Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Tài ôn thi học sinh giỏi văn kĩ NĂNG CHỌN và PHÂN TÍCH dẫn CHỨNG TRONG bài văn NGHỊ LUẬN văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.99 MB, 80 trang )

CHUYÊN ĐỀ

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG CHỌN VÀ PHÂN TÍCH DẪN
CHỨNG TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
CHO HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................. 2
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................3
1.Lý do chọn đề tài....................................................................................................3
2.Mục đích nghiên cứu..............................................................................................5
3.Phạm vi nghiên cứu................................................................................................7
4.Phương pháp nghiên cứu........................................................................................7
4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp...................................................................7
4.2. Phương pháp so sánh......................................................................................7
4.3. Phương pháp liên ngành.................................................................................7
4.4. Phương pháp mô hình hóa..............................................................................7
4.5. Phương pháp quan sát sư phạm......................................................................8
5.Kết cấu...................................................................................................................8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN................................................................................8
1.1. Văn nghị luận.....................................................................................................8
1.1.1.Khái quát về văn nghị luận...........................................................................8
1.1.1.1. Định nghĩa, phân loại............................................................................8
1.1.1.2. Đặc trưng của văn nghị luận.................................................................9
1.1.2.Sơ lược về nghị luận văn học......................................................................11
1.2. Dẫn chứng........................................................................................................12
1.2.1.Khái niệm dẫn chứng......................................................................................12
1.2.2.Dẫn chứng trong nghị luận văn học............................................................13


1.3. Phân tích dẫn chứng.........................................................................................15
1.3.1.Thao tác phân tích dẫn chứng.....................................................................15
1.3.2.Vai trò của việc phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học.......17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC ĐƯA DẪN CHỨNG TRONG BÀI VĂN
NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HIỆN NAY..............................................................................................................19
2.1. Chọn dẫn chứng chưa chính xác.......................................................................19
2.2. Chọn dẫn chứng chưa chọn lọc.........................................................................24
2.3. Sắp xếp dẫn chứng chưa theo trình tự hợp lý....................................................27
2.4. Thiếu phân tích dẫn chứng................................................................................30
2


CHƯƠNG 3: KĨ NĂNG CHỌN DẪN CHỨNG TRONG BÀI NGHỊ LUẬN VĂN
HỌC CHO HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN...............................................................34
3.1. Nguồn dẫn chứng.............................................................................................34
3.2. Chọn dẫn chứng chính xác, làm nổi bật vấn đề nghị luận.................................37
3.3. Chọn dẫn chứng tiêu biểu.................................................................................39
3.4. Số lượng dