Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.67 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 8340410

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS.TRẦN ĐÌNH THIÊN

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, bản luận văn với đề tài: “Quản lý nhà nước về kinh tế đối

với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc
tế” là kết quả nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi cùng với sự hướng dẫn tận
tình của người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Trần Đình Thiên. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm
về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày 16 tháng 8 năm 2019
Học viên

Nguyễn Thị Phương


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH
TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP QUỐC TẾ ............................................................................................ 7
1.1 Khái niệm Du lịch và quản lý nhà nước về hoạt động du lịch trong
điều kiện hội nhập quốc tế .......................................................................... 7
1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch đối với
chính quyền cấp tỉnh trong điều kiện hội nhập quốc tế ............................ 19
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH
BÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ ................................ 32
2.1. Tình hình hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong
điều kiện hội nhập quốc tế giai đoạn 2014 – 2018 ................................... 32

2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế giai đoạn
2014 – 2018 ............................................................................................... 44
2.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động
du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế
giai đoạn 2014 – 2018 ............................................................................... 54
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP QUỐC TẾ .......................................................................................... 59
3.1. Bối cảnh phát triển mới và các yêu cầu khách quan đặt ra cho sự phát
triển và quản lý nhà nước đối với du lịch Ninh Bình trong giai đoạn tới ......... 59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đối với
hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế .................................. 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch đang ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đấu của nền kinh tế
- xã hội (KT-XH), là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện giữ gìn hòa bình và
hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những
ngành kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, đem lại
những lợi ích phát triển KT-XH to lớn.
Hoạt động du lịch (HĐDL) tăng cả bề rộng lẫn chiều sâu. Có thể nói rằng
không có ngành kinh tế đi tắt đón đầu đuổi kịp trình độ phát triển của các nước
trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu về kinh tế nhanh bằng

ngành du lịch. Chính vì vậy, những năm qua Đảng và Nhà nước ta có sự quan tâm
đặc biệt đến ngành “công nghiệp không khói” này. Công tác quản lý nhà nước
(QLNN) đối với ngành du lịch luôn được tăng cường, đổi mới, từng bước hoàn
thiện để phù hợp với điều kiện phát triển du lịch trong giai đoạn đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước và hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới.
Ninh Bình, mảnh đất giàu truyền thống văn hóa - lịch sử, là một tỉnh thuộc
đồng bằng châu thổ sông Hồng, cách Hà Nội không xa, có tiềm năng to lớn để phát
triển du lịch. Ninh Bình là kinh đô của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự
nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê - Lý với nhiều dấu ấn lịch sử.
Nằm trên tuyến đường bộ, đường sắt xuyên Việt, được thiên nhiên ưu đãi với
nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú, đa dạng, độc đáo, hấp dẫn như: Khu
du lịch sinh thái Tràng An - khu du lịch nổi tiếng được UNESCO công nhận di sản
Văn hóa, Thiên nhiên thế giới; Tam Cốc Bích Động, Vườn quốc gia Cúc Phương,
khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long, suối khoáng nóng Kênh Gà…
Về tài nguyên du lịch nhân văn, Ninh Bình có 975 di tích lịch sử văn hoá, trong đó
có 80 di tích đã được xếp hạng và cấp bằng quốc gia như: Cố đô Hoa Lư, nhà thờ
đá Phát Diệm, Khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính - khu chùa có quy mô lớn
nhất Việt Nam, nắm giữ nhiều kỷ lục như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng
lớn nhất Châu Á, có hành lang La Hán dài nhất Châu Á, có tượng Phật Di Lặc

1


bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á, và nhiều lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc
văn hoá làng quê Việt Nam như lễ hội Trường Yên, lễ hội đền Thái Vi, lễ hội Bái
Đính… Chính bởi những lợi thế này, Ninh Bình có thể tổ chức được rất nhiều loại
hình du lịch như: Du lịch văn hoá - lịch sử; Du lịch lễ hội - tâm linh; Du lịch sinh
thái - leo núi - du lịch làng nghề; Du lịch tắm ngâm, chữa bệnh; Du lịch cuối tuần.
Các loại hình du lịch này đều có thể thu hút khách đến thăm quan vui chơi giải trí
và lưu trú dài ngày ở Ninh Bình. Với tiềm năng sẵn có về mặt cảnh quan tự nhiên,

di tích văn hóa lịch sử nổi tiếng, là thế mạnh để đưa du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Dưới góc độ quản lý nhà nước về du lịch và là người quản lý nhà nước,
mục tiêu quản lý nguồn lực công, đầu tư sao đạt hiệu quả cao nhất cho lợi ích
người dân. Thế nhưng, thực tế lại cho thấy, du lịch Ninh Bình chưa có sự bứt phá
đáng kể so với tiềm năng vốn có, người dân chưa thực sự được hưởng lợi nhiều từ
ngành công nghiệp không khói mang tính chủ lực của tỉnh. Điều này phần nào
được lý giải bởi sự quản lý nhà nước còn lúng túng, thực hiện công tác xúc tiến,
quảng bá du lịch chưa thực sự nổi bật, các cơ sở du lịch chưa được kiểm tra, giám
sát dẫn đến chất lượng và uy tín giảm sút. Đối với khách du lịch, tình trạng “chặt,
chém” diễn ra tại nhiều nơi, ảnh hưởng lớn đến tâm lý khách đi du lịch. Nhận thức
vai trò quản lý nhà nước về du lịch, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Ninh Bình cần
nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của mình. Chú trọng tuyên truyền đi đôi với xây
dựng đồng bộ hạ tầng du lịch, đáp ứng yêu cầu cấp bách nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh để tồn tại và phát triển, tận dụng mọi tiềm năng sẵn có đưa du lịch Ninh
Bình tương xứng với vị trí là trung tâm du lịch quan trọng và nổi tiếng cả nước. Để
đạt được điều này, cần phải có sự nỗ lực rất lớn của hệ thống chính trị, và chính từ
những người dân quê hương Ninh Bình. Đã có nhiều nghiên cứu, đánh giá của các
chuyên gia, nghiên cứu khoa học về lĩnh vực phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình, tuy nhiên đề tài: "Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế", mong muốn
đóng góp phần nhỏ công sức của mình để phát triển ngành du lịch ở tầm vĩ mô, tạo
ra cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân trên chính mảnh đất Cố đô giàu
truyền thống nhân văn.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Lâm Thị Hồng Loan (2012) “Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở tỉnh
Ninh Bình” Luận văn thạc sỹ ngành kinh tế chính trị mã số: 60 31 01. Nội dung hệ

