Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Hình tượng tác giả trong hồi ký văn học việt nam sau 1985

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 173 trang )

;.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KIỀU THU HUYỀN

HÌNH TƢỢNG TÁC GIẢ
TRONG HỒI KÝ VĂN HỌC VIỆT NAM
SAU 1985
***

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KIỀU THU HUYỀN

HÌNH TƢỢNG TÁC GIẢ
TRONG HỒI KÝ VĂN HỌC VIỆT NAM
SAU 1985
***
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã ngành: 60 22 01 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Lý Hoài Thu
Chủ tịch hội đồng bảo vệ cấp ĐHQG: PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong luận án là trung thực, đảm bảo tính chính xác, khoa học. Các trích dẫn đều có
xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu khoa học của
mình.

Tác giả luận án


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đƣợc luận án này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu
sắc tới PGS.TS. Lý Hoài Thu - Ngƣời hƣớng dẫn khoa học tâm huyết đã tận tình chỉ
bảo, động viên khích lệ, dành nhiều thời gian trao đổi và định hƣớng cho tôi trong
quá trình thực hiện luận án.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu Trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Ban Chủ nhiệm cùng tất
cả các thầy cô giáo trong Khoa Văn học đã tạo điều kiện, giúp đỡ, chỉ bảo và chia sẻ
kinh nghiệm cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi tấm ân tình tới cơ quan, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình
tôi - những ngƣời đã theo sát và hỗ trợ tôi trong suốt thời gian qua. Đó chính là
nguồn động viên, cổ vũ giúp tôi có thêm động lực và sự cố gắng để hoàn thành luận
án này.


Tác giả luận án


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................... 3
2.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 4
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................. 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 5
6. Đóng góp mới của luận án ......................................................................... 6
7. Cấu trúc luận án........................................................................................ 6
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận chung về hình tƣợng tác giả và hồi ký ................ 8
1.1.1. Khái niệm tác giả và hình tƣợng tác giả. ................................................ 8
1.1.2. Khái niệm hồi ký và hồi ký văn học .................................................... 13
1.2. Những công trình, bài viết về hồi ký văn học Việt Nam sau 1985. ...... 20
1.2.1. Những công trình, bài báo nghiên cứu khái quát .................................. 20
1.2.2. Những công trình, bài báo nghiên cứu về từng tác giả, tác phẩm ......... 26
1.3. Hình tƣợng tác giả dƣới điểm nhìn chủ thể ......................................... 38
CHƢƠNG 2: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA HÌNH TƢỢNG TÁC GIẢ VÀ DIỆN MẠO
HỒI KÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1985 ........................................... 45
2.1. Các kiểu hình tƣợng tác giả trong văn học .......................................... 45
2.1.1. Một số loại hình tác giả ....................................................................... 45
2.1.2. Sự vận động của hình tƣợng tác giả ..................................................... 52
2.1.3. Sự giao thoa giữa hình tƣợng tác giả - ngƣời kể chuyện với ngƣời trần

thuật trong hồi ký văn học ............................................................................ 52
2.2. Diện mạo của hồi ký văn học Việt Nam ............................................... 57
2.2.1. Hồi ký văn học trƣớc 1985 .................................................................. 57
2.2.2. Hồi ký văn học từ sau 1985 đến nay .................................................... 62
CHƢƠNG 3: HÌNH TƢỢNG TÁC GIẢ - NHỮNG CHỦ THỂ GIAO TIẾP ..........
NGHỆ THUẬT TRONG HỒI KÝ VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1985 ................. 70
3.1. Chủ thể qua những chân dung văn học .............................................. 70


3.1.1. Chân dung tự họa ................................................................................ 70
3.1.2. Chân dung bè bạn một thời .................................................................. 78
3.2. Hình tƣợng tác giả nhƣ là những chủ thể giàu trải nghiệm ................ 88
3.2.1. Cái nhìn hiện thực qua những bức tranh đời sống sinh động ................ 88
3.2.2. Những suy ngẫm về thân phận con ngƣời ............................................ 96
3.3. Hình tƣợng tác giả nhƣ là chủ thể đối thoại, kết nối với quá khứ và
hiện tại ....................................................................................................... 103
3.3.1. Những câu chuyện của quá khứ mang đến lời giải đáp cho hiện tại ... 103
3.3.2. Tƣ tƣởng dân chủ và tinh thần đổi mới .............................................. 108
CHƢƠNG 4: HÌNH TƢỢNG TÁC GIẢ TRONG HỒI KÝ VĂN HỌC SAU 1985
NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT .................................................... 114
4.1. Không gian và thời gian nghệ thuật ................................................... 114
4.1.1. Không gian nghệ thuật ....................................................................... 114
4.1.2. Thời gian nghệ thuật .......................................................................... 123
4.2. Các phƣơng thức trần thuật ............................................................... 129
4.2.1. Điểm nhìn trần thuật .......................................................................... 130
4.2.2. Ngôn ngữ trần thuật ........................................................................... 134
4.2.2.1. Sự kết hợp giữa kể, tả và bộc lộ cảm xúc ........................................ 135
4.2.3. Giọng điệu trần thuật ......................................................................... 140
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 153



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1.

Cb

Chủ biên

2.

ĐHSP

Đại học Sƣ phạm

3.

ĐHKHXH&NV

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

4.

KHXH

Khoa học xã hội

5.


KLTN

Khóa luận tốt nghiệp

6.

Nxb

Nhà xuất bản

7.

LATS

Luận án Tiến sĩ

8.

LVThS

Luận văn Thạc sĩ

9.

tr.

Trang


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam từ 1975 đã có sự cách tân, phát triển ở nhiều bình diện.
Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự đa dạng hóa của đời sống văn học
giai đoạn này là sự vận động, đổi mới về mặt thể loại. Ở những giai đoạn trƣớc, từ
quan niệm của từng cộng đồng văn học, có những thể loại đƣợc xem là trụ cột,
trung tâm (tiểu thuyết, thơ), cũng có những thể loại chỉ nằm ở ngoại vi/cận văn học
(những thể tài phi hƣ cấu nhƣ: nhật ký, thƣ từ, tản văn, nhàn đàm,…). Từ sau đổi
mới (tức sau Đại hội VI, năm 1986), trong sự chuyển đổi tƣ duy nghệ thuật, “cái
nhìn thể loại” cũng có sự thay đổi. Tự thân sự vận động của từng thể loại, sự bình
đẳng thể loại ngày càng đậm rõ trong quan niệm, trong tâm thế tiếp nhận của công
chúng độc giả/cộng đồng văn học. Theo Bakhtin: “Không thể có tác phẩm nằm
ngoài thể loại. Tác phẩm chỉ tồn tại trong một hình thức thể loại cụ thể”. Theo ông,
“nhân vật chính yếu” của lịch sử văn học là thể loại; lịch sử văn học là lịch sử đấu
tranh giữa các thể loại, chứ không phải là lịch sử trào lƣu và trƣờng phái” [8, tr.2728]. Cho nên, khi bàn về văn học, M. Bakhtin bao giờ cũng dành cho vấn đề thể loại
một vị trí đặc biệt. Trong đời sống văn học, các thể loại luôn đƣợc đặt trong quan hệ
đồng đẳng về giá trị, song mỗi thể loại là sự thể hiện “một thái độ thẩm mỹ đối với
hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con ngƣời” [8, tr.3233]. Hồi ký là một trong những dạng thức đặc biệt trong diễn trình văn học Việt
Nam nói chung và giai đoạn sau đổi mới nói riêng. Đây là một tiểu thể loại nằm
trong thể loại ký. Một tiểu thể loại “trẻ” nhƣng chủ thể sáng tạo lại “già”. Họ là
những tác giả đã trải qua một hành trình sáng tác lâu dài, có tên tuổi và vị trí trên
văn đàn. Họ thậm chí đã thành công ở các thể loại văn học khác, nay lại “bén
duyên” với hồi ký.
Sự thúc đẩy thể hồi ký phát triển và nhu cầu nhận thức lại quá khứ trở nên
bức thiết; nhu cầu giãi bày của chủ thể sáng tạo; “cái tôi” cá nhân của tác giả trở
thành đối tƣợng phản ánh... Và chính tinh thần dân chủ hóa của đời sống xã hội, sự

1


giải thể chế độ bao cấp cũng nhƣ tƣ duy bao cấp mở đƣờng cho sự xuất bản một

cách rộng rãi của hồi ký đã tạo điều kiện để các nhà văn bộc lộ, giải tỏa những ẩn
ức, tái hiện những hiện thực bị bỏ quên hoặc khuất lấp. Nhu cầu tự thân của thể
loại, cùng với sự đa dạng hóa cũng nhƣ sự dung hợp thể loại đã tạo nên diện mạo
hồi ký phong phú, làm nên một mảng sinh động, mới mẻ trong đời sống văn học.
Hơn 30 năm sau đổi mới, có hàng loạt hồi ký của nhiều tầng lớp ngƣời trong xã hội
đƣợc xuất bản, trong số đó, hồi ký của các nhà văn chiếm một số lƣợng lớn. Nhiều
tác phẩm hồi ký ra đời gây xôn xao dƣ luận và trở thành hiện tƣợng văn học. Mỗi
thiên hồi ký là những bức tranh hiện thực của đất nƣớc trong mỗi giai đoạn. Nhiều
số phận, nhiều cảnh ngộ, nhiều vấn đề phức tạp của quá khứ đƣợc nhìn nhận lại từ
điểm nhìn hiện tại. Từ “cự ly gần”, chân dung tự họa của nhà văn (chủ thể hồi ký/
ngƣời kể chuyện) cũng nhƣ những chân dung đƣợc họa (nhân vật đƣợc khúc xạ qua
cái nhìn thẩm mỹ của thể loại) hiện ra cụ thể, rõ nét.
Trong lịch sử nghiên cứu về thể ký, đã có nhiều công trình đi sâu vào nghiên
cứu các tiểu loại nhƣ: tùy bút, bút ký, du ký, tạp văn, phóng sự văn học… thành
công. Tuy vậy, hồi ký vẫn chƣa thực sự đƣợc quan tâm đúng với vai trò, vị trí của
nó; chƣa đƣợc nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện dƣới nhiều góc độ. Khoảng
trống này, xuất phát từ hai nguyên nhân. Một là, trƣớc giai đoạn đổi mới, thành tựu
thể hồi ký không nhiều; số lƣợng tác giả tham gia thể hồi ký còn thƣa thớt, chƣa có
nhiều thành tựu về nội dung và hình thức thể loại. Hai là, quan niệm hồi ký là thể
loại ngoại biên văn học/ cận văn học vẫn còn chi phối một hƣớng phê bình nghiên
cứu. Chính lí do đó đã khiến hồi ký chƣa đƣợc các tác giả và nhà nghiên cứu quan
tâm đúng mức.
Nhìn từ đặc trƣng thể loại, về mặt lý thuyết, hồi ký nhằm thông tin sự thật,
đòi hỏi tính chân xác. Tuy vậy, tác phẩm hồi ký không chỉ chú ý đến việc chuyển tải
thông tin mà còn đề cao đến chất lƣợng nội dung và nghệ thuật để hấp dẫn ngƣời
đọc. Những tác phẩm hồi ký văn học từ sau 1985 ngoài việc cung cấp những lƣợng
thông tin phong phú, đa chiều, còn đáp ứng đƣợc những khoái cảm thẩm mỹ trong
tầm đón đợi của ngƣời đọc hiện đại. Sức hấp dẫn của những thiên hồi ký: Từ bến
2



sông Thương (1985), Hồi ký Song đôi (1986), Cát bụi chân ai (1990), Một thời để
mất (1994), Tiếng chim tu hú (1995), Chiều chiều (1997), Rừng xưa xanh lá (1999),
Nhớ lại một thời (2000), Rễ bèo chân sóng (2000), Hồi ký Quách Tấn (2003) , Bên
dòng chia cắt (2002), Tầm xuân (2005), Cô bé nhìn mưa (2008), Năm tháng nhọc
nhằn, năm tháng nhớ thương (2009)… là ở mỹ cảm nghệ thuật, ở nội dung đa dạng,
phong phú, hình thức thể hiện mới mẻ, và hơn hết là tấm lòng, trách nhiệm đối với
cõi ngƣời, cõi nghề của nhà văn. Với những cách tân đáng ghi nhận trong nghệ
thuật tự sự và thi pháp thể loại, hồi ký văn học sau 1985 là những văn bản đa thanh,
với các kết cấu lỏng; sự luân chuyển điểm nhìn trần thuật… Mặt khác, sự xâm nhập,
dung hợp các thể loại trong hồi ký tạo nên sự hấp dẫn và hứng khởi với cộng đồng
tiếp nhận, khơi gợi những định hƣớng tiếp cận dƣới góc nhìn khách quan, khoa học.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Hình tƣợng tác
giả trong hồi ký văn học Việt Nam sau năm 1985”, để thông qua chủ thể sáng tạo
nhƣ là một kiểu nhân vật đặc trƣng của thể loại, từ đó nhận diện những bƣớc vận
động, phát triển và khám phá tất cả những vấn đề liên quan thúc đẩy làm nên thành
tựu của một giai đoạn văn học.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Hồi ký sau 1985 có nhiều khởi sắc và làm nên sự khởi sắc đó, có sự đóng
góp của chủ thể sáng tác chính là hình tƣợng tác giả. Sự kết tinh tài năng, phong
cách của tác giả đƣợc biểu hiện thông qua hình tƣợng tác giả. Vì vậy, đối tƣợng
nghiên cứu của chúng tôi là những vấn đề liên quan đến hình tƣợng tác giả.
Chúng tôi tập trung cụ thể hóa những đặc điểm và cách biểu hiện của hình
tƣợng tác giả trong hồi ký văn học từ sau 1985 đến nay ở một số phƣơng diện: sự
khác nhau về hình tƣợng tác giả ở các thể loại văn học nói chung và ở thể hồi ký nói
riêng; sự vận động và di chuyển của hình tƣợng tác giả trong hồi ký văn học; những
đặc điểm cơ bản về tƣ duy và cái nhìn nghệ thuật của chủ thể sáng tạo…

