Tải bản đầy đủ (.doc) (153 trang)

Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.79 KB, 153 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần ra đời
và lưu truyền trong nhân dân từ xa xưa. Trải qua bao thăng trầm, tín ngưỡng
dân gian đã đi vào mạch sống của từng cộng đồng người, tạo nên những nét
văn hóa đậm đà của mỗi dân tộc. Tín ngưỡng dân gian tồn tại trên cơ sở của
phương thức sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước, nó phản ánh đời sống
tinh thần của con người trong quá trình lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên,
xây dựng đất nước và góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách, điều chỉnh
hành vi các cá nhân con người. Bên cạnh đó, nó còn góp phần bảo lưu và
gìn giữ bản sắc văn hóa của người Việt, củng cố sự cố kết cộng đồng, góp
phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Ngay sau khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, trên tinh thần vận
dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quán triệt phương hướng
chỉ đạo của Đảng trong điều kiện mới, Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị năm
1990 Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới đã xác định tín
ngưỡng, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài và có ý nghĩa quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 7 – BCH Trung ương khóa IX năm 2003 cũng nêu: “Giữ gìn và phát huy
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với
Tổ quốc, dân tộc và nhân dân; tôn trọng tín ngưỡng của đồng bào có đạo...”
[dang cong san viet nam, van kien hôi nghi lan 7, tr.52]. Đặc biệt, ngày 29
tháng 6 năm 2004, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký Lệnh số 18/2004/L
– CTN công bố Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, được Uỷ ban thường vụ
Quốc hội khoá 11 thông qua ngày 18/6/2004 và cho đến nay tại điều 24
Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định của hiến pháp
năm 1992 về quyền tự do tín ngưỡng như sau: “Mọi người có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo
bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
1



ngưỡng, tôn giáo; Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Từ đó cho đến nay,
trong các kì đại hội VIII, IX, X, XI, XII vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng dần dần
được bổ sung và hoàn thiện. Cương lĩnh Xây dựng đất nước thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cho thấy, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, coi đó là một phần
không thể thiếu trong cộng đồng người Việt Nam. Đặc biệt, trong những
năm gần đây, trước những diễn biến theo chiều hướng gia tăng và ngày càng
phức tạp của các lễ hội truyền thống, hàng loạt các công văn, công điện của
Thủ tướng Chính phủ, của Ủy ban nhân dân các tỉnh về chỉ đạo, quản lý
hoạt động tín ngưỡng ở các địa phương trong cả nước.
Vùng đồng bằng Bắc Bộ được coi là một cái nôi văn hóa của đất nước.
Phương thức sản xuất nông nghiệp là cơ sở chủ yếu cho việc ra đời các loại
hình văn hóa dân gian trong đó có các loại hình tín ngưỡng dân gian. Cho
tới nay, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ không
chỉ là sự biểu hiện văn hóa đặc trưng của vùng mà còn là một trong những
đặc trưng nổi bật cho văn hóa dân tộc. Hiện nay, hoat động tín ngưỡng dân
gian ở vùng đồng bằng Bắc Bộ diễn ra ngày càng mạnh mẽ, bùng phát nhiều
sinh hoạt tín ngưỡng bị biến tướng, có nhiều hiện tượng tiêu cực đan cài như
mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, tình trạng thương mại hóa... làm mất đi
nét đẹp văn hóa trong sinh hoạt tín ngưỡng của vùng. Chính vì vậy, việc
quản lý và có những chính sách tích cực bám sát các sinh hoạt tín ngưỡng
dân gian được các cấp lãnh đạo từ trung ương đến cơ sở quan tâm sâu sắc.
Để xây dựng được các biện pháp hiệu quả không thể không kể đến giá trị,
vai trò không nhỏ của các công trình chuyên biệt nghiên cứu về tín ngưỡng
dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói
riêng của các nhà khoa học. Do vậy, thực hiện sự chỉ đạo của các cấp lãnh
đạo có thẩm quyền, các nhà khoa học đã tích cực nghiên cứu, truy tìm bản
chất hiện tượng văn hóa tinh thần vô cùng nhạy cảm – sinh hoạt tín ngưỡng

2


dân gian của vùng và trên phạm vi cả nước. Tuy vậy, trong thực tế nghiên
cứu hiện nay, có không ít các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian
dưới các góc độ tiếp cận khác nhau như tôn giáo, chính trị, văn hóa… song,
tiếp cận nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian dưới góc độ triết học chưa có
nhiều công trình đề cập tới. Nếu có tiếp cận dưới góc độ triết học thì đó có
thể là sự đan xen vào các công trình tiếp cận chủ yếu trên các lăng kính
khoa học xã hội khác. Do vậy, cần một thế giới quan triết học trong việc giải
mã tín ngưỡng dân gian sẽ giúp chúng ta hiểu được bản chất của nó. Từ đó,
cùng với các ngành khoa học khác, góp phần trong việc xây dựng các giải
pháp nhằm điều chỉnh các hoạt động tín ngưỡng của vùng mang tính tích
cực, giữ được giá trị văn hóa truyền thống, đào thải các yếu tố tiêu cực là
việc làm hết sức cần thiết.
Với lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Những yếu tố triết
học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” làm
đề tài luận án tiến sĩ Triết học.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ; từ đó rút ra giá trị và hạn chế của nó.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ khái niệm tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ dưới góc độ triết học.
- Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Làm rõ những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Rút ra các giá trị và hạn chế của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3


3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Một số tín ngưỡng dân gian chủ yếu của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ: Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, hệ thống tín
ngưỡng thờ Thành Hoàng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
+ Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về
tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Luận án được trình bày trên cơ sở các tài liệu thu thập được qua các
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các bài báo, tạp chí.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh việc sử dụng phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả còn sử dụng kết hợp đồng bộ hệ thống
các phương pháp như: phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, trừu
tượng hóa, logic - lịch sử.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Làm rõ khái niệm tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ dưới góc độ tiếp cận triết học.
- Luận án làm rõ những yếu tố triết học cơ bản trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ; từ đó luận án rút ra những giá
trị và những hạn chế của nó.

6. Ý nghĩa của luận án
+ Về mặt lý luận:
Luận án góp phần khẳng định thế giới quan triết học trong văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt Nam và góp phần cho việc nghiên cứu những
4


giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung và tín ngưỡng dân gian nói
riêng.
+ Về mặt thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào việc gìn giữ và phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống của nước ta.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy những môn học có liên quan tới văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, tôn
giáo, giảng dạy chuyên đề về hình thái ý thức xã hội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận án gồm 4 chương, 9 tiết.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài luân án
5


Việc Bộ Chính Trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TW (16/10/1990) về tăng
cường công tác tôn giáo, tín ngưỡng trong tình hình mới đã đáp ứng kịp
thời nhu cầu đổi mới về nhận thức tôn giáo và công tác tôn giáo, tín ngưỡng.