thống hóa cơ sở lý luận cơ bản về du lịch và phát triển du lịch bền vững. Khảo sát,
nghiên cứu các nguồn tài nguyên, nguồn lực và điều kiện phát triển du lịch bền
vững, trên cơ sở đó làm rõ những lợi thế và khó khăn đối với việc phát triển du
lịch Ninh Bình.
- Tạ Minh Phương (2006) “Phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình, thực trạng và giải pháp” Luận văn thạc sỹ kinh tế, học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh. Nội dung nghiên cứu và tổng hợp một số vấn đề lý luận cơ bản về du
lịch sinh thái, phân tích và đánh giá thực trạng của du lịch sinh thái tỉnh Ninh Bình, đề
xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch sinh thái Ninh Bình.
- Trần Thị Hồng Nhạn (2010) “Giải pháp phát triển ngành du lịch Ninh Bình
đến năm 2020” Luận văn thạc sỹ kinh tế - Trường Đại học Kinh tế, học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung về những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động
kinh doanh du lịch của tỉnh Ninh Bình, đánh giá thực trạng trong phát triển du lịch
và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình đến năm 2020.
- Nguyễn Duy Mậu(2011): “Phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế Quốc tế” Luận án tiến sỹ kinh tế - Trường Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
- Lê Hoàng Tân (2011) “Chiến lược phát triển du lịch tỉnh Quảng Ngãi đến
năm 2020” Luận văn thạc sỹ kinh tế Đại học Đà Nẵng.
- Lưu Thanh Đức Hải (2012) “Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch
trên địa bàn thành phố Cần Thơ” Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ.
- Nguyễn Minh Đức (2007), "Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại,
du lịch tỉnh Sơn La trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Luận án tiến sĩ
Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Huỳnh Vĩnh Lạc (2005), "Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc, tỉnh
Kiên Giang", Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.

3



- Trịnh Đăng Thanh (2004) "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động du lịch ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nhóm tác giả Phạm Văn Thương, Từ Quang Tuyến, Vũ Ngọc Hiếu..(2010)
“Tìm hiểu tiềm năng, thực trạng hoạt động và đề xuất giải pháp phát triển du lịch
sinh thái ở Vườn Quốc Gia Cát Bà - Thành phố Hải Phòng” Khóa luận tốt nghiệp Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên Môi trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
Và một số công trình khoa học và bài viết khác, các công trình nêu trên là
nguồn tư liệu quý để đề tài tham khảo, kế thừa. Nhìn chung, các công trình đã

nghiên cứu về du lịch, quản lý nhà nước về du lịch có rất nhiều nội dung và đi
vào từng lĩnh vực cụ thể của ngành du lịch nhưng chủ yếu tập trung vào ngành
nghề kinh doanh du lịch và phát triển ngành du lịch để trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của quốc gia hoặc địa phương. Đề tài: "Quản lý nhà nước về kinh tế đối
với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc
tế" là một đề tài nâng cao, đồng thời nghiên cứu này có ý nghĩa thiết thực cho

công tác QLNN về kinh tế đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
trong bối cảnh hội nhập quốc tế nói riêng và cho địa phương cấp tỉnh nói chung
nhằm phát triển ngành du lịch theo đúng hướng và đạt được mục tiêu đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối
với hoạt động du lịch của Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế, đề xuất
được phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế đối với
hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế
nhằm thúc đẩy ngành du lịch của tỉnh phát triển nhanh và bền vững, đáp ứng yêu

cầu của thời kỳ đổi mới hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

4


- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trong điều kiện đổi mới hiện nay ở
Việt Nam nói chung và ở cấp tỉnh nói riêng.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch của tỉnh Ninh Bình từ năm 2014 đến nay; từ đó đánh giá các kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh
tế đối với hoạt động du lịch ở Ninh Bình, nhằm khai thác có hiệu quả lợi thế
tiềm năng du lịch của tỉnh trong điều kiện hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về kinh tế
đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Về không gian: Tỉnh Ninh Bình và các thành phố, huyện, phường, xã trực
thuộc tỉnh.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với
hoạt động du lịch ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2014 đến 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ và nổi bật nội dung nghiên cứu của đề tài, phương pháp sử
dụng chủ yếu là duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; Ngoài ra sử dụng phương

pháp thu thập thông tin, thống kê, phân tích và tổng hợp, nguồn số liệu được
phân tích và tổng hợp từ các nguồn tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Ninh
Bình, từ niên giám thống kê và trên internet. Làm nổi bật những vấn đề liên
quan đến chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phát
triển du lịch.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về du lịch và quản lý du lịch. Đánh giá tiềm năng, thực trạng du lịch, quản lý du lịch tỉnh Ninh Bình và đề ra giải
pháp phát triển ngành du lịch ở tầm vĩ mô, tạo ra cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
người dân Ninh Bình.

- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt
động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn từ 2014 - 2019, làm rõ những
điểm tích cực, hạn chế và nguyên nhân.
Luận văn “Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hội nhập quốc tế” sẽ có những đóng góp nhất
định cho việc nghiên cứu hoàn thiện công tác quản lý nhà nước và nâng cao chất
lượng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch tại các địa phương
nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt
động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du
lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh

tế đối với hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm Du lịch và quản lý nhà nước về hoạt động du lịch trong điều
kiện hội nhập quốc tế
1.1.1. Khái niệm du lịch và hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Du lịch hiện nay là một phần hoạt động tinh thần của con người, bất cứ cá
nhân nào cũng đều mong muốn có được hoạt động du lịch đến các miền đất mới,
khám phá thế giới. Định nghĩa đầu tiên về du lịch xuất hiện năm 1811: “Du lịch
là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình và
mục đích giải trí. Ở đây là động cơ chính”. Theo ông Michael Conltman (người
Mỹ) định nghĩa về du lịch cụ thể: “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4
nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: Du khách, nhà cung
ứng, dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”.
Các học giả biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam (1966) đã
tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Bao gồm 2
nghĩa: “Nghĩa thứ nhất: Du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích
cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa, nghệ thuật… Nghĩa thứ hai
dưới góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao
về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn
hóa dân tộc, từ đó góp phần tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước
ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh
doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và

dịch vụ tại chỗ”.[10]
1.1.1.2. Hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
1.1.1.2.1 Hoạt động du lịch

7


Theo Luật Du lịch 2005: “Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du
lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan tổ chức, cá
nhân có lien quan đến du lịch”.
Hoạt động du lịch ở đây được tiếp cận bao gồm các dịch vụ trực tiếp và
gián tiếp cho du lịch. Các chủ thể tham gia hoạt động du lịch: khách du lịch, tổ
chức cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan tổ chức, cá nhân
có liên quan đến du lịch sẽ có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau,
không thể tách rời nhau và là những yếu tố ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển
du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương.
Hoạt động du lịch giúp phục hồi và tang cường sức khỏe cho nhân daanm
có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con
người. Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng nhân dân có điều kiện
tiếp xúc với những thành tựu văn hóa phong phú và lâu đời của các dân tộc. Làm
lành mạnh nền văn hóa địa phương, đổi mới truyền thống, bảo vệ vùng sinh thái.
Từ đó hấp thụ những yếu tố văn minh của nhân loại nhằm nâng cao dân trí, tăng
thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt
đẹp trong nhân dân… Điều này quyết định sự phát triển cân đối về nhân cách của
mỗi các nhân trong toàn xã hội.
Hoạt động du lịch làm tăng khả năng lao động, trở thành nhân tố quan trọng
để đẩy mạnh sản xuất xã hội và nâng cao hiệu quả của nó, góp phần giải quyết vấn
đề lao động và việc làm, có nghĩa là làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Các hoạt động du
lịch là cơ sở quan trọng kích thích sự phát triển kinh tế, là nguồn thu ngoại tệ lớn
cho đất nước.

Hoạt động du lịch đóng vai trò như một nhân tố củng cố hòa bình, đẩy
mạnh giao lưu quốc tế, giúp cho nhân dân các nước hiểu biết thê, về đất nước, c
người, lịch sử truyền thống dân tộc, qua đó tranh thủ sự đoàn kết, giúp đỡ từ các
nước. Ngoài ra du lịch còn giúp cho việc khai thác, bảo tồn các di sản văn hóa của
dân tộc có hiệu quả, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhien xã hội.
Ở một chừng mực nhất định, hoạt động du lịch có thể được coi đồng ghĩa với khái
niệm ngành du lịch.

8


Du lịch và kinh doanh du lịch có các loại hình sau: Kinh doanh lữ hành nội
địa, Kinh doanh lữ hành quốc tế, Kinh doanh lưu trú du lịch, Kinh doanh vận
chuyển khách du lịch, Kinh doanh các khu du lịch, điểm du lịch, Kinh doanh các
dịch vụ du lịch khác.

1.1.1.2.2. Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang mở ra cho Việt
Nam cơ hội phát triển mới. Do vậy, để nắm bắt được cơ hội đó đòi hỏi Việt Nam
phải cải cách và đổi mới mọi mặt, trong đó có đổi mới quản lý nhà nước về kinh
tế. Nếu không đón bắt được cơ hội, Việt Nam sẽ tụt hậu và khó có sự phát triển
nhanh, bền vững. Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế thích ứng với hội nhập
quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 là hướng đi đúng đắn, cần thiết trong giai
đoạn hiện nay.
Nền kinh tế Việt Nam với hơn 32 năm đổi mới đã có những bước phát triển
ngoạn mục, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng khá trong nhiều năm, quy mô GDP đã lớn hơn rất nhiều so với trước. Năm
2018, GDP đạt khoảng 240 tỷ USD, GDP bình quân là 2580 USD/người; nếu tính
cả con số chưa được thống kê thì GDP đạt khoảng 320 tỷ USD, GDP bình quân đạt
khoảng 3400 USD/người. Năm 1990, xuất khẩu của Việt Nam mới đạt được khoảng

1 tỷ USD, thì đến năm 2018, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đã đạt mức 481,7 tỷ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 244,7 tỷ USD, nhập khẩu đạt 237 tỷ USD,
xuất siêu đạt 7,7 tỷ USD (cao nhất từ trước tới nay). Điều này cho thấy, nền kinh tế
Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, có độ mở và hội nhập cao. Kết quả đó có sự
góp phần quan trọng của mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế
Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Có thể nói, hội nhập quốc tế là một yếu tố quan
trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Bên cạnh những thành công nêu trên, nền kinh tế nước ta đang đứng trước
nhiều khó khăn thách thức. Mặc dù tăng trưởng kinh tế cao, bình quân 6,3%, nhưng
vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 20112020, ở mức 7-8%. Tỷ lệ lao động và vốn góp phần tạo nên tăng trưởng kinh tế vẫn
còn ở mức cao (8,4% và 53,3% năm 2018), yếu tố TFP đóng góp vào tăng trưởng