3



2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là những tác phẩm hồi ký văn học đƣợc
xuất bản ở Việt Nam từ 1985. Do số lƣợng tác phẩm rất lớn nên chúng tôi chỉ tập
trung vào một số tác giả (Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Vũ Bão, Bùi Ngọc Tấn, Đặng
Thị Hạnh, Đặng Anh Đào, Anh Thơ, Tố Hữu…). Họ là những nhà văn, nhà thơ có
ảnh hƣởng lớn đến đời sống văn học và tác phẩm của họ có giá trị văn chƣơng,
thẩm mỹ cao.
3. Mục đích nghiên cứu
a. Mục đích của luận án là nghiên cứu hình tƣợng tác giả trong hồi ký văn
học Việt Nam từ sau 1985 nhằm làm nổi bật tƣ duy nghệ thuật của các tác giả hồi
ký giai đoạn này. Thông qua đó để chỉ ra đặc điểm của tƣ duy, cái nhìn nghệ thuật,
tài năng, phong cách và đóng góp của thể ký vào diễn trình của văn học thời kỳ đổi
mới và đƣơng đại.
b. Làm rõ sự phát triển của thể loại hồi ký, nhất là hồi ký sau 1985. Từ đó
cho thấy vai trò của hình tƣợng tác giả trong hồi ký từ các phƣơng diện: quan niệm
sáng tác, nhận thức về thể loại, các phƣơng thức biểu hiện.
c. Nhận diện đặc điểm, quá trình vận động và đánh giá vị trí, đóng góp của
thể loại hồi ký trong tiến trình phát triển của các thể loại trong văn học Việt Nam.
d. Phác họa, dự đoán xu hƣớng phát triển của hồi ký trong văn học Việt Nam
trong tƣơng lai, góp phần tƣ vấn cho việc định hƣớng sáng tác và tiếp nhận của độc
giả trong đời sống văn học đƣơng đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
a. Nhận diện một cách tổng thể một số vấn đề lý luận chung về hình tƣợng
tác giả và hồi ký; những công trình, bài viết nghiên cứu về hồi ký văn học Việt Nam
trƣớc và sau 1985.
b. Xây dựng, hoàn thiện công cụ là “hình tƣợng tác giả” cho thể loại hồi ký
để áp dụng vào nghiên cứu hồi ký văn học từ sau 1985 đến nay. Trình bày sơ lƣợc
về diễn tiến của thể loại hồi ký văn học trong khoảng hơn một thế kỉ của thời kì

hiện đại (tiến đến đƣơng đại) từ cái nhìn tổng thể và hệ thống trong mối liên hệ chặt
4


chẽ với bối cảnh thời đại và lịch sử văn học, trong đó tập trung vào giai đoạn từ sau
1985 đến nay.
c. Nghiên cứu các kiểu hình tƣợng tác giả trong hồi ký văn học Việt Nam sau
1985 đến nay qua các mã quan niệm chủ yếu mà cụ thể hơn là mã sự thật và mã
nghệ thuật để từ đó tìm ra quan niệm về công việc viết hồi ký là phản ánh sự thật
lịch sử, tính tƣơng đối của sự thật trong hồi ký, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời,
sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng thời đại đến việc viết hồi ký. Đồng thời cho thấy phong
cách sáng tác hồi ký của từng tác giả.
d. Nghiên cứu các phƣơng thức nghệ thuật để nhận diện đƣợc phong cách
của từng tác giả, đồng thời nhận diện sự dịch chuyển của hình tƣợng tác giả thông
qua không gian, thời gian nghệ thuật và các phƣơng thức trần thuật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu
chính sau đây:
-Phương pháp loại hình: Dùng phƣơng pháp loại hình để phân loại các thể
loại văn học, trên cơ sở đó khẳng định sự tồn tại và những đặc trƣng cơ bản của hồi
ký; để thấy hồi ký vừa tuân thủ quy luật phát triển nhƣ các thể loại khác dƣới tác
động của thời đại, vừa có tính độc lập tƣơng đối, phát triển theo quy luật nội tại và
mang những đặc trƣng riêng nhằm đƣa ra những đánh giá có tính khoa học về mặt
lý luận, tìm ra những vai giao tiếp trong các tác phẩm hồi ký và các phƣơng thức
biểu hiện để từ đó có cái nhìn riêng về hình tƣợng tác giả trong tiểu thể loại này.
-Phương pháp tiểu sử: Với việc chú trọng vào tiểu sử của ngƣời viết chúng
tôi có thể tìm ra cơ sở lí giải cho những quan điểm sáng tác, những hình tƣợng nghệ
thuật đặc biệt là hình tƣợng tác giả xuất hiện trong tác phẩm.
-Phương pháp so sánh: Đây là con đƣờng để chúng tôi tìm hiểu diện mạo,
đặc điểm, sự vận động và phát triển của hồi ký văn học ở các giai đoạn trƣớc so với

giai đoạn sau 1985 trên cơ sở so sánh, đối chiếu với hồi ký các giai đoạn trƣớc và
sau nó; hoặc so sánh với các thể loại khác, giữa các tác giả viết hồi ký văn học trong
cùng một giai đoạn để làm nổi bật vấn đề hình tƣợng tác giả.

5


-Phương pháp lịch sử - xã hội: Bằng cách sử dụng phƣơng pháp này, chúng
tôi có thể tìm ra những tác động của hoàn cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam thời kì đổi
mới dẫn đến những thay đổi trong quá trình phát triển tiểu thể loại hồi kí trong trục
nghiên cứu tiến trình văn học, hệ hình phát triển của thể loại để có cái nhìn xuyên
suốt về đặc điểm và đóng góp của hồi ký trong đời sống văn học và xã hội.
Ngoài ra, dƣới ảnh hƣởng của lý thuyết tự sự học, thi pháp học chúng tôi còn
vận dụng một số thao tác nhƣ: tổng hợp, thống kê, phân loại…
6. Đóng góp mới của luận án
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án mong muốn có đƣợc những đóng
góp chủ yếu sau:
Thứ nhất, từ việc hệ thống hóa những vấn đề cơ bản của lý thuyết hình tƣợng
tác giả và vận dụng nó vào việc nghiên cứu một thể loại văn học.
Thứ hai, thông qua cái hình tƣợng tác giả, chúng tôi đề cập đến những vấn đề
tạo nên dấu ấn, phong cách, tài năng của nhà văn.
Thứ ba, thông qua những hình tƣợng tác giả trong thể hồi ký để chúng tôi
khẳng định những cách tân trong việc làm mới lại khuôn khổ của thể loại cũ. Đặc
biệt là hồi ký đã góp thêm những thành tựu riêng vào bức tranh chung của văn học
Việt Nam thời kỳ đổi mới.
7. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận án gồm
4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chƣơng 2: Hình tượng tác giả và sự vận động của thể hồi ký trong văn học

Việt Nam từ sau 1985 đến nay
Chƣơng 3: Hình tượng tác giả - những chủ thể giao tiếp nghệ thuật trong
hồi ký văn học Việt Nam từ sau 1985 đến nay
Chƣơng 4: Hình tượng tác giả trong hồi ký văn học Việt Nam từ sau 1985
đến nay nhìn từ phương thức nghệ thuật.

6


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Hồi ký là tiểu thể loại chú trọng đến biến cố, sự kiện trong quá khứ mà ngƣời
kể đóng vai trò nhân chứng, là ngƣời tham dự trực tiếp hoặc chứng kiến sự việc đã
xảy ra. Cùng với tƣ tƣởng đổi mới trong nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị và xã
hội, sau năm 1985 trở đi cũng là thời kì nhìn nhận, định vị lại nhiều giá trị văn
chƣơng, văn hóa. Đặc biệt làn gió mới ấy đã phả vào đời sống văn chƣơng, cụ thể là
sự trở lại của những cây bút có tên tuổi. Và theo quan sát của chúng tôi, thời kỳ đầu,
phóng sự gần nhƣ ở vị trí thắng thế, ngƣời viết và ngƣời đọc quan tâm đến những
mặt trái của xã hội, quan tâm đến tính thời sự, những vấn đề bức xúc. Đặc biệt, họ
cần lời giải đáp cho những bức xúc thƣờng nhật. Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI,
hồi ký thay thế vị trí của phóng sự, lúc này ngƣời ta cần sự chiêm nghiệm, định vị,
đánh giá. Theo chúng tôi đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi
từ phóng sự ở thời kỳ đầu đổi mới sang hồi ký vào những năm cuối thế kỷ XX đầu
thế kỷ XXI. Điều đó cho thấy văn chƣơng luôn đáp ứng mối quan tâm, mang đến
lời đáp cho những câu hỏi lớn của cộng đồng tiếp nhận. Đó là lý do vì sao mà cuối
thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI hồi ký đƣợc quan tâm và thực sự thu hút ngƣời đọc. Cuối
những thập niên 90 của thế kỉ XX, trên văn đàn xuất hiện nhiều tác phẩm hồi ký của
văn nghệ sĩ mà trƣớc đó chỉ có rất ít. Nhiều số phận văn chƣơng, nhiều sự kiện văn
học quá khứ đƣợc tái dựng theo một cách nhìn mới, có sự nghiền ngẫm, có sự
chiêm nghiệm, thậm chí có sự đánh giá lại. Bên cạnh những cuốn hồi ký về đề tài

chiến tranh của các tƣớng lĩnh quân đội, còn có một mảng rất lớn đó chính là hồi ký
văn học do các nhà văn viết. Các tác phẩm này có tầm ảnh hƣởng tới đời sống xã
hội nói chung và đời sống văn chƣơng đƣơng đại nói riêng. Có thể kể đến là: Hồi ký
Đặng Thai Mai (1985) của Đặng Thai Mai, Trong mưa núi (1985) của Phan Tứ, Từ
bến sông Thương (1985) của Anh Thơ, Hồi ký Song đôi (1986) của Huy Cận,
Những năm tháng ấy (1987) của Vũ Ngọc Phan, Nửa đêm sực tỉnh (1989) của Lƣu
Trọng Lƣ, Nhớ nghĩ chiều hôm (1989) của Đào Duy Anh, Cát bụi chân ai (1990)

7


của Tô Hoài, Ba phút sự thật (1992) của Phùng Quán, Tiếng chim tu hú (1995) của
Anh Thơ, Chiều chiều (1997) của Tô Hoài, Hồi ký Nguyễn Hiến Lê (1993) của
Nguyễn Hiến Lê, Một thời để mất (1994), Rừng xưa xanh lá (1999) của Bùi Ngọc
Tấn, Bạn bè một thuở (1999) của Bùi Hiển, Nhớ lại một thời (2000) của Tố Hữu, Rễ
bèo chân sóng (2000) của Vũ Bão, Nhớ lại (2002) của Đào Xuân Quý, Bên dòng
chia cắt (2002) của Anh Thơ, Hồi ký Quách Tấn (2003) của Quách Tấn, Tầm xuân
(2005) của Đặng Anh Đào, Cô bé nhìn mưa (2008) của Đặng Thị Hạnh, Năm tháng
nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (2009) của Ma Văn Kháng...
Nhƣ một cách đi tìm thời gian đã mất, thể hồi ký có sức hấp dẫn riêng và đặc
biệt, không đơn giản chỉ là sự nhắc nhớ, hay những chiêm nghiệm rất riêng của nhà
văn. Hơn thế, hồi ký chính là cách nhìn lại, nhìn đúng, nhìn thẳng vào hiện tại bằng
cách xuyên qua quá khứ.
Sau năm 1985, hồi ký trở thành hiện tƣợng của văn học thời kì đổi mới và
đƣơng đại. Mang trọng trách kể lại một cách chân thực đời sống cá nhân, đời sống
lịch sử dân tộc, những giằng co của các nhà văn giữa tồn tại và sáng tạo, những bi
kịch của một thời kì văn học... Chính điều đó tạo sức hấp dẫn đặc biệt với ngƣời
viết và sự tò mò với bạn đọc.
Từ sau năm 2000, các tác phẩm hồi ký không còn xuất bản ồ ạt nhƣ trƣớc,
tuy vậy, với hiệu ứng từ một số hồi ký đƣợc phát tán trên mạng, những tranh luận

về thể hồi ký liên tiếp đƣợc xới lên trong đời sống văn chƣơng. Vài năm trở lại đây
từ 2016 - 2018, nhiều tác phẩm hồi ký viết về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
của các nhà văn đã ra mắt và có phản hồi rất tích cực từ phía độc giả. Trong đó phải
kể đến những cuốn sách nhƣ: Lang thang qua chiến tranh, Cơ nhỡ trong hòa bình
(Thanh Thảo), Mùa chinh chiến ấy (Đoàn Tuấn)...
1.1. Những vấn đề lý luận chung về hình tƣợng tác giả và hồi ký
1.1.1. Khái niệm tác giả và hình tƣợng tác giả.
1.1.1.1. Khái niệm tác giả văn học
Tác giả là một trong những khái niệm cơ bản đƣợc sử dụng nhiều nhất trong
lịch sử văn học và phê bình văn học.

8


Năm 1969, trong tiểu luận “Tác giả là gì?”, Michel Foucault đã cho rằng, tác
giả phải là “ngƣời phát biểu một tƣ tƣởng mới, quan niệm mới, cách hiểu mới về
các hiện tƣợng đời sống xã hội, bày tỏ một lập trƣờng xã hội và công dân nhất
định”. Điều đó cho thấy khi nói đến tác giả văn chƣơng, ngƣời ta thƣờng nghĩ đến
những ngƣời viết văn, những ngƣời tạo ra những tác phẩm văn chƣơng nghệ thuật
với tƣ cách cá nhân. Theo ông, tác giả chẳng qua là “một biện pháp dùng để ngăn
trở sự tự do hƣ cấu, tự do chi phối và cấu tạo lại tác phẩm mà thôi” [51].
Năm 1983, nhà nghiên cứu Đông Hoài trong cuốn Nhận thức và thẩm định
đã khẳng định: “Tác giả văn học phải có một kỹ năng miêu tả điêu luyện, một bút
pháp độc đáo lành nghề trong đó năng khiếu bẩm sinh là có thật, cần đƣợc kịp thời
phát hiện và không ngừng vun bồi bảo vệ” [66, tr.87].
Năm 1992, Từ điển thuật ngữ Văn học (Nxb Giáo dục) có đƣa ra khái niệm
tác giả văn học là “ngƣời xây dựng đƣợc một ngôn ngữ nghệ thuật mới, có phong
cách riêng, giọng điệu riêng, có bộ mặt riêng trong thể loại, có hệ thống hình ảnh
biểu tƣợng đặc trƣng riêng” [134, tr.242]. Với những cái riêng ấy, tác giả giữ vai trò
quan trọng trong việc sáng tạo tác phẩm.

Năm 1996, Lại Nguyên Ân trong bài “Loại hình tác giả văn học và vấn đề
phương pháp luận nghiên cứu” đã đặt ra và xem xét vấn đề tác giả văn học cụ thể
trên hai bình diện: “Ở bình diện xã hội học lịch sử: tác giả là một con ngƣời xã hội,
thuộc một giới, một nhóm xã hội nhất định, có vai trò xã hội - văn hóa nhất định
trong các giai đoạn lịch sử. Ở bình diện thẩm mỹ - nghệ thuật: tác giả - đó là những
dấu ấn văn hóa nhân cách hiện diện ở sáng tác” [6]. Ông cũng cho biết, giới học
thuật Nga, hình dung bình diện thẩm mỹ - nghệ thuật của phạm trù tác giả bằng
thuật ngữ “hình tƣợng tác giả”, hoặc “kiểu tác giả”.
Năm 1997, trong Từ điển thuật ngữ Văn học, nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đã đƣa ra định nghĩa về tác giả văn học: “Nhìn bề ngoài,
tác giả làm ra văn bản ngôn từ: bài thơ, bài văn, bài báo, tác phẩm văn học. Về thực
chất tác giả văn học làm ra cái mới, ngƣời sáng tạo ra các giá trị văn học mới. Sự

9


bắt buộc mô phỏng, theo đuôi thời thƣợng hoặc sáng tác không có bản sắc không
làm nên tác giả văn học đích thực” [56, tr.23].
Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu không chỉ đánh giá vai trò của tác giả văn học
ở mặt xã hội mà còn ở đặc thù nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là các tác giả văn học
ngoài việc thể hiện chính kiến riêng của mình về đời sống và thời cuộc, quan trọng
hơn hết, họ còn là ngƣời xây dựng thành công các hình tƣợng nghệ thuật độc đáo,
cái nhìn sinh động và mang lại sự hứng khởi cho cộng đồng tiếp nhận.
Cho đến nay, vấn đề tác giả vẫn còn đƣợc các nhà nghiên cứu văn học tiếp
tục khai thác trên nhiều bình diện loại hình, thể loại. Năm 1998, Trần Đình Sử
khẳng định: “Lý luận về tác phẩm và tác giả đang trong giai đoạn xây dựng và cho
đến nay chƣa có một lý luận có đầy đủ cơ sở về hai khái niệm này”. Bởi vì “Tác giả
là trung tâm tổ chức nội dung và hình thức cái nhìn nghệ thuật trong tác phẩm, là
ngƣời mang cảm quan thế giới đặc thù và là trung tâm tổ chức lại ngôn từ theo
nguyên tắc nghệ thuật. Do vậy, hình tƣợng tác giả, kiểu tác giả là những phạm trù

của thi pháp học hiện đại” [159, tr.125].
Vì lẽ trên, chúng tôi nghĩ rằng, việc tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến
thời đại, quá trình lao động và sáng tạo của nhà văn là cần thiết. Hoàn cảnh xuất
thân, quê quán, thời gian sống và hành trạng góp phần làm rõ các khía cạnh tƣ
tƣởng, tâm lý trong tác phẩm. Việc nghiên cứu vai trò của tác giả tạo điều kiện hơn
cho chúng tôi khi bàn về vấn đề hình tƣợng tác giả trong văn học nói chung và thể
hồi ký nói riêng.
1.1.1.2. Hình tượng tác giả trong văn học
Ở bất kỳ thể loại nào, tự sự, trữ tình hay kịch, chủ thể sáng tạo luôn xuất
hiện, dù có thể là đậm nhạt, trực tiếp hay gián tiếp. Với trí tƣởng tƣợng phong phú,
khả năng lựa chọn đề tài, chủ đề, sự vận dụng khéo léo các thủ pháp nghệ thuật, sự
linh hoạt trong sử dụng ngôn ngữ, ngƣời nghệ sĩ đã sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật
để thể hiện những tƣ tƣởng tình cảm của chính mình.
Hình tƣợng tác giả là một trong những yếu tố quyết định nên phong cách nhà
văn. Chúng ta biết rằng, hình tƣợng tác giả trong văn học là cái đƣợc biểu hiện

10


trong tác phẩm một cách đặc biệt, không giống với nhân vật. Vì vậy, nhà thơ Đức
I.W.Goethe đã nhận xét: “Mỗi nhà văn bất kể muốn hay không, đều miêu tả chính
mình trong tác phẩm của mình một cách đặc biệt. Có nghĩa là trong tác phẩm văn
học, cái tôi nghệ sĩ của nhà văn biểu hiện cảm nhận của mình về thế giới, cách suy
nghĩ, cách diễn đạt của mình. Cảm nhận đó quyết định cách thức tổ chức tác phẩm,
tạo thành sự thống nhất nội tại của tác phẩm, và đó cũng là sự thống nhất của tác
phẩm về mặt phong cách học” [159, tr.104].
Tác giả A.Chichêrin trong “Nhịp điệu của hình tƣợng” cho rằng: “Hình tƣợng
tác giả đƣợc sáng tạo ra nhƣ hình tƣợng nhân vật. Đây cũng là sự chân thật nghệ
thuật, không phải là chân lý của sự kiện, mà là chân lý của ý nghĩa, tƣ duy, nhƣ chân
lý của thi ca” [158, tr.107]. Nhƣ vậy, việc tìm hiểu hình tƣợng tác giả phải bắt nguồn

từ chính tác phẩm nghệ thuật ở cả hai mặt nội dung và hình thức biểu hiện.
M.Bakhtin hiểu vấn đề hình tƣợng tác giả có khác hơn. Ông không tán thành
gọi sự biểu hiện tác giả là hình tƣợng tác giả vì sợ lẫn lộn: “Không có hình tƣợng
tác giả ngoài tác phẩm, tƣ tƣởng nghệ thuật nhà văn chỉ tồn tại trong tác phẩm” [9,
tr.183]. Nhân vật thuộc một không gian thời gian, còn tác giả thuộc một không gian
thời gian khác, bao quát và cảm thụ không gian thời gian nhân vật. Tác giả nhập
vào rồi thoát ra khỏi không gian thời gian nhân vật. Nhƣ vậy, tác giả không chỉ hiện
diện tại hình thức tác phẩm nhƣ là một nguyên tắc thẩm mĩ tạo hình cho thế giới
nghệ thuật, mà còn hiện diện nhƣ một nhân vật với điểm nhìn, và những quan điểm
về con ngƣời và cuộc sống.
Năm 1986, nhóm tác giả Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà trong
cuốn Lý luận văn học đƣa ra quan điểm: “Tác phẩm là sự kết tinh quá trình tƣ duy
nghệ thuật của tác giả, biến những biểu tƣợng, ý nghĩ, cảm xúc bên trong của nhà
văn thành một sự thực văn hoá, xã hội khách quan cho mọi ngƣời soi ngắm, suy
nghĩ” [107, tr.241]. Dấu ấn của chủ thể sáng tạo để lại trong tác phẩm văn học thể
hiện rõ nét qua hình tƣợng tác giả.
Năm 1998, trong Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử đƣa ra
quan điểm hình tƣợng tác giả là một kiểu nhân vật, một hình tƣợng đƣợc sáng tạo ra
trong tác phẩm nhƣng theo một nguyên tắc khác: “Nếu hình tƣợng nhân vật xây
11


dựng theo nguyên tắc hƣ cấu, đƣợc miêu tả theo một quan niệm nghệ thuật về con
ngƣời và theo tính cách nhân vật, thì hình tƣợng tác giả đƣợc thể hiện theo nguyên
tắc tự biểu hiện sự cảm nhận và thái độ thẩm mĩ đối với thế giới nhân vật” [159,
tr.127].
Năm 2015, Cao Kim Lan trong cuốn Tác giả hàm ẩn trong tu từ học tiểu
thuyết đã chỉ ra lý thuyết của W.Booth trong công trình nổi tiếng Tu từ học tiểu
thuyết gọi hình tƣợng tác giả là “tác giả hàm ẩn”, xem đó là cái tôi thứ hai của tác
giả hiện diện trong tác phẩm. Tác giả tiến hành khảo sát việc cung cấp các sự kiện,

chi tiết, hình ảnh; kiến tạo các mối quan hệ trên cơ sở những quy chuẩn đƣợc thiết
lập; đƣa ra những lời bình luận hay khảo sát “sự im lặng của tác giả”; tìm hiểu
những chỉ dẫn hay sự bộc lộ thái độ đồng cảm, xác lập các nguyên tắc tạo nên tác
phẩm nghệ thuật và tu từ học của tiểu thuyết... Trên cơ sở sự phân tách thành ngƣời
kể chuyện không hiện diện (ẩn tàng, hàm ẩn) và ngƣời kể chuyện hiện diện (tƣờng
minh), tác giả đã cho chúng ta những hiểu biết đáng kể về từng kiểu loại ngƣời kể
chuyện, với các tác nhân có thể “gây chấn động” cho truyện kể [93, tr.153].
Ngoài ra, nhiều nhà lý luận hiện đại hiểu hình tƣợng tác giả là tác giả đƣợc
suy ra, là sản phẩm do ngƣời đọc phát hiện. Chẳng hạn, trong Truyện Kiều, Nguyễn
Du không tự miêu tả mình nhƣng độc giả đều có thể nhận ra gƣơng mặt, tâm hồn
của Nguyễn Du biểu hiện qua từng con chữ. Ta không trông thấy ông, nhƣng nhận
ra ông qua tiếng nói, tấm lòng, trí tuệ toát ra từ lời kể, lời nói và suy tƣ của nhân
vật. Ông than khóc cho những mảnh đời bất hạnh: “Đau đớn thay phận đàn bà, Lời
rằng bạc mệnh cũng là lời chung”; ông mỉa mai sự bất công không thay đổi: “Lạ gì
bỉ sắc tư phong/ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”; ông sung sƣớng vui
cùng đôi bạn trẻ khi họ phá rào vƣợt qua những tƣ tƣởng truyền thống để đến với
nhau: “Xắn tay mở khóa động đào/ Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai”. Mộng Liên
Đƣờng trong lời tựa Truyện Kiều đã nói đƣợc những lời khiến ta nhớ mãi: “Nếu
không có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì làm sao có
đƣợc bút lực ấy” [31, tr.8].

12


Vấn đề hình tƣợng tác giả đã đƣợc tiếp cận ở nhiều góc độ trong lý luận văn
học. Đó chính là sự biểu hiện của cái “tôi” thứ hai của tác giả một cách tổng hợp
qua cái nhìn, giọng điệu và sự tự thể hiện của nhà văn trong tác phẩm.
Điều quan trọng không phải chỉ là cái nhà văn muốn nói, mà còn là cách nhà
văn nói ra. Rõ ràng không có sự trùng khít hoàn toàn giữa đời thực của nhà văn với
hình tƣợng tác giả. Đúng nhƣ Bakhtin viết: “Bản thân lời nói chỉ có thể tồn tại trong

thực tế dƣới hình thức những phát ngôn cụ thể của những ngƣời nói riêng lẻ, những
chủ thể của lời nói ấy. Lời nói bao giờ cũng đƣợc khuôn vào hình thức phát ngôn
thuộc một chủ thể lời nói nào đó, bên ngoài hình thức phát ngôn ấy, nó không tồn
tại” [10, tr.23].
Cho đến nay, sự biểu hiện của hình tƣợng tác giả trong sáng tác văn học là
một vấn đề đã và đang đƣợc nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau. “Có ngƣời
xem hình tƣợng tác giả biểu hiện ở phƣơng diện ngôn ngữ, có ngƣời xem hình
tƣợng tác giả biểu hiện trên tất cả các yếu tố và cấp độ tác phẩm: từ cách quan sát,
cách suy nghĩ, thích cái gì, ghét cái gì trong lập trƣờng đời sống, đến giọng điệu lời
văn. Trong giọng điệu thì không chỉ giọng điệu ngƣời trần thuật mà cả trong giọng
điệu nhân vật” [159, tr.129].
1.1.2. Khái niệm hồi ký và hồi ký văn học
1.1.2.1. Khái niệm hồi ký
Giải thích khái niệm hồi ký, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã căn cứ vào
nhiều góc độ khác nhau. Có tác giả dựa vào nội hàm nghĩa của từ “hồi ký”, có
ngƣời dựa vào đặc trƣng thể loại, hoặc dựa vào cách kể chuyện của thể tài này để
nêu ra khái niệm. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu khá thống nhất ở điểm cơ bản:
hồi ký là tái hiện quá khứ gắn với ngƣời thật, việc thật, tác giả chính là ngƣời trong
cuộc hoặc chứng kiến...
Theo khảo sát của chúng tôi, về khái niệm hồi ký, các nhà nghiên cứu bàn
đến cụ thể nhƣ sau: Trong các loại từ điển, khái niệm hồi ký dựa theo hình thức
chiết tự từ Hán Việt: hồi là quay trở lại, ký là ghi chép những điều chứng kiến. Đây

13


là cách lý giải ngắn gọn, dễ hiểu cho số đông ngƣời đọc. Nhƣng khái niệm này thiếu
độ mở, đông cứng không phù hợp với tình hình phát triển của hồi ký hiện đại.
Năm 1992, Hoàng Phê trong Từ điển Tiếng Việt đƣa ra khái niệm: “Hồi ký là
thể văn ghi lại những điều còn nhớ sau khi đã trải qua, đã chứng kiến sự việc” [142,

tr.591]. Rất gần với ý kiến của Hoàng Phê, cũng năm 1992, nhóm tác giả trong Từ
điển thuật ngữ Văn học đã đƣa ra khái niệm: “Hồi ký là một thể loại thuộc loại hình
ký, kể lại những biến cố xảy ra trong quá khứ mà tác giả là ngƣời tham dự hoặc
chứng kiến” [134, tr.127].
Năm 1999, Nguyễn Văn Đạm trong Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng
Việt đƣa ra cách hiểu về hồi ký gắn với yếu tố thời đại: “Hồi ký là thể văn thuật lại
theo thứ tự thời gian những sự việc mà tác giả đã trải qua hoặc chứng kiến một phần
nào trong những mối quan hệ thời đại” [36, tr.386].
Trong thực tế, các tác phẩm hồi ký, đặc biệt là những tác phẩm hồi ký ra đời
vào những năm đầu thập niên của thế kỉ XIX, khá đa dạng về nghệ thuật tự sự, về
kết cấu. Nhiều tập hồi ký, ghi chép sự kiện ký ức, dòng hồi tƣởng không theo dòng
chảy thời gian tuyến tính, mà có sự đứt nối, chắp vá, đan xen giữa quá khứ và hiện
tại một cách rất linh hoạt.
Quan niệm hồi ký là một tiểu loại của ký, là thể tài văn học đƣợc thống nhất
trong hầu hết các công trình lý luận văn học. Cuốn Lí luận văn học (1996 - Hà Minh
Đức chủ biên) xác định: “Hồi ký ghi lại những diễn biến của câu chuyện và nhân
vật theo bƣớc đi của thời gian qua hồi tƣởng” [46, tr.285]. Lại Nguyên Ân trong
150 thuật ngữ văn học (1999) định nghĩa: Hồi ký là “một thể thuộc thể tài ký. Tác
phẩm hồi ký là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực
trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến” [6, tr.154]. Công trình Lí luận
văn học (2008 - Trần Đình Sử chủ biên) khi phân loại ký tự sự thành những tiểu
loại, các tác giả ghép chung nhật ký, hồi ký và xem hồi ký là “thể loại ghi chép các
sự kiện quá khứ đã trải qua do đƣơng sự thực hiện, cũng là một hình thức văn học
riêng tƣ, mình nói về mình, một dạng tự truyện của tác giả. Hồi ký cung cấp những
tƣ liệu của quá khứ mà đƣơng thời chƣa có điều kiện nói đƣợc” [161, tr.379-380].

14


1.1.2.2. Hồi ký văn học

Đặc trƣng của hồi ký là ghi chép lại những điều xảy ra trong quá khứ, tuy
nhiên, với hồi ký văn học, đó phải là những câu chuyện, những sự kiện, những nhân
vật, những chi tiết... điển hình, mang tính chất văn học do nhà văn sáng tạo nên.
Năm 2003, Lý luận văn học do Hà Minh Đức (chủ biên) khi đề cập đến hồi
ký văn học đã đánh giá cao vai trò của chủ thể: “Hồi ký văn học là chủ thể trần
thuật phải là ngƣời trong cuộc” [48, tr.436]. Điều đó có nghĩa, quá khứ càng xa thì
vai trò của ngƣời sáng tạo càng lớn. Họ không chỉ neo giữ phần sự thật của quá khứ
mà quá khứ còn đƣợc lọc qua lăng kính chủ quan của nhà văn khiến bạn đọc tin vào
những điều họ viết, họ nghĩ, họ chiêm nghiệm.
PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện cho rằng: Hồi ký văn học là một thể tài ký văn
học đƣợc các nhà văn sử dụng để ghi chép, tái hiện, trần thuật lại, kể lại từ ngôi thứ
nhất - ngôi tác giả với cái tôi của anh ta - một cách trung thực và chọn lọc những
việc đã xảy ra cùng những ngƣời có liên quan với tác giả, với nghề văn và đời sống
văn chƣơng trong quá khứ mà bản thân tác giả đã chứng kiến, cùng sống và tham
dự [185, tr.36].
Năm 2017, trong LATS Văn học “Hồi ký văn học (của nhà văn) trong văn
học Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể loại”, Lê Thị Lệ Thủy đã đƣa ra khái
niệm: “Hồi ký văn học đó là thể tài hồi ký do các nhà văn trực tiếp kể cuộc sống của
mình và các nhà văn khác ở thời quá khứ. Hồi ký văn học cung cấp cho bạn đọc
những tƣ liệu về đời tƣ của nhà văn, về bộ mặt tinh thần của xã hội ở một thời kỳ
nhất định về các lĩnh vực văn hóa, tƣ tƣởng. Đồng thời cung cấp những thông tin về
quá trình sáng tạo cũng nhƣ cuộc đời sự nghiệp của nhà văn, cá tính và phong cách
mỗi tác giả” [192, tr.31]. Đồng thời, căn cứ vào một số phƣơng diện chính nhƣ đề
tài, khuynh hƣớng cảm hứng, phƣơng thức thể hiện, Lê Thị Lệ Thủy phân loại hồi
ký văn học theo các dạng cơ bản sau: Hồi ký - tự truyện, hồi ký - chân dung, hồi ký
văn chƣơng hỗn hợp.
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi thấy rằng, nhiều nhà nghiên cứu chỉ dùng
khái niệm hồi ký thay vì dùng khái niệm cụ thể hồi ký văn học, song hầu hết đều

15



đánh giá cao tính văn chƣơng của hồi ký, vai trò của cái tôi, và sự đan xen giữa các
thể ký.
Bản thân thể hồi ký có đời sống riêng, vận động thay đổi ở từng chặng đƣờng
của lịch sử xã hội và văn học, khiến cho các khái niệm, quy ƣớc có tính quy phạm
không lý giải hết sự đa dạng của nó. Chính điều này, trong quá trình nghiên cứu hồi
ký mà cụ thể là hồi ký văn học, ranh giới giữa nó với các loại hình gần nó cần phải
xác định rõ ràng và căn cốt để thấy rõ bản chất, cái gốc, từ đó mới có thể soi chiếu, lý
giải về hồi ký, thể văn học luôn vận động, chuyển hóa không ngừng. Khác với ngƣời
viết sử, ngƣời viết hồi ký chỉ tiếp nhận ghi chép phần hiện thực mà tác giả nhìn rõ
hơn cả dựa trên những ấn tƣợng và hồi ức riêng trực tiếp của mình. Hơn nữa, bản
thân ngƣời viết hồi ký luôn đƣợc mô tả trình bày ở bình diện thứ nhất. Năm 1992, Từ
điển thuật ngữ Văn học, chỉ ra những lợi thế làm nên sức hấp dẫn của tiểu thể loại
này: “Hồi ký thƣờng khó tránh khỏi tính phiến diện và ít nhiều chủ quan về thông tin,
tính không đầy đủ của sự kiện, song sự không đầy đủ của nó do sự diễn đạt sinh động
trực tiếp của tác giả lại có giá trị nhƣ một tài liệu xác thực đáng tin cậy” [134, tr.127].
Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ Văn học (1999) mở rộng so sánh: “Có những tác
phẩm hồi ký rất gần với văn xuôi lịch sử; lại có những tác phẩm gần với tiểu
thuyết;… một dạng hồi ký viết về các nhà văn, nghệ sĩ, nhà hoạt động xã hội, gọi là
chân dung văn học” [6, tr.155]. Cũng đồng nhất điều này, nhóm tác giả trong Từ điển
Văn học (2004) (bộ mới) quan niệm: “Hồi ký gần nhật ký ở hình thức giãi bày, ở chỗ
không dùng thủ pháp cốt truyện, ở cách kể thƣờng theo thứ tự thời gian, ở việc chú ý
đến các sự kiện mang tính tiểu sử” [136, tr.646-647].
Về mối quan hệ giữa hồi ký với nhật ký, có thể khẳng định rằng, giữa hai thể
tài có đƣờng biên gần nhau ở hình thức giãi bày, ở việc không dùng các thủ pháp
cốt truyện và đều chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử. Song, nhật ký là dạng
trần thuật từ ngôi thứ nhất số ít dƣới hình thức những ghi chép sự kiện đang diễn ra
hàng ngày, có đánh số ngày tháng, không hƣ cấu; ghi lại các sự kiện đời tƣ đồng
thời bộc lộ những cảm xúc, suy tƣ của bản thân chứ không chủ đích viết cho công

chúng; trong khi hồi ký có thể bao gồm sự tái cấu trúc, sắp xếp sự kiện rời rạc

16


không liền mạch trong trí nhớ của tác giả. Hồi ký và nhật ký đều là những chuyện
đời tƣ, nhƣng hồi ký đƣợc viết theo chiều nghịch của thời gian, hƣớng về dĩ vãng
với cảm hứng hồi cố, còn nhật ký đƣợc viết theo chiều thuận, ghi lại những sự kiện
và cảm xúc hàng ngày. Hồi ký có tính tổng kết và lý giải còn nhật ký có tính thời sự
và thƣờng dang dở, ít khái quát, bởi thời gian sống và viết gần nhƣ đồng thời. Nếu
hồi ký viết ra nhằm giãi bày, thú nhận với ngƣời khác, thiên về hƣớng ngoại thì nhật
ký là lối viết thầm kín cho riêng mình, có tính riêng tƣ và hƣớng nội.
Về hồi ký và tự truyện, nội hàm hai khái niệm này rất gần nhau nhƣng không
hoàn toàn trùng khít. Trong Từ điển Văn học (2004) (bộ mới), Đỗ Đức Hiểu phân
biệt: “Hồi ký có thể chỉ ghi lại những sự kiện về một thời kỳ lịch sử, mà tác giả
không phải là nhân vật chính; còn tự truyện kể chuyện của cái “tôi” tác giả. Tự
truyện không phải một tập hợp những khái niệm tản mạn, mà đƣợc bố trí nhƣ một
truyện, một tiểu thuyết” [136, tr.1906]. Nhƣ vậy, giữa hồi ký và tự truyện đều đề
cập đến những gì thuộc về quá khứ. Cơ chế của ngƣời viết hồi ký và tự truyện đều
hƣớng về dĩ vãng, đều có cảm hứng tổng kết và lý giải, đều đƣợc viết ra cho ngƣời
khác đọc để bộc bạch cái tôi, chia sẻ kinh nghiệm cá nhân. Xét về bản chất, tự truyện
mang đặc trƣng của truyện, giàu tính miêu tả, chú ý đến nghệ thuật kể, còn hồi ký
mang đặc trƣng của ký, nặng về tính sự kiện, tính xác thực. Tự truyện xuất phát từ
nhu cầu lý giải bản thân nhiều hơn, từ nhu cầu đó để tập trung vào quá trình hình
thành nhân cách và lịch sử thế giới nội tâm của mình trong sự tƣơng tác với thế giới
bên ngoài, còn hồi ký chỉ xuất hiện khi ngƣời ta có cảm hứng hồi cố, có nhu cầu “trục
vớt” quá khứ để hiện diện trong hiện tại, thỏa mãn mong muốn xét lại lịch sử.
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi còn nhận thấy sự gần gũi giữa hồi ký và
tiểu thuyết tự thuật. Tiểu thuyết tự thuật là dạng tiểu thuyết sử dụng những “câu
chuyện cuộc đời” có thật để làm chất liệu sáng tạo nghệ thuật. Trong tiểu thuyết tự

thuật, ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” đồng nhất với tác giả, kể chuyện về đời mình, kể
cả chuyện riêng tƣ, trong đó có cả sự hƣ cấu về những câu chuyện liên quan đến đời
mình. Nhƣ vậy, đƣờng biên giữa tiểu thuyết tự thuật với hồi ký khá nhạt nhòa. Hồi
ức và sáng tạo, sự thật và hƣ cấu, cái riêng và cái chung luôn có nguy cơ lẫn vào
17


nhau, thâm nhập vào nhau ở hai thể loại này. Tuy nhiên, dựa vào những nét khu
biệt, ta vẫn nhận ra ranh giới giữa tiểu thuyết tự thuật và hồi ký. Tiểu thuyết tự thuật
tuy dựng lại cuộc đời của ngƣời đó, trong thời đại đó nhƣng đã đƣợc hƣ cấu hóa,
còn hồi ký là dựng lại gƣơng mặt quá khứ trong đó có cuộc đời của mình với những
chi tiết tiểu sử, đời tƣ, và không có sự hƣ cấu. Bản chất sự thật trong tiểu thuyết tự
thuật ở đây là cái giống, có khi là “phiên bản” của sự thật, tác giả là ngƣời không
chịu trách nhiệm về điều đó. Còn hồi ký, nếu có hƣ cấu thì đó cũng chỉ là cách để
chuyển tải sinh động cái sự thật. Sự khác biệt này chủ yếu là do chi phối của đặc
điểm thi pháp thể loại.
Nhìn chung, trong sự phát triển của hồi ký, bản thân tác phẩm hồi ký luôn có
sự xâm nhập, dung hợp các thể tài, thể loại khác. Chính sự giao thoa giữa các thể
loại, tác phẩm hồi ký càng đƣợc chắp thêm đôi cánh vƣơn ra những chân trời mới
trong việc tái hiện hiện thực. Đặc biệt, sau năm 1985 với sự cởi mở về đời sống xã
hội, đời sống tƣ tƣởng, sự tự do trong sáng tạo, các tác phẩm hồi ký bên cạnh việc
dung nạp gần gũi nhiều thể loại đã khẳng định đƣợc vị trí của chính nó trong đời
sống văn học. Tuy vậy, văn bản hồi ký dù có tính tự do (do tính chủ quan của hồi
ức) hoặc dẫu khó xác định đƣờng biên thể loại thì cũng không thể nằm ngoài khung
đặc trƣng thể loại.
Từ việc tham khảo những trƣờng nghĩa của khái niệm hồi ký, chúng tôi xin
đƣa ra cách hiểu của mình về hồi ký văn học và xem đây là cơ sở lý thuyết của luận
án. Hồi ký văn học là một tiểu thể văn tự sự đặc biệt thuộc thể loại ký, “là thiên trần
thuật từ ngôi tác giả” - các nhà văn viết lại những chuyện cũ bằng cái nhìn chân
thực, chủ quan mà họ đã tham dự hay chứng kiến, thậm chí có thể lấy chất liệu từ

chính cuộc đời mình. Họ không chỉ trình bày nguyên trạng bức tranh quá khứ mà
phả vào trong câu chuyện là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời, số phận của
mình và mọi ngƣời. Hồi ký văn học không chỉ đòi hỏi tính xác thực cao, mà còn
đƣợc viết với văn phong hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc.

18


×