Những quan điểm mới hết sức quan trọng của Nghị quyết 24 đã gợi mở cho
các nhà nghiên cứu cách tiếp cận toàn diện, đa chiều về tín ngưỡng, tôn giáo
và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là tín ngưỡng dân gian - một dạng
thức sinh hoạt văn hóa tinh thần hết sức đa dạng phong phú song cũng vô
cùng phức tạp. Kể từ đó, nhiều công trình nghiên cứu có giá trị đã ra đời,
luận giải nhiều vấn đề quan trọng về mặt lý luận cũng như thực tiễn đời
sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Việc tổng quan các công trình nghiên
cứu về tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian
vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, giúp cho tác giả luận án nắm bắt được
tình hình chung về lĩnh vực nghiên cứu. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu
của đề tài, tác giả đã tìm hiểu và phân loại các công trình nghiên cứu có liên
quan tới tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ thành các lĩnh vực
chủ yếu sau:
1.1.1. Những công trình tiêu biểu bàn về khái niệm tín ngưỡng và tín
ngưỡng dân gian nói chung
* Những công trình tiêu biểu bàn về khái niệm tín ngưỡng; phân biệt
tín ngưỡng với tôn giáo và mê tín dị đoan; phân loại tín ngưỡng.
- Thứ nhất, các công trình tiêu biểu bàn về khái niệm tín ngưỡng.
Đã có rất nhiều tác giả bàn về khái niệm tín ngưỡng dưới nhiều khía
cạnh khác nhau. Chẳng hạn, trong công trình nghiên cứu Nếp cũ tín ngưỡng
Việt Nam [, nep cu tin nguong 1996, quyen 1] tác giả Toan Ánh cho rằng,
nguồn gốc xuất phát cho sự hình thành tín ngưỡng là do “xuất phát từ sức
mạnh không thể khống chế của thiên nhiên nên con người ta đâm ra sợ hãi,
và do vậy, để tồn tại yên ổn, họ đã tôn thờ và tin tưởng vào những sức mạnh
hữu hình hay vô hình khác” [nep cu tin nguong 1996, tr.17]. Có thể thấy
rằng, nếu chỉ dừng lại ở nguyên nhân cho rằng do con người sợ hại trước
6


sức mạnh của thiên nhiên mà hình thành nên tín ngưỡng là chưa đủ. Bởi lẽ,

do nhận thức còn hạn chế, con người chưa thể giải thích được các hiện
tượng của tự nhiên thì còn có rất nhiều nguyên nhân khác. . Bên cạnh đấy,
tác giả Toan Ánh cũng chưa chỉ ra nguyên nhân tại sao mà đến hiện nay, tín
ngưỡng vẫn còn tồn tại mặc dù nhận thức của con người đã nâng lên, các
hiện tượng tự nhiên đã được giải thích bằng lý lẽ khoa học. Tác giả chỉ ra
rằng, khi nói đến tín ngưỡng Việt Nam là nói tới niềm tin, sự tôn sùng thành
kính đối với lực lượng siêu nhiên, nên “đừng đem khoa học ra mà giải thích;
trên lĩnh vực tín ngưỡng, có nhiều lý lẽ riêng mà lý lẽ khoa học không thể
giải thích nổi dù với sự chứng minh hiển nhiên” [nep cu tin nguong 1996,
tr.17]. Và do vậy, theo tác giả “… nói đến tín ngưỡng là bao hàm ý nghĩa
ngưỡng mộ và tin tưởng một cách say mê” [nep cu tin nguong 1996, tr.17].
Có nghĩa rằng, khi nói tới tín ngưỡng, tức là đang nói tới niềm tin mãnh liệt
vào một hiện tượng nào đó. Nhưng trong xã hội hiện đại, không vì lý lẽ đó
mà bác bỏ vai trò của khoa học trong việc đi tìm câu trả lời cho nguồn gốc
hình thành nên tín ngưỡng. Hiện nay, xu hướng vận động của hoạt động tín
ngưỡng ngày càng rầm rộ, thậm chí biến tướng theo nhiều cung bậc khác
nhau. Dù các nhà khoa học cũng đã vào cuộc, song, với “… sự chứng minh
hiển nhiên…” [nep cu tin nguong 1996, tr.17] như tác giả nói vẫn chưa tạo
nên được niềm tin đối với những người có tín ngưỡng là vì trình độ nhận
thức của người dân chưa thực sự đồng đều. Chính vì vậy, trong những năm
gần đây, hoạt động tín ngưỡng không những không thuyên giảm mà còn
bùng nổ một cách dữ dội ở khắp các làng quê.
Khác với cách giải thích của tác giả Toan Ánh, khi bàn về tín ngưỡng,
trong cuốn Tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam [tim hieu ban sac van hoa
viet nam], tác giả Trần Ngọc Thêm nhận định rằng niềm tin vào cái thiêng là
cơ sở cho sự hình thành tín ngưỡng. Tác giả viết:“ Tín ngưỡng được hiểu là
niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng cao cả, siêu nhiên, hay nói
gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào cái thiêng liêng, đối lập với cái trần
7



tục, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin,
nhưng ở đây là niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin vào cái thiêng liêng. Do
vậy, niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố
cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống đời sống vật
chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống, tình cảm…” [tim hieu
ban sac van hoa viet nam, tr.16].
Cùng quan điểm với các tác giả Trần Ngọc Thêm, trong cuốn Tín
ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam [tin nguong va van hoa tin
nguong, ngo duc thinh], tác giả Ngô Đức Thịnh cũng nhất trí cho rằng “…
tín ngưỡng với tư cách như một hình thức thể hiện niềm tin vào cái thiêng
của con người, của một cộng đồng người nào đó ở một trình độ phát triển xã
hội cụ thể.” [tin nguong va van hoa tin nguong, ngo duc thinh, tr.17]. Theo
khái niệm này, có thể hiểu rằng, tín ngưỡng là một hoạt động tinh thần của
con người, biểu hiện bằng niềm tin vào “cái thiêng” và hành động theo niềm
tin đó. Và ở các trình độ xã hội khác nhau thì niềm tin vào “cái thiêng” thay
đổi. Xét theo lịch sử ra đời của của tín ngưỡng có thể cho thấy ở thời kì
nguyên thủy, xã hội loài người mới được manh nha, tương ứng với đó là
trình độ thấp cả về phương diện kinh tế và nhận thức. Lúc này, tín ngưỡng
của con người chủ yếu biểu hiện ở sự “phục tùng” tuyệt đối trước sức mạnh
không thể khống chế của tự nhiên – niềm tin này vì thế mà trở nên mù
quáng. Bước sang xã hội hiện đại, trình độ xã hội phát triển và đạt được
những thành tựu nhất định, đã phần nào chế ngự được sức mạnh của thiên
nhiên, cải tạo và bắt nó phục vụ lợi ích của con người. Lúc này, tín ngưỡng
con người có những sự thay đổi. Bên cạnh việc người ta tin tưởng vào “cái
thiêng” nhưng không phải tin tưởng tuyệt đối, tin tưởng một cách mù quáng
mà tin tưởng vì sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng, tin vì giá trị nhân văn của nó.
Luận giải tín ngưỡng trên cơ sở niềm tin vào cái thiêng cũng là quan
điểm của tác giả Nguyễn Đức Lữ trong cuốn Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam [52]. Khi bàn về khái niệm tín ngưỡng, tác giả chỉ rõ

8


nội hàm của tín ngưỡng là “lòng tin, sự ngưỡng vọng của con người của con
người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó – một lực lượng siêu thực hư ảo,
vô hình” [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, tr.6]. Theo
tác giả, nội hàm của tín ngưỡng cũng bao hàm nội hàm của tín ngưỡng dân
gian. Niềm tin là điểm xuất phát của mọi tín ngưỡng [Góp phần tìm hiểu tín
ngưỡng dân gian ở Việt Nam, tr.6]. Tác giả chỉ rõ: “Niềm tin đó còn tồn tại,
chừng nào con người chưa làm chủ được tự nhiên, xã hội và bản thân”. Với
quan điểm này, tác giả luận án cũng hoàn toàn nhất trí. Bởi vì, khi con người
ta gặp những tai ương, trắc trở, rơi tình trạng không lối thoát, thì lúc đấy,
bao trùm trong suy nghĩ của sự nhận thức còn hạn hẹp thì khi đó họ hi vọng
sẽ được che chở, niềm tin rằng mình sẽ được giải thoát khỏi tai ương bởi lực
lượng thần bí nào đó – tín ngưỡng được hình thành. Tác giả kết luận “tín
ngưỡng là chỉ niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng,
một lực lượng, một học thuyết nào đó, mà thông thường, được chỉ là một
niềm tin tôn giáo”[Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam,
tr.186].
Không giải thích tín ngưỡng trên cơ sở của niềm tin, hay là biểu hiện
của sự sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên của con người, tác giả Nguyễn
Minh San trong cuốn Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam [Tiếp cận tín
ngưỡng dân dã Việt Nam ] có cách tiếp cận mới về tín ngưỡng. Tác giả cho
rằng “Tín ngưỡng là biểu hiện của ý thức, về một hiện tượng thiêng liêng,
một sức mạnh thiêng liêng do con người tưởng tượng ra hoặc do con người
suy tôn, gán cho một hiện tượng một sức mạnh chỉ cảm thụ mà chưa nhận
thức được. Tín ngưỡng là một sản phẩm văn hóa của con người được hình
thành tự phát trong mối quan hệ giữa con người với chính mình, với người
khác và với giới tự nhiên” [Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam , tr.7].
Như vậy, khi hiểu tín ngưỡng là biểu hiện của ý thức thì theo tác giả tín

ngưỡng là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh đời sống
tinh thần của con người trong mối quan hệ của con người với chính nó và
9


giới tự nhiên. Chính điểm khác biệt khi luận giải về tín ngưỡng của tác giả
Nguyễn Minh San đã góp phần chỉ rõ hơn về nguồn gốc hình thành tín
ngưỡng, bản chất của tín ngưỡng và giá trị của nó cũng như hạn chế trong
quá trình nhận thức của tư duy con người về thế giới. Đồng quan điểm với
tác giả Nguyễn Minh San, tác giả Nguyễn Đăng Duy trong cuốn Các hình
thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam [Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở
Việt Nam] cũng chỉ rõ: “Tín ngưỡng là một cách từ thực tế cuộc sống cộng
đồng con người ý thức về một dạng thần linh nào đó, rồi cộng đồng con
người ấy tin theo tôn thờ lễ bái, cầu mong cho hiện thực cuộc sống, gây
thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy” [Các hình thái tín
ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, tr.22]. Đó cũng là quan điểm của tác giả Lê
Như Hoa trong cuốn Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam [Tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam ] chỉ rõ “… các tín ngưỡng, về bản chất là những hệ thống
tri thức, chúng không chỉ giải thích những hiện tượng riêng biệt, mà còn cho
phép nhận thức thế giới như một cái toàn thể,…” [Tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam, tr.22] và “tùy theo sự phát triển của nhận thức mà con người có
phương thức hành động tương ứng”. Quan điểm này của tác giả đã chỉ rất rõ
nguồn gốc của sự nảy sinh các hình thái tín ngưỡng là do sự phản ánh hiện
thực khách quan vào đầu óc con người. Sự phản ánh ấy có sự biến thiên
theo trình độ nhận thức của chủ thể phản ánh. Song suy cho cùng, theo tác
giả luận án, cho dù tín ngưỡng về bản chất là hệ thống tri thức, nhưng hệ
thống tri thức ấy chỉ mang tính rời rạc, cảm tính, chủ quan và chưa thực sự
có căn cứ khoa học để minh chứng tính đúng đắn của nó. Nên tín ngưỡng
mới rơi vào trạng thái nửa tích cực, nửa tiêu cực. Cái tích cực ở chỗ, xét về
cội nguồn hình thành, tín ngưỡng phản ánh ước mơ của con người có được

cuộc sống bình yên trước sức mạnh của các hiện tượng tự nhiên, ước mơ có
được mùa màng bội thu, cây cối tươi tốt và ước mơ sau khi chết có được sự
che chở của tổ tiên, thần linh - những vị thần mà họ chưa bao giờ thấy
nhưng lại luôn hiện hữu trong tâm thức từ đứa trẻ nhỏ đến người già lão. Cái
10


tiêu cực ở chỗ, nó bị lợi dụng bởi những kẻ có hành vi “buôn thần, bán
thánh” – vì vốn dĩ, tín ngưỡng không có cơ sở khoa học thực sự, nó được
giải thích bằng niềm tin và niềm tin trở thành nền tảng vững chắc cho tín
ngưỡng tồn tại.
- Thứ hai, các công trình tiêu biểu nghiên cứu, bàn về sự khác nhau
giữa tín ngưỡng và tôn giáo với mê tín dị đoan.
Có thể kể đến một số quan điểm trong công trình nghiên cứu như sau:
Theo quan niệm của tác giả Nguyễn Đăng Duy trong cuốn Các hình
thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam [Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở
Việt Nam], khi bàn về sự tương đồng hay khác biệt giữa khái niệm tín
ngưỡng và tôn giáo thì theo tác giả, đây là hai khái niệm khác nhau. Tác giả
chỉ rõ nếu xét về khía cạnh niềm tin thì cả tín ngưỡng và tôn giáo đều cần
phải có, nhưng tín ngưỡng “không phải là hình thức thấp của tôn giáo, lại
càng không phải là tôn giáo, dù là tôn giáo dân tộc”.[Các hình thái tín
ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, tr.23] Về khía cạnh này, tác giả luận giải vì tín
ngưỡng “…không hề có giáo chủ, giáo lý, giáo hội, và các đình, đền, miếu
không phải là giáo đường, không phải là nơi giảng kinh truyền đạo, mà chỉ
là nơi diễn ra thờ tự, lễ hội. Nhất là về mục đích của nó thì khác hẳn tôn
giáo, niềm tin của nó không hướng tới cứu cánh cho cái chết” [Các hình
thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, tr.23]. Đó cũng là quan điểm của tác
giả Ngô Đức Thịnh trong cuốn Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt
Nam [Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam ] cũng nhận định rằng
sự khác nhau căn bản giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở “…hình thức biểu hiện

và trình độ tổ chức…” [Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam ,
tr.17]. Điều đáng chú ý, tác giả sử dụng thuật ngữ “đạo” làm cơ sở luận giải
cho khái niệm tín ngưỡng và tôn giáo. Theo tác giả “… đạo theo nghĩa rộng
nó có thể bao gồm cả một số hình thức tín ngưỡng và tôn giáo, còn đạo theo
nghĩa hẹp hơn là để chỉ một số hình thức tín ngưỡng phát triển có xu hưỡng
trở thành tôn giáo sơ khai hay là tôn giáo dân gian” [Tín ngưỡng và văn hóa
11


tín ngưỡng ở Việt Nam , tr.17]. Tín ngưỡng khác tôn giáo, vì theo tác giả, tín
ngưỡng “chưa có hệ thống giáo lý, mà mới chỉ có huyền thoại”, ngược lại
tôn giáo có “hệ thống giáo lý, giáo luật chặt chẽ”, tín ngưỡng “chưa có hệ
thống thần điện và còn mang tính chất đa thần”, trong khi đó tôn giáo “Thần
điện đã thành hệ thống…”, tín ngưỡng “gắn với cá nhân, cộng đồng làng xã,
chưa thành giáo hội”, tôn giáo thì ngược lại có “Tổ chức giáo hội, hội đoàn
khá chặt chẽ, hình thành hệ thống giáo chức”… [Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng ở Việt Nam , tr.18]. Như vậy, theo cách lý giải của tác giả cho ta
thấy, giữa tín ngưỡng và tôn giáo là hai khái niệm khác biệt. Khi nói tới tín
ngưỡng, người ta nghĩ đến niềm tin vào “cái thiêng”, tin vào một sức mạnh
siêu nhiên nào đó không cần một sự ràng buộc nào về nghi lễ hay tổ chức,
người ta có thể tin hoặc có thể từ bỏ nó bất cứ lúc nào. Còn tôn giáo, đó
cũng là niềm tin vào “cái thiêng”, nhưng thực hiện niềm tin đó có hệ thống,
có tổ chức, có sự ràng buộc cả về tinh thần và vật chất. Nhưng sự ràng buộc
về vật chất là sự tự nguyện (tự nguyên bị mê hoặc). Thống nhất với những
quan điểm kể trên, tác giả Nguyễn Đức Lữ chủ biên trong cuốn Góp phần
tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam] cũng chỉ ra rằng “tín ngưỡng là chỉ niềm tin và sự
ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng, một học
thuyết nào đó, mà thông thường, được chỉ là một niềm tin tôn giáo”[Góp
phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, tr.186] và “Tín ngưỡng theo

nghĩa rộng, bao hàm trong nó có tôn giáo, còn theo nghĩa hẹp (đức tin) là
một bộ phận cấu thành tôn giáo ”[Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam, tr.186]. Đứng trên góc độ thế giới quan mác xít, trong cuốn
Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt
ở Đồng bằng Bắc Bộ [Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ ] của tác giả Trần Đăng Sinh đã
đưa ra điểm tương đồng và khác biệt khi so sánh tín ngưỡng với tôn giáo.
Điểm tương đồng giữa tín ngưỡng và tôn giáo đó là “niềm tin vào cái siêu
12


thực, đấng thiêng liêng là hạt nhân của tín ngưỡng và tôn giáo. Tín ngưỡng
và tôn giáo đều có chức năng đền bù hư ảo nỗi khổ đau hiện thực của con
người” [Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của
người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ , tr.28]. Điểm khác biệt ở chỗ, “tín ngưỡng
có kết cấu đơn giản, nó hình thành và tồn tại dựa trên cơ sở niềm tin vào các
phép lạ, đấng siêu nhiên, vào thế giới vô hình như thần linh, tổ tiên, âm ty,
địa ngục, ma, quỷ…” [Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ , tr.30], còn “tôn giáo thì có kết
cấu phức tạp với các yếu tố thế giới quan, nhân sinh quan, ý thức, tâm lý,
tình cảm, niềm tin, đức tin…” [Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ , tr.30].
Bên cạnh đó, khi bàn về tín ngưỡng, tôn giáo hầu hết các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học có danh tiếng đều đề cập tới việc phân biệt
giữa tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan. Tuy nhiên có nhiều
ý kiến trái chiều nhau song phần lớn đều thống nhất cho rằng giữa chúng có
sự khác biệt. Chẳng hạn như trong công trình Những khía cạnh triết học
trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ
[Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người
Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ ] của tác giả Trần Đăng Sinh chỉ rõ “nếu tín

ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng mộ của chủ thể vào lực lượng siêu nhiên…”
thì “mê tín chỉ là niềm tin mù quáng, mê muội vào những cái thần bí…” và
“mê tín thường đối lập với lẽ phải, gây ra những hậu quả xấu đối với con
người và xã hội” [Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ , tr.31]. Còn, theo tác giả “mê tín
đến mức độ cuồng tín, mê muội, mất lý trí, suy đoán tùy tiện, tin vào những
điều quái dị, không có trong thực tế thì trở thành mê tín dị đoan” [Những
khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt ở
Đồng bằng Bắc Bộ , tr.31]. Và vì thế ta có thể thấy rõ hơn khi phân biệt tín
ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan khi nghiên cứu công trình Góp phần tìm
13


hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam] của tác giả Nguyễn Đức Lữ làm chủ biên dẫn chứng “…lại
có người cho rằng tín ngưỡng hay tín ngưỡng tôn giáo cũng là mê tín, vì hai
loại đều chỉ một niềm tin không có thực trong xã hội. Vì thế trong tôn giáo
đều trong nó yếu tố mê tín. Vậy, đã là tín ngưỡng, tôn giáo là mê tín nhưng
bản chất của nó lại không phải là dị đoan” [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam, tr.182]. Do vậy, “tác giả đề nghị không nên chống mê
tín mà chỉ chống di đoan hoặc chống mê tín dị đoan, để chỉ một niềm tin đã
bị biến dạng, quái dị, xằng bậy” [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam, tr.183]. Theo tác giả, vì mê tín dị đoan “đã bước ra khỏi giới hạn
mà được xã hội thừa nhận, tức là niềm tin ở mức mê muội, đôi khi phi nhân
tính, phản văn hóa gây nên những hậu quả tiêu cực cho xã hội và cho chính
những người có hành vi đó” [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt
Nam, tr.187]. Với cách lý giải của tác giả, có thể hiểu rằng: giữa tín ngưỡng,
tôn giáo và mê tín dị đoan có điểm tương đồng và khác biệt. Chính cái khác
biệt đó là sự biểu hiện của những kẻ đã lợi dụng niềm tin tín ngưỡng, tôn
giáo để cầu lợi cá nhân nên khi chúng ta cần chống lại dị đoan hoặc mê tín

dị đoan. Vì bản chất của tín ngưỡng, tôn giáo đều hướng thiên, hướng con
người đến bến bờ chân – thiện – mỹ. Nó chỉ trở nên xấu đi khi nó bị những
kẻ xấu lợi dụng, biến nó thành hoạt động mê tín, dị đoan trong xã hội.
- Thứ ba, những công trình tiêu biểu nghiên cứu, bàn về cách thức phân
loại tín ngưỡng.
Khi bàn tới vấn đề này cũng có rất nhiều các tác giả quan tâm nghiên
cứu. Tuy nhiên dưới các góc độ tiếp cận khác nhau nên cách thức phân loại
cũng có sự khác biệt. Song, về cơ bản vẫn chỉ rõ cơ sở để phân biệt các hình
thức tín ngưỡng chủ yếu. Cụ thể như sau: Trong công trình Nếp cũ tín
ngưỡng Việt Nam [Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam ] của tác giả Toan Ánh, khi
đề cập tới vấn đề về các hình thức tín ngưỡng, tác giả chỉ ra và mô tả rất chi
tiết, cặn kẽ về các hình thức tín ngưỡng của người dân và chia ra các loại
14


hình chủ yếu sau: Thờ phụng Tổ tiên, thờ các vị thần thánh linh thiêng: Thờ
thần linh, thờ Thổ công, Thần tài, Tiên sư, Thánh sư, Nghệ sư;… Cách phân
chia như vậy cho ta thấy tác giả đã dựa trên đặc trưng của đối tượng sùng
bái để phân chia các loại hình tín ngưỡng. Song nó vẫn chưa thực sự bao
quát hết được các linh vực tín ngưỡng của người dân. Trong công trình Tiếp
cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam [Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam ]
của tác giả Nguyễn Minh San lại phân chia tín ngưỡng thành ba loại chủ yếu
đó là: “Tín ngưỡng phồn thực ;Tín ngưỡng sùng bái con người; Tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên. Với cách phân chia như vậy cho ta thấy, tác giả đã dựa
trên việc phân loại tín ngưỡng dựa trên phạm vi đối tượng sùng bái. Đó là
điểm khác biệt trong cách phân chia tín ngưỡng so với cách phân chia của
tác giả Toan Ánh. Còn trong tác phẩm Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở
Việt Nam [11] của tác giả Nguyễn Đăng Duy đã phân chia các loại hình tín
ngưỡng của Việt Nam thành ba nhóm cơ bản: “- Tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên; - Tín ngưỡng thờ Thần; - Tín ngưỡng thờ Mẫu”. Như vậy, về căn bản

cũng dựa trên đối tượng tín ngưỡng, song tác giả Nguyễn Đăng Duy còn
dựa trên phạm vi tác động rộng hay hẹp để phân loại tín ngưỡng. Bên cạnh
đó, dựa trên cơ sở hình thái học, trong cuốn Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng ở Việt Nam [84] của tác giả Ngô Đức Thịnh làm chủ biên đã phân
loại tín ngưỡng như sau: 1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (gia tộc, dòng họ,
quốc gia) tô tem giáo; 2. Tín ngưỡng cá nhân (vòng đời)…; 3. Tín ngưỡng
nghề nghiệp…; 4. Tín ngưỡng thờ Thần (đạo thờ Thần) [Tín ngưỡng và văn
hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, tr.20]. Như vậy, có thể thấy, tuy cách phân loại
tín ngưỡng khác nhau do có sự khác nhau dưới góc độ tiếp cận. Nhưng khi
nghiên cứu những công trình đó đã giúp cho tác giả luận án có thêm dữ liệu
khi tiếp cận, phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ riêng.
* Nhóm những công trình tiêu biểu nghiên cứu về khái niệm tín
ngưỡng dân gian.
15


Trong cuốn Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam [Các hình
thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam] của tác giả Nguyễn Đăng Duy. Khi
bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian, khác với các nhà nghiên cứu khác,
tác giả Nguyễn Đăng Duy lại cho rằng “… ở Việt Nam từ xa xưa cho tới nay
không hề có cái gọi là tôn giáo mà chỉ có các hình thái tín ngưỡng: tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thần và tín ngưỡng thờ Mẫu”
[Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam , tr.24] và không thể gọi các
loại hình tín ngưỡng này là “tín ngưỡng dân gian” được; bởi “… vì không
hề có cái gọi là tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng bác học, tín ngưỡng quý tộc
mà chỉ có tín ngưỡng nói chung của cộng đồng người” [Các hình thái tín
ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam , tr.25]… Có thể thấy rằng, khi đã nói tới cái
gọi là “dân gian” nghĩa là nói tới tính phổ biến trong quần chúng nhân dân,
ra đời từ hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, gắn liền với sinh

hoạt vật chất của người dân mang tính dung dị, gần gũi mà sâu sắc. Điều
này cũng giống như văn học dân gian vậy, câu chữ dễ hiểu, cách hành văn
mộc mạc, dân dã, gần gũi mà vẫn mang được tính chất triết lý nhân sinh sâu
đậm. Vì lẽ đó, theo tác giả luận án không thể không có cái gọi là tín ngưỡng
dân gian.
Khác với quan điểm đã nêu trên, trong công trình Tín ngưỡng dân gian
ở Việt Nam [Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam] của tác giả Lê Như Hoa làm
chủ biên thừa nhận có cái gọi là tín ngưỡng dân gian và đã nêu lên khái
niệm về nó. Theo tác giả, tín ngưỡng dân gian có thể hiểu như sau “là hình
thái tôn giáo sơ khai, chúng được hình thành trên cơ sở những tâm cách
nguyên thủy (primitive mentality) để nhận thức hiện thực và tác động đến
hiện thực bằng các kĩ xảo (các biện pháp ma thuật) của thuyết hồn linh”
[Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, tr.23]. Có thể nhận thấy rằng, khi đã nói
đến tính dân gian của tín ngưỡng thì không thể có cái gọi là tín ngưỡng dân
gian là tôn giáo sơ khai được. Vì khi nói tới tôn giáo là nói tới những lễ
nghi, giáo lý, giáo luật, giáo hội, kể cả tôn giáo sơ khai, nguyên thủy thì
16


chúng đều có tất cả các yếu tố cấu thành đó. Còn tín ngưỡng dân gian, chỉ
đơn giản là một một loại hình tín ngưỡng ra đời và tồn tại cùng với hoạt
động thực tiễn của người dân trong xã hội, nó được nảy sinh dựa trên sự
phản ánh của ý thức người trong quá trình lao động sản xuất, phản ánh sự
ngưỡng mộ, ngưỡng vọng và cả sự sợ hãi trước sức mạnh của những lực
lượng siêu nhiên, vô hình. Nó ăn sâu bén rễ trong lòng người dân, nó có tính
chất lây lan tự phát và không có tính ràng buộc chặt chẽ như tôn giáo. Bên
cạnh đó, trên cơ sở “thuyết hồn linh” của Tylor tác giả chỉ ra “Thuyết hồn
linh cơ sở của hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Việt” [Tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam, tr.24]. Căn cứ trên thực tiễn và căn cứ vào cách lý giải
của tác giả cho thấy, ở nước ta, “bằng thuyết hồn linh, chúng ta có thể “giải

mã” được vô số các hiện tượng Folklor của các tộc người khác nhau” và tác
giả đã chỉ ra một số hiện tượng như xây tượng nhà mồ ở Tây Nguyên, tục
thờ cúng Tổ tiên… Luận điểm này cung cấp cho tác giả luận án có được
cách nhìn sâu sắc hơn để có thêm cơ sở lý giải nguồn gốc cho việc hình
thành tín ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Xem xét dưới góc độ văn hóa học, trong cuốn Góp phần tìm hiểu tín
ngưỡng dân gian ở Việt Nam [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam] của tác giả Nguyễn Đức Lữ làm chủ biên. Khi bàn về khái niệm
tín ngưỡng dân gian, tác giả cho rằng, tín ngưỡng dân gian “là một nhân tố
cấu thành văn hóa” [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam,
tr.8] và “cần được xem như là một yếu tố, một bộ phận của văn hóa dân
gian” [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, tr.8]. Tác giả
khẳng định tín ngưỡng dân gian “cũng có thể xem là loại hình tín ngưỡng,
tôn giáo do chính nhân dân – trước hết là nhân dân lao động – sáng tạo ra
trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm tính
từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình” [Góp phần tìm hiểu tín
ngưỡng dân gian ở Việt Nam, tr.8]. Để lý giải cho khẳng định này, tác giả
chỉ rõ sự tương đồng giữa tôn giáo và tín ngưỡng dân gian như “Nhiều tôn
17


giáo và tín ngưỡng dân gian cũng dùng lửa, hương… làm vật xúc tác cho
mối quan hệ giữa tin và đối tượng tin; cũng dùng trang phục phù hợp với
đối tượng tin; cũng có sự kiêng kị giới tính trước ngày lễ, cũng tự xác định
cho mình một tâm thế khác ngày thường, khi thực hiện hành vi cũng bộc lộ
niềm tin trước đối tượng tin…” [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam, tr.10]. Thực tế cho thấy mọi loại hình tín ngưỡng dân gian chưa
hẳn đã là tôn giáo. Vì khi đã nói đến tôn giáo tức nói đến một tổ chức xã hội
có giáo chủ, giáo lý, giáo luật hết sức chặt chẽ và có tổ chức nghiêm ngặt.
Còn tín ngưỡng dân gian, dù có được sáng tạo ra cho dù là người dân lao

động hay tầng lớp xã hội nào đó cũng chỉ là những sinh hoạt văn hóa tinh
thần của cộng đồng người có thể tin theo hoặc không hoặc tin nhưng từ bỏ.
Và nó phản ánh những nhận thức về tự nhiên, con người và các mối quan hệ
của con người với tự nhiên, xã hội một cách lệch lạc, cảm tính, được lý giải
bằng những câu chuyện thần thoại, những điển tích, điển cố… mang tính
chất là những dạng nhận thức sơ khai của con người về thế giới. Còn cách
mà tác giả dẫn chứng, đó chỉ là những biểu hiện của niềm tin, mà niềm tin
của cả hai loại hình này giống nhau là đều có niềm tin mãnh liệt vào đối
tượng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy sự hiện hữu của nó. Còn sự khác biệt
giữa tín ngưỡng dân gian và tôn giáo không phải ở niềm tin mà ở các khía
cạnh khác.
Ngoài những công trình nghiên cứu tín ngưỡng dân gian được xuất bản
dưới dạng sách thì cũng có một số công trình nghiên cứu tín ngưỡng dân
gian dưới dạng các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành như:
Nguyễn Quốc Phẩm (1998) “Góp phần bàn về tín ngưỡng dân gian và mê
tín dị đoan”, Tạp chí văn hóa nghệ thuật số 11; Nguyễn Đăng Duy (2000),
“Cần đính chính lại cách gọi tín ngưỡng dân gian”, Tạp chí Nghiên cứu tôn
giáo số 1; Hồng Nhuệ (2003), “Tản mạn về tín ngưỡng dân gian”, Tạp chí
Nghiên cứu tôn giáo số 2; Nguyễn Tri Nguyên (2004) “Bản chất và đặc
trưng của tín ngưỡng dân gian”, Tạp chí di sản và văn hóa số 7; Hồ Bá
18


Thâm (2005), “Tín ngưỡng dân gian – một lĩnh vực trong đời sống tâm
linh”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4; Đặng Nghiêm Vạn (2007), “Tôn
giáo hay tín ngưỡng”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 1;…
1.1.2. Những công trình tiêu biểu nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian
vùng đồng bằng Bắc Bộ
* Những công trình tiêu biểu nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến
sự hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ

Tính cho đến thời điểm hiện tại, qua sự khảo sát của tác giả luận án
chưa có bất cứ công trình khoa học độc lập nào chuyên nghiên cứu về tín
ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhìn chung, những nghiên cứu
về tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được đan
xen trong các nghiên cứu về tín ngưỡng, văn hóa tín ngưỡng, tín ngưỡng
dân gian cả nước nói chung. Do vậy, khi tổng quan các công trình nghiên
cứu đề cập tới các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của tín ngưỡng dân gian
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, tác giả luận án lấy dữ liệu dựa trên
các công trình nghiên cứu chung về tín ngưỡng dân gian. Từ đó bóc tách các
nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Có thể kể đến
các công trình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời, tồn tại của tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ như sau:
Trước hết, đó là các công trình nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng của các
yếu tố thuộc về địa lý - tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và lịch sử cho sự
ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian
vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Có thể kể đến các công trình như sau:
Công trình “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” của tác giả Lê Như Hoa.
Trong công trình này, tác giả chỉ rõ nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng
qua việc phân tích điều kiện địa lý, lịch sử và phương thức sản xuất đã tác
động mạnh mẽ và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của các hình
thái tín ngưỡng dân gian của người Việt. Chẳng hạn như, về nguồn gốc nhận
thức, tác giả chỉ rõ: “Ở thời kì sơ khai, khi mà cuộc sống con người rất gần
19


gũi với vạn vật của tự nhiên, con người thường xuyên, trực tiếp phải đối mặt
với thiên nhiên; đời sống của họ lệ thuộc chủ yếu vào tự nhiên thì thiên
nhiên là đối tượng nhận thức chính của họ” [Tín ngưỡng dân gian Việt Nam,
tr.31] và “… bởi chính môi trường tự nhiên đã quy định môi trường nông
nghiệp (chăn nuôi hay trồng trọt); và do đó, nó đã định hướng ứng xử cho

các cư dân sống trong môi trường ấy; làm nảy sinh những tín ngưỡng đặc
thù của từng môi trường” [Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tr.31]. Về nguồn
gốc xã hội, tác giả chỉ rõ “… tính chất đặc thù của một bán đảo… nông
nghiệp ra đời… trồng lúa được đẩy lên vị trí đứng đầu của nền nông nghiệp
trồng trọt trên lãnh thổ Việt Nam… Đây chính là mầm mống dẫn tới những
nhận thức và những ứng xử, tức mầm mống của những tín ngưỡng…” [Tín
ngưỡng dân gian Việt Nam, tr.31;32] và “… tín ngưỡng của cư dân Việt
Nam, với tư cách là sự nhận thức được tập trung vào cây lúa và công việc
trồng lúa” [Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tr.34]. Quan điểm đó của tác giả
Lê Như Hoa đã chỉ ra điều kiện địa lý - tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến sự
hình thành tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian của người
Việt nói riêng.
Cùng chung quan điểm của tác giả Lê Duy Hoa, trong công trình “Tín
ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”[Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng ở Việt Nam”] của tác giả Ngô Đức Thịnh tuy không trực tiếp bàn về
các yếu tố ảnh hưởng đến sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói chung và
tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, song cũng đã có
những quan điểm thống nhất về các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn
hóa, lịch sử là xuất phát điểm cho sự ra đời và tồn tại của tín ngưỡng. Trong
công trình này, tác giả Ngô Đức Thịnh trình bày cụ thể từng loại tín ngưỡng
và cơ sở hình thành của nó. Qua công trình này cho tác giả luận án cái nhìn
sâu sắc, toàn diện hơn về nguồn gốc ra đời, cũng như cơ sở hình thành nên
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
20


Công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [Những khía cạnh triết học
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ]
của tác giả Trần Đăng Sinh. Có thể nói đây là một trong số ít công trình

chuyên nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ tiếp cận
dưới góc độ triết học. Trong công trình này, khi bàn về nguồn gốc, cơ sở
hình thành, tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên – là một trong các loại
hình sinh hoạt tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ, tác giả cho rằng đó là do chính phương thức sản xuất nông nghiệp
trồng lúa nước. Cùng với đó là yếu tố xã hội, kết cấu tổ chức làng - nước có
ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời của tín ngưỡng dân gian vùng đồng
bằng Bắc Bộ
Trong công trình “Đại cương lịch sử Triết học Việt Nam” [“Đại cương
lịch sử Triết học Việt Nam” ] của tác giả Nguyễn Hùng Hậu cũng chỉ rõ các
yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của tín ngưỡng dân gian nói chung, tín
ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Tác giả chỉ rõ xét về
mặt kinh tế “sở hữu chỉ tồn tại với tư cách là sở hữu tập thể về ruộng đất...
không có sở hữu tư nhân về ruộng đất và đó là tất cả các hiện tượng của
phương Đông, là chìa khóa để hiểu toàn bộ phương Đông” [“Đại cương
lịch sử Triết học Việt Nam, tr.43]. Đó chính là phương thức sản xuất Á châu
mà tác giả nhắc tới. Khi đi nghiên cứu phân tích phương thức sản xuất đó,
tác giả kết luận, đó chính là một trong những nguyên do cơ bản để hiểu, để
giải thích về sự ra đời của các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có
tín ngưỡng dân gian. Công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngướng thờ
Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [91] của tác giả Nguyễn Hữu
Thụ cũng bàn về cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu – là một trong những
sinh hoạt tín ngưỡng nổi bật của vùng. Tác giả chỉ rõ, sự ảnh hưởng của các
yếu tố địa lý – tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và lịch sử thúc đẩy sự ra
21


đời và tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu nằm trong tín ngưỡng dân gian của
vùng.
Tiếp theo, các công trình nghiên cứu chỉ ra sự ảnh hưởng của yếu tố