9


kinh tế còn hạn chế, mới ở mức 38,3% năm 2018. Đặc biệt, yếu tố thể chế chưa
được cải thiện, nhiều thói quen và cách quản lý cũ vẫn hiện diện trong các văn bản
pháp luật, cơ chế, chính sách ... Theo WEF năm 2018 (GCI 4.0) thì chất lượng thể
chế Việt Nam xếp hạng 94/140 nước trên thế giới. Do đó, cần phải đổi mới mạnh
mẽ hơn nữa thể chế nhằm tạo cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra nhiều thời cơ
cho các nước phát triển nhanh và bền vững, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức nếu
không nắm bắt kịp xu thế này. Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 là
một xu thế tất yếu để mang lại phồn vinh và giàu mạnh cho những nước nắm bắt
được thời cơ, đổi mới mạnh mẽ mọi mặt của nền kinh tế. Một trong những khâu đột
phá là đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế để theo kịp với hội nhập quốc tế sâu
rộng và Cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển và lan rộng nhanh chóng.
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang làm thay đổi
mọi vấn đề, từ tư duy, nhận thức, tầm nhìn, phương thức và hình thức đến cơ chế,
chính sách, giải pháp trong quản lý nhà nước về kinh tế. Hội nhập quốc tế làm cho

các quốc gia có nhiều cơ hội để mở rộng và tiếp cận dễ dàng với các quốc gia khác
không chỉ trong quản lý kinh tế mà còn trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh... Hội nhập quốc tế đã đưa đến cho các
quốc gia có cơ hội học tập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và triển khai các hoạt
động liên kết, hợp tác, sẻ chia cùng có lợi. Hội nhập quốc tế cũng làm cho các quốc
gia không còn tách biệt và biệt lập mà chịu tác động chung của những biến đổi trên
thế giới. Sự tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế đang diễn
ra ngày càng nhiều hơn, nhanh hơn và phức tạp hơn. Bên cạnh tiến trình hội nhập
quốc tế đã và đang diễn ra ngày một sâu rộng, mạnh mẽ, liên tục thì cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện lại càng làm cho tiến trình hội nhập quốc tế nhanh
hơn, mạnh mẽ hơn và sâu rộng hơn.
Cách mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện và phát triển với tốc độ nhanh chóng
nhờ các công cụ như: internet vạn vật, điều khiển tự động, trí tuệ nhân tạo, trí tuệ
thông minh, robot, big data, vật liệu mới, không gian thông thoáng... Nó làm cho
thế giới phẳng hơn, gần hơn, nhỏ hơn và làm thay đổi mọi mặt của đời sống con

10


người ở mọi nơi, mọi chỗ. Với Cách mạng công nghiệp 4.0, việc tiếp cận và xử lý
thông tin diễn ra dễ dàng, nhanh chóng. Cách mạng công nghiệp 4.0 có khả năng vô
tận, có thể giải quyết, truyền tải nhiều loại thông tin cùng một lúc, trong khoảng
thời gian ngắn nhất, khoảng vài giây, vài phút và có điều kiện để cung cấp cho con
người những cơ sở dữ liệu đủ lớn để đưa ra các căn cứ khoa học cho những tầm
nhìn xa, rộng, cho sự đoán định tương lai tương đối chính xác, cũng như hỗ trợ, gợi
mở đưa ra chính sách, giải pháp có khả năng đúng đắn và chính xác cao.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với trí tuệ nhân tạo sẽ giúp cho con người có
khả năng đánh giá được các phương án tối ưu cần lựa chọn và có khả năng hoạch
định chính sách kinh tế phù hợp nhất cho mỗi đất nước, mỗi tổ chức kinh tế, đặc
biệt, trong quản lý nhà nước về kinh tế. Nhờ có Cách mạng công nghiệp 4.0 với mọi

thông tin được điện tử hóa, số hóa và tự động hóa, kết nối một cách minh bạch và
công khai, các khâu hoạch định, kiểm tra, kiểm soát việc đưa chính sách vào thực
tiễn, cũng như thực hiện chính sách sẽ được thực hiện tốt hơn và chính xác hơn,
nhanh chóng hơn. Hội nhập quốc tế gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
làm thay đổi nhanh chóng, có tính đột phá mọi sự quản lý về kinh tế đỏi hỏi các
chính phủ phải có giải pháp, phương thức và hình thức quản lý kinh tế phù hợp.
Công tác tuyên tuyền, giáo dục và phổ biến chủ trương, đường lối, cơ chế,
chính sách và giải pháp quản lý kinh tế của nhà nước và sự phản hồi của nhân dân,
của các tổ chức chính trị - xã hội... về tính đúng đắn, phù hợp của chính sách và giải
pháp quản lý của nhà nước về kinh tế dễ dàng hơn khi vận dụng thành quả của Cách
mạng công nghiệp 4.0, của mạng xã hội, của hệ thống thông tin rộng khắp và của
hội nhập quốc tế. Nhờ có Cách mạng công nghiệp 4.0, với các công cụ hiện đại,
việc đưa quản lý nhà nước về kinh tế thay đổi từ đường lối, định hướng đến cơ chế,
chính sách, giải pháp cụ thể vì có căn cứ hơn, khoa học hơn, sâu sắc hơn với tầm
nhìn dài hơn, xa hơn, đầy đủ hơn và xác đáng hơn.
Hội nhập quốc tế cho phép các quốc gia tham chiếu, học hỏi nhau mô hình
phát triển. Bên cạnh đó, nhờ có Cách mạng công nghiệp 4.0 mà việc hoạch định
chính sách tốt hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn; đồng thời dễ phát hiện và định
lượng được những rào cản có thể xuất hiện và có biện pháp để xử lý, giải quyết và

11


loại bỏ các rào cản này, bảo đảm cho hoạch định chính sách kinh tế đạt được như
mong đợi.
Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế giúp cho các quốc gia có tầm nhìn về kinh tế
xa hơn, có hiểu biết không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà cả trên toàn thế giới.
Cách mạng công nghiệp 4.0 làm cho các quốc gia khi đưa ra tầm nhìn chiến lược về
kinh tế thuận lợi hơn và có cơ sở khoa học hơn, cũng như tạo điều kiện để quá trình
hoạch định chính sách kinh tế có thể thực hiện nhanh hơn, tốt hơn và khoa học hơn.

Hơn nữa, việc hoạch định chính sách kinh tế có thể rút ngắn khoảng cách, thời gian,
rút ngắn một số bước mà chất lượng chính sách có thể cao hơn, tốt hơn. Đặc biệt,
trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, tầm nhìn và hoạch định chính sách kinh
tế sẽ có thuận lợi hơn khi có thể tham khảo rộng rãi ý kiến của nhân dân. Sự phản
hồi, phản biện của nhân dân sẽ giúp bổ sung nhiều căn cứ thực tế cho việc lựa chọn
được chính sách kinh tế tốt nhất, phù hợp nhất.
Cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển khiến các quốc gia có thể áp dụng
rộng rãi thành quả công nghệ, đưa kỹ thuật số vào quản lý, từ đó xuất hiện nhiều mô
hình quản lý mới, như: Chính phủ số.., do vậy quản lý nhà nước về kinh tế cũng sẽ
đổi mới từ tư duy, nhận thức đến mô hình, phương thức, cách thức, phương pháp,
công nghệ,...
Như vậy, hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động mạnh
mẽ đến quản lý nhà nước về kinh tế từ tầm nhìn, hoạch định đường lối, chủ trương,
đến xây dựng chiến lược, luật pháp và cơ chế, chính sách. Với Chính phủ số được
hình thành, quản lý nhà nước về kinh tế cũng sẽ phải thay đổi theo hướng quản lý
nhà nước kỹ thuật số. Mọi hoạt động kinh tế được số hóa, được điện tử hóa, các số
liệu kinh tế, tài chính được cập nhật và lưu trữ trong hệ thống “big data” nên quản
lý nhà nước về kinh tế cũng từ đó đổi mới theo.
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tác động đến nhà
nước mà còn tác động mạnh mẽ đến người dân, nhà sản xuất và khách hàng. Mọi
thông tin giữa nhà sản xuất với khách hàng và với nhà nước sẽ nhanh hơn, chính
xác hơn. Thông tin về hoạt động kinh tế của mọi cá nhân, nhà sản xuất, kinh doanh
sẽ minh bạch, rõ ràng. Thói quen mua bán sẽ thay đổi từ giao dịch trực tiếp truyền

12


thống sang mua bán online, giao dịch trực tuyến, mọi hoạt động diễn ra qua internet
vạn vật, thẻ tín dụng; thay đổi từ dùng tiền mặt sang không dùng tiền mặt; từ cần
nhiều cửa hàng, nhiều nơi mua bán sầm uất đến các sàn giao dịch qua mạng, giao

hàng đến tận nhà, từ chỗ sản xuất hàng loạt theo một số mẫu mã nhất định đến sản
xuất hàng loạt phục vụ đơn chiếc theo nhu cầu của từng cá nhân. Sản xuất cũng
từng bước thay đổi từ chỗ nhiều công nhân, lương thấp, thu nhập thấp đến chỗ ít
công nhân, thay vào đó là robot và các thiết bị điều khiển từ xa, lương cao, thu nhập
cao. Như vậy, đến một ngày nào đó, nền kinh tế hầu như không dùng tiền mặt trong
thanh toán mua, bán, trao đổi hàng hóa mà hoàn toàn sử dụng thẻ tín dụng, qua hệ
thống ngân hàng. Doanh thu, lợi nhuận, nộp thuế, các chi phí... của các doanh
nghiệp, các chủ thể sản xuất kinh doanh sẽ được minh bạch, được kiểm soát. Nguồn
thu nhập, tổng tài sản của người dân cũng được thông tin đầy đủ cho nhà nước mỗi
khi nhà nước cần. Như vậy, trong điều kiện hội nhập quốc tế và Cách mạng công
nghiệp 4.0, nhà nước cần bất kỳ thông tin nào về hoạt động kinh tế của các nhà sản
xuất kinh doanh, về thị trường và về người dân đều có thể tiếp cận được.
Như vậy, với điều kiện hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0, quản lý nhà nước về kinh tế sẽ được thực hiện hiệu quả và tốt hơn vai trò của
mình về khắc phục khuyết tật thị trường, hỗ trợ thị trường, định hướng XHCN, định
hướng và thực hiện hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, thực hiện
nhà nước kiến tạo, phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp... Hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng và Cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ thì bộ máy
hành chính nhà nước phải được hiện đại hóa, thực hiện trên nền tảng công nghệ cao,
công khai minh bạch. Nhiều khâu của quản lý nhà nước được tự động hóa, được kết
nối và được xử lý online. Thủ tục, giấy tờ sẽ dần bị loại bỏ thay vào đó là lưu trữ
trên mạng, điện toán đám mây, trong big data. Chữ ký điện tử có thể từng bước
được thay thế chữ kỹ trên giấy để rút ngắn thời gian và điều kiện cho người dân.
Nhiều hội họp bị kéo dài và tốn kém sẽ được thay bằng các diễn đàn trao đổi trên
mạng, trên thư điện tử. Kết nối trực tuyến sẽ trở thành hoạt động thông thường của
người dân và các cơ quan nhà nước.

