
3. Nghiên cứu chứng cứ
Nghiên cứu chứng cứ là kiểm tra, xem xét nhằm tìm hiểu chứng cứ. Việc nghiên
cứu chứng cứ được các chủ thể tố tụng tiến hành trong suốt quá trình tố tụng dân sự.
Trong các hoạt động chứng minh thì nghiên cứu là hoạt động tiền đề, cơ sở cho hoạt động
đánh giá chứng cứ. Hoạt động đánh giá chứng cứ được thực hiện sau hoạt động nghiên
cứu chứng cứ và chỉ thực hiện có kết quả nếu dựa trên cơ sở của hoạt động nghiên cứu
chứng cứ. Hiện nay, vấn đề này chưa được quy định cụ thể trong BLTTDS năm 2015.
Tuy nhiên, để nhận thức được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thì các chủ thể tố
tụng đều phải nghiên cứu chứng cứ. Nội dung của hoạt động nghiên cứu chứng cứ được
quy định bởi pháp luật và căn cứ vào các thuộc tính của chứng cứ. Qua nghiên cứ chứng
cứ sẽ loại bỏ được thông tin, dấu vết không liên quan đến vụ việc dân sự và xác định
được những thông tin, dấu vết thỏa mãn tất cả các thuộc tính của chứng cứ được sử dụng
để giải quyết vụ việc dân sự.
Để thực hiện việc nghiên cứu chứng cứ có hiệu quả, tất cả tài liệu, vật chứng chứa
đựng thông tin về vụ việc dân sự đều phải được kiểm tra, xem xét. Khi nghiên cứu chứng
cứ, các chủ thể tố tụng phải tiến hành kiểm tra, xem xét từng khía cạnh khác nhau của tài
liệu, vật chứng. Ngoài việc phải so sánh, đối chiếu với các thuộc tính của chứng cứ còn
phải đối chiếu, so sánh chúng với nhau để tìm ra sự thống nhất, mâu thuẫn giữa chúng.

4. Đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ là nhận định giá trị chứng minh của chứng cứ. Trên cơ sở kết
quả của đánh giá chứng cứ, tòa án sử dụng chứng cứ dể giải quyết vụ việc dân sự. Việc
đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 108
BLTTDS 2015.


Các chủ thể chứng minh đều có quyền đánh giá chứng cứ. Nhưng trong đó, việc
đánh giá chứng cứ của tòa án là quan trong nhất vì tòa án là chủ thể có quyền sử dụng
chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Khi đánh
giá chứng cứ không được có kết luận trước về giá trị chứng minh của chứng cứ; phải
đánh giá tất cả các mặt, các mối liên hệ của chứng cứ; phải đánh giá cả các chứng cứ do
các đương sự, do người khác cung cấp và tòa án thu thập. Quá trình đánh giá các chứng
cứ phải thực hiện đánh giá riêng từng chứng cứ một, sau đó đánh giá chứng cứ trong mối
liên quan với các chứng cứ khác và thông qua đánh giá chứng cứ mà khẳng định tính
khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp và giá trị chứng minh của từng chứng cứ một.
Hoạt động đánh giá chứng cứ của tòa án có tính quyết định tới kết quả giải quyết
vụ việc dân sự. Vì vậy, ngoài việc phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về đánh
giá chứng cứ thì tòa án còn phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ trong việc đánh giá chứng cứ.
Đặc biệt, tòa án phải xem xét một cách đầy đủ, toàn diện các ý kiến về đánh giá chứng cứ
của đương sự, luật sư và những người khác khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Chứng
cứ sau khi được đánh giá thì được công bố công khai và sử dụng, trừ chứng cứ có liên
quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật
kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì không
được công bố công khai nhưng phải thông báo cho đương sự biết những tài liệu, chứng
cứ không được công khai (Điều 109 BLTTDS 2015).
KẾT LUẬN
Chứng minh là một phần quan trọng, không thể thiếu trong tố tụng dân sự. Là yếu
tố quyết định lớn đến kết quả của tố tụng, tuy nhiên, ở một quy định về chứng minh trong

bộ luật tố tụng 2015 này vẫn chưa được thỏa đáng để phù hợp với thực tiễn áp dụng trong
quá trình tố tụng, tạo ra những bất cập không đáng có. Chính vì thế, cần phải so những
văn bản hướng dẫn, sửa đổi sao cho các chế định vè chứng minh trong tố tụng dân sự phù
hợp và dễ dàng áp dụng hơn đối với các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng
dân sự.



×