tôn giáo đến sự hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian trong đó có tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hầu hết các công
trình tác giả luận án lựa chọn để khảo sát đều chung một quan điểm là sự
ảnh hưởng mạnh mẽ của ba tôn giáo lớn đó là Phật Giáo, Nho giáo và Đạo
giáo đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian trong đó có tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Có thể kể đến một số các
công trình tiêu biểu như: công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở
Việt Nam” [Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam] của Ngô Đức
Thịnh chỉ ra rằng các tín ngưỡng bản địa, nhất là tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên đều cởi mở “…tiếp thu ảnh hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng, nhất là Đạo
Khổng” [Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, tr.21], ngoài ra nó
còn chịu ảnh hưởng của cả các tôn giáo khác như Đạo giáo, Phật giáo [Tín
ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, tr.33]. Bên cạnh đó, tác giả còn
khẳng định “… vai trò của đạo hiếu - một trong những tư tưởng cốt lõi nhất
của Nho giáo trong việc xây dựng hệ nguyên lý cho việc thờ cúng tổ tiên”,
và như vậy “…học thuyết Nho giáo (nội dung) và Đạo giáo (nghi thưc)”
[Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, tr.59]. Cùng quan điểm nêu
trên, trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Đức Lữ khẳng định, khi có sự du nhập của các tôn giáo
ngoại lai như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đã có ảnh hưởng lớn đến sự tồn
tại của tín ngưỡng dân gian nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: “…khi Nho
giáo vào Việt Nam, với tư tưởng đề cao gia đình, dòng tộc, biến nước thành
Nhà, xem chữ hiếu là nền tảng đạo lý… thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được
nâng lên một tầm cao mới” Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt
Nam, tr.81]. Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đức Lữ thì tín ngưỡng,
trong đó tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc cũng chịu ảnh hưởng của các tôn
22


giáo như Phật giáo, Lão giáo. Trong đó, theo tác giả “các hội đền mang dáng

dấp nghi lễ của Nho giáo đồng thời cũng có dấu hiệu của Phật giáo ở hội
chùa” [Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tr.102]. Sự ảnh
hưởng của các tôn giáo đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói
chung trong đó có tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ được công
trình “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” [11] của Nguyễn
Đăng Duy phân tích và khẳng định sự giao lưu tiếp biến giữa các tôn giáo
và tín ngưỡng dân gian là khách quan trong quá trình tồn tại. Do có sự ảnh
hưởng của các tôn giáo dẫn đến các nghi lễ, nội dung tín ngưỡng dân gian
được đầy đủ hơn, được nâng lên một tầm cao mới. Dưới góc độ triết học
nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tôn giáo đến sự tồn tại của tín ngưỡng dân
gian phải kể đến công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [67] của Trần
Đăng Sinh. Qua những nghiên cứu của mình, tác giả khẳng định “các tín
ngưỡng, tôn giáo ngoại nhập, trong đó đặc biệt là tam giáo có vai trò to lớn
trong sự hình thành và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ” [Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ
cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, tr.96].
Ngoài những công trình vừa nêu trên, còn có thể kể đến các công trình
khác như: “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Thêm; Công
trình “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Đăng Duy; công trình “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” của Lê Như Hoa;
công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), công trình “Khía cạnh triết học trong tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” của Nguyễn Hữu
Thụ; Công trình “Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Văn Minh... và nhiều công trình khác có đề cập, nghiên cứu đến cơ
sở hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói chung trong đó có tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hầu hết trong số
23



các công trình được khảo sát ít có các công trình nghiên cứu khái quát về sự
ảnh hưởng của tôn giáo đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian trong
đó có tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nghiên, từ việc
nghiên cứu các quan điểm về sự ảnh hưởng của các tôn giáo đến các loại
hình tín ngưỡng cụ thể là cơ sở cho tác giả luận án có cơ sở dữ liệu khoa học
phụ vụ cho quá trình nghiên cứu vấn đề đặt ra trong luận án.
* Những công trình tiêu biểu nghiên cứu về các yếu tố triết học trong
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Qua khảo sát của tác giả luận án, tính đến thời điểm hiện tại, số lượng
các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian dưới góc độ triết học là
rất ít. Điển hình trong số đó là công trình của tác giả Trần Đăng Sinh và tác
giả Nguyễn Hữu Thụ. Song, qua khảo sát, tác giả luận án nhận thấy, các yếu
tố triết học trong tín ngưỡng dân gian nằm rải rác trong các công trình
nghiên cứu chung dưới các góc độ tiếp cận khác nhau. Cụ thể như sau:
* Những công trình tiêu biểu nghiên cứu những yếu tố triết học về tự
nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trước hết, nghiên cứu dưới góc độ triết học có các công trình:
Công trình Những khía cạnh Triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay [67] của tác giả Trần
Đăng Sinh. Khi bàn về khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên, tác giả đã chỉ rõ những khía cạnh triết học đó là những “quan niệm về
vũ trụ trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc
Bộ” [Những khía cạnh Triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của
người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay , tr.96]. Cụ thể trong quan niệm về
vũ trụ trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên đó là những quan niệm về không
gian, thời gian – tức những phương thức tồn tại của vật chất. Không gian
trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên theo tác giả đó là “Không gian trong tâm
linh người Việt mang tính đa diện, đa chiều”, không chỉ có “tám phương
trời” mà còn có “mười phương đất”, “Trời bao giờ cũng gắn liền với đất, âm

24


với dương, cao với thấp, đực với cái, nắng với mưa” [Những khía cạnh Triết
học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ
hiện nay , tr.110]. Tác giả còn chỉ rõ “không gian trong tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt còn được thể hiện rõ nét trong việc xác định không
gian thờ cúng” [Những khía cạnh Triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay , tr.110]. Tác giả kết luận
quan niệm về không gian “ít nhiều mang tính tự nhiên, chất phác, song nhìn
chung là thần bí và duy tâm, thể hiện sự nhận thức của chủ nhân nền kinh tế
nông nghiệp kém phát triển” [Những khía cạnh Triết học trong tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay , tr.110]. Còn
quan niệm về thời gian, tác giả khẳng định “Việc thờ cúng tổ tiên tại gia
đình tiến hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm về đạo Hiếu của con cháu
đối với tổ tiên, lòng hiếu thảo của con cháu được biểu hiện khá tập trung ở
các ngày sóc, vọng hàng tháng và lễ tiết chung nhất hàng năm…” [Những
khía cạnh Triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt ở
Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay , tr.112], bên cạnh đó, trong tư duy của người
Việt theo tác giả họ quan niệm thời gian có ngày tốt, xấu, nên việc “chọn
ngày, giờ “xấu” ,“tốt” để tiến hành công việc thành thói quan trong nếp
nghĩ” [Những khía cạnh Triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của
người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay , tr.112]. Nếu chỉ phân tích khía
cạnh thời gian như vậy, phải chăng đó có phải là điều gượng ép cho quan
niệm về thời gian được biểu hiện trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay
không? Vì thời gian trong triết học là khái niệm gắn liền với hình thức tồn
tại của vật chất. Vậy, nếu quan niệm con người có phần xác và phần hồn tức
có không gian khác nhau, tồn tại ở hai thế giới với hệ quy chiếu về thời gian
khác nhau – tức có sự biến đổi của không gian và thời gian trong quan niệm
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên v.v..

Trong công trình Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ [91] của tác giả Nguyễn Hữu Thụ. Khi
25


×