13



Nhờ có hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 mà tất cả tài
nguyên, tài sản quốc gia được hệ thống hóa, thống kê và quản lý trên hệ thống big
data như: tài nguyên, đất đai, vùng trời, vùng biển, nguồn lực dự trữ, các tập đoàn,
các tổng công ty nhà nước và cả tư nhân, nguồn lực lao động... Điều này dẫn đến
thay đổi to lớn, đột phá không chỉ trong quản lý nhà nước về kinh tế mà trên tất cả
các lĩnh vực đời sống của xã hội.
Với các chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế, như: tạo lập môi trường,
định hướng, hướng dẫn, tổ chức, điều tiết và kiểm tra xử lý vi phạm thì hội nhập
quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện các
chức năng này với nhiều tiện ích. Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0
phát triển mạnh mẽ, quản lý nhà nước về kinh tế sẽ thay đổi tích cực nhất trước đòi
hỏi cấp thiết của cuộc sống đặt ra, nếu không các nền kinh tế sẽ trở nên kém phát
triển và lạc hậu nhanh chóng.
Hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi các chính phủ phải
thay đổi căn bản phương thức, hình thức và cả nội dung quản lý nhà nước về kinh
tế. Cụ thể là sử dụng các công cụ công nghệ cao, như: internet vạn vật, robot, big
data, trí tuệ thông minh... vào hoạch địch tầm nhìn, đường lối, định hướng, chính
sách, mục tiêu vĩ mô. Đồng thời, các kế hoạch, chiến lược đề ra khoa học hơn nên
quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp vĩ mô thuận lợi và hiệu quả hơn nhiều lần so với
trước. Nền kinh tế số cho phép quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp vĩ mô khá minh
bạch, các cân đối lớn được tính toán cụ thể, khoa học và xác đáng. Nguồn lực trong
nền kinh tế được huy động tối đa, phục vụ cho sản xuất kinh doanh và cho phát
triển, đồng thời nguồn lực đó cũng được bố trí khoa học, hiệu quả nhất nhờ có công
nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh quản lý vĩ mô, thì hội nhập quốc tế
và Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ hỗ trợ đắc lực và hiệu quả để quản lý doanh
nghiệp và xã hội.[11]

Vậy hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế là những dịch vụ
trực tiếp và gián tiếp cho du lịch trong quá trình mở cửa và tham gia vào mọi
mặt của đời sống quốc tế, chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền

lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong

14


khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
Từ khái niệm đã phân tích ở mục 1.1.1 của Luận văn, tác giả có thể rút ra
một số đặc điểm chủ yếu của các hoạt động du lịch như sau:
Thứ nhất: Hoạt động du lịch mang đầy đủ tính chất của một ngành dịch vụ.
Hiện nay, Việt Nam với nền sản xuất xã hội cùng với khoa học - kỹ thuật công nghệ phát triển với tốc độ rất cao, điều đó đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất, phân công lao động xã hội, cũng như
cuộc sống văn minh của con người. Từ đó, hoạt động du lịch trở thành một
ngành kinh tế độc lập. Ở các nước phát triển và đang phát triển, trong thu nhập
quốc dân tỷ trọng du lịch ngày càng tăng lên. Du lịch là một ngành dịch vụ. Sản
phẩm du lịch và quá trình sản xuất của nó vừa mang những đặc điểm chung của
dịch vụ vừa mang những đặc điểm riêng của dịch vụ du lịch.
Thứ hai: Hoạt động du lịch là loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn những
nhu cầu tinh thần và vật chất cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch.
Hoạt động du lịch khác với hoạt động của các ngành dịch vụ khác ở chỗ:
Hoạt động du lịch chỉ thỏa mãn nhu cầu cho những đối tượng là khách du lịch chứ
hoạt động du lịch không thỏa mãn nhu cầu cho tất cả mọi đối tượng người dân.
Hoạt động du lịch là nhằm thỏa mãn nhu cầu hàng hóa đặc thù riêng của khách du
lịch trong thời gian lưu trú bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ về nghỉ ngơi,
đi lại, ăn, ở, tham quan, vui chơi giải trí, lịch sử, tập quán, thông tin về văn hóa và
các nhu cầu khác. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại hình dịch vụ đời sống nhằm thỏa
mãn các nhu cầu cao cấp của con người, làm cho con người sống ngày càng
phong phú hơn. Thực tế cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới hiện nay, khi bình
quân thu nhập của người dân đã tăng lên không chỉ còn là đủ ăn, đủ mặc thì nhu
cầu được du lịch trở thành không thể thiếu, vì ngoài việc thỏa mãn những nhu cầu

tình cảm và lý trí của con người, du lịch còn là hình thức nghỉ dưỡng tích cực,
nhằm giúp con người tái tạo lại sức lao động.

15


Thứ ba: Hoạt động tiêu dùng và hoạt động cung ứng du lịch đều xảy ra
trong cùng một thời gian và không gian.
Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hóa (thức ăn, đồ uống chế biến
tại chỗ...) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm với việc sản xuất ra
chúng. Trong du lịch, người cung ứng không những phải vận chuyển dịch vụ và
hàng hóa đến cho những khách hàng, mà tự khách du lịch phải đến nơi có những
dịch vụ, hàng hóa. Vì vậy, vai trò của việc truyền bá thông tin, xúc tiến các hoạt
động quảng bá du lịch là hết sức quan trọng, bên cạnh đó họa động quản lý thị
trường du lịch cần có những đặc thù riêng của nó.
Thứ tư: Hoạt động du lịch mang lại nhiều lợi ích thiết thực về chính trị,
kinh tế, xã hội cho địa phương làm du lịch, người làm du lịch.
Tuy nhiên, hiện nay sự chi phối mạnh mẽ nhất với ngành du lịch vẫn là lợi
ích về kinh tế. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, du lịch không
chỉ những đem lại lợi ích về kinh tế mà còn mang lại cả lợi ích về chính trị, văn
hóa, xã hội... Ở nhiều quốc gia đã đưa ngành du lịch phát triển, trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, mang lại nguồn thu nhập lớn trong
tổng sản phẩm xã hội. Do đó, Hoạt động du lịch không chỉ việc thỏa mãn
những nhu cầu ngày càng cao của người dân đi du lịch mà còn phải đảm bảo
mang lại những lợi ích khác như: văn hóa, xã hội, lợi ích kinh tế, chính trị, cho
quốc gia có tài nguyên du lịch và chủ thể tham gia hoạt động du lịch.
Thứ năm: Hoạt động du lịch sẽ được phát triển chỉ trong môi trường
hòa bình và ổn định.
Du lịch là lĩnh vực rất nhạy cảm với những vấn đề chính trị và xã hội. Du
lịch chỉ xuất hiện, phát triển trong điều kiện môi trường hòa bình và quan hệ hữu

nghị giữa các dân tộc. Ngược lại, chiến tranh sẽ ngăn cản hoạt động về du lịch,
tạo nên những tình trạng mất an ninh, phá hoại các công trình du lịch, làm tổn
hại rất lớn đến toàn bộ môi trường tự nhiên. Hòa bình lại là đòn bẩy, giúp đẩy
mạnh những hoạt động du lịch. Du lịch sẽ có tác dụng trở lại việc cùng tồn tại
hòa bình. Thông qua những hoạt động du lịch quốc tế, con người thể hiện

16


nguyện vọng của mình chính là được sống, lao động trong môi trường hòa bình
và hữu nghị. Không chỉ có chiến tranh mà cả những biến động chính trị - xã hội
với mức độ nhất định cũng sẽ làm cho hoạt động du lịch nơi đó bị giảm sút một
cách đột ngột, đặc biệt muốn khôi phục lại cần phải có rất nhiều thời gian. Ví
dụ, những vụ khủng bố như: ngày 11/9 tại Hoa Kỳ hay cuộc khủng bố tại Bali Indonêxia hoặc sự kiện ‘‘đảo chính’’ ở đất nước Thái Lan... những vụ việc trên
đã làm cho ngành du lịch của các quốc gia này khó khăn, thậm chí có thể rất
nhiều năm mới phục hồi. Không những vậy, tình trạng dịch bệnh, ô nhiễm môi
trường... cũng là những yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến khách du lịch.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động du lịch trong điều kiện hội nhập quốc tế
1.1.3.1. Ý nghĩa về kinh tế
Hoạt động du lịch phát triển sẽ kéo theo việc tăng nguồn thu ngân sách
cho các địa phương có hoạt động du lịch, cụ thể là tăng ngân sách từ các khoản
trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc sự quản lý trực tiếp của
các địa phương và còn từ những khoản thuế phải nộp của các tổ chức kinh doanh
du lịch trên địa bàn.
Hoạt động du lịch thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
Trước hết hoạt động kinh doanh du lịch còn đòi hỏi những hỗ trợ, nỗ lực của
nhiều ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành, là cơ sở cho các ngành khác phát
triển. Đối với những hoạt động sản xuất xã hội, du lịch còn giúp mở ra thị trường
nhằm tiêu thụ hàng hóa. Mặt khác, du lịch phát triển sẽ tạo ra những điều kiện
khác để khách du lịch tìm hiểu được thị trường, thậm chín ký kết hợp đồng về

sản xuất kinh doanh, từ đó giúp tận dụng được những cơ sở vật chất kỹ thuật của
nhiều ngành kinh tế khác.
1.1.3.2. Ý nghĩa về chính trị
Ý nghĩa chính trị của hoạt động du lịch còn được thể hiện ở vai trò như
một nhân tố thúc đẩy hòa bình, hỗ trợ các mối giao lưu quốc tế và giúp mở rộng
sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế còn giúp con người sống ở các khu
vực khác nhau hiểu biết lẫn nhau và xích lại gần nhau. Mỗi năm, hoạt động du

17


lịch tại một địc phương cụ thể sẽ có những chủ đề khác nhau các chủ đề luôn có
sự thay đổi và nó còn hỗ trợ kêu gọi mọi người quý trọng lịch sử, văn hóa và
truyền thống của các địa phương nơi có tài nguyên du lịch, giáo dục lòng mến
khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và
tình hữu nghị giữa các dân tộc.
1.1.3.3. Ý nghĩa về văn hóa, xã hội
Hoạt động du lịch góp phần thay đổi bộ mặt văn hóa - xã hội và giảm quá
trình đô thị hóa của những vùng có hoạt động du lịch. Thông thường tài nguyên
du lịch tự nhiên có ở các điều kiện kinh tế còn khó khăn. Việc khai thác những
tài nguyên du lịch này vào sử dụng phải đầu tư về mọi mặt kinh tế, văn hóa - xã
hội, giao thông, bưu điện,... Do vậy mà việc phát triển tài nguyên du lịch sẽ làm
thay đổi bộ mặt kinh tế - văn hóa - xã hội ở những vùng đó, giảm chênh lệch về
phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa phương trong cả nước, đồng thời còn góp
phần làm giảm sự tập trung dân cư.
Hoạt động du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả cho
đất nước chủ nhà mà không phải mất tiền.
Về phương diện kinh tế: du lịch còn là phương tiện giúp tuyên truyền,
quảng cáo rất hữu hiệu cho hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua những
khách du du lịch. Khách hàng được làm quen tại chỗ với các mặt hàng công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp... Một số sản phẩm làm cho du khách hài lòng, về
nước, du khách tuyên truyền cho bạn bè, người thân... và nhiều khi bắt đầu tìm
kiếm các mặt hàng đó ở nước mình và nếu không thấy, khách có thể yêu cầu các
cơ quan ngoại thương nhập các mặt hàng đó.
Về phương diện xã hội: hoạt động du lịch giúp tuyên truyền, quảng cáo
rất có ích về các thành tựu kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, giới thiệu đặc
trưng riêng về con người, phong tục, tập quán... nơi họ đã đến.
Thông qua hoạt động du lịch con người được thay đổi môi trường, có ấn
tượng và cảm xúc mới, thỏa mãn được trí tò mò, đồng thời mở mang kiến thức, đáp
ứng lòng ham hiểu biết, do đó góp phần hình thành phương hướng đúng đắn trong

18


mơ ước sáng tạo, trong kế hoạch cho tương lai của con người - khách du lịch.
Trong thời gian đi du lịch, khách thường dùng những dịch vụ, hàng hóa và
thường xuyên tiếp xúc với những dân cư địa phương. Thông qua những cuộc tiếp
xúc đó, văn hóa của cả du khách và cả người bản xứ được trao đổi và nâng cao
hơn . Hoạt động du lịch còn giúp phong phú hơn khả năng thẩm mỹ của con người
khi được tham quan những kho tàng mỹ thuật của một địa phương, một đất nước.
Hoạt động du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và
nâng cao truyền thống của dân tộc. Thông qua các chuyến du lịch du khách
trong nước còn có điều kiện làm quen với những cảnh đẹp, với lịch sử và văn
hóa dân tộc, qua đó thêm yêu đất nước mình.
Việc phát triển hoạt động du lịch còn có ý nghĩa to lớn với hoạt động
khai thác, bảo tồn những di sản văn hóa của dân tộc, thúc đẩy sự phát triển của
những ngành nghề truyền thống, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường xã
hội, môi trường thiên nhiên.
1.1.3.4. Ý nghĩa về môi trường sinh thái
Tạo môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Du lịch là yếu tố có tác

động kích thích việc khôi phục và tối ưu hóa môi trường bao quanh, bởi chính
môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, hoạt động của con người.
Việc đẩy mạnh hơn nữa hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung của du
khách vào những tài nguyên du lịch nhất định đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình
sử dụng tài nguyên du lịch với mục đích du lịch. Lúc này đòi hỏi những chủ thể
kinh doanh du lịch phải tìm kiếm những hình thức bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý.
Xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có quan hệ chặt chẽ. Một mặt
yếu tố xã hội đảm bảo sự phát triển của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ
môi trường tự nhiên khỏi tác động tiêu cực của khách du lịch và phát triển việc
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ hoạt động du lịch. Như vậy,hoạt động
du lịch và hoạt động bảo vệ môi trường có mối liên quan gần gũi với nhau.
1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch đối với chính

19


quyền cấp tỉnh trong điều kiện hội nhập quốc tế
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch vô cùng đa dạng, nó luôn đòi hỏi phải có sự quản lý
chặt chẽ của Nhà nước để duy trì và phát triển. Mức độ phát triển của ngành du
lịch phụ thuộc lớn vào quy định pháp luật và những chính sách của Nhà nước
phải phù hợp với điều kiện vàmức độ phát triển của đất nước. Do vậy, vai trò của
quản lý nhà nước đối với du lịch là vấn đế cần phải được đặt lên hàng đầu. Hơn
nữa du lịch ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ trong giai đoạn đầu phát triển, còn gặp
hiều những khó khăn, thách thức. Vì vậy rất cần có sự định hướng phù hợp hơn
nữa của Nhà nước để ngành du lịch phát triển.
Tóm lại, hoạt động du lịch trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần
phải có sự quản lý của Nhà nước bởi vì:
Do còn có những khuyết tật và hạn chế của quá trình hội nhập gây nên.

Bên cạnh đó, Nhà nước còn đóng vai trò chủ đạo trong điều tiết sự phát triển của
nền kinh tế, thể hiện ở quá trình định hướng phát triển kinh tế - xã hội nói chung,
cũng như đối với ngành du lịch nói riêng trong từng thời kỳ. Nhà nước còn có
vai trò to lớn trong việc điều tiết, can thiệp vào các quan hệ du lịch nhằm đảm
bảo sự ổn định và phát triển bền vững của ngành.
Quản lý nhà nước về hoạt động du lịch tạo sự thống nhất về tổ chức và
phối hợp những hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế đối với
hoạt động du lịch. Bên cạnh đó, sự quản lý thống nhất của Nhà nước về kinh tế
đối với hoạt động du lịch mới giúp cho hoạt động khai thác những thế mạnh
của mỗi vùng,mỗi địa phương đạt kết quả tốt, phát huy được những lợi thế
của quốc gia trong phát triển du lịch quốc tế.
Hiện nay, ngành du lịch còn là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Nó
liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác. Do vậy, cần có sự quản lý của
Nhà nước về kinh tế đối với hoạt động du lịch để điều hòa quan hệ giữa ngành
du lịch với các ngành, các lĩnh vực khác có liên quan.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra cách hiểu khái quát về

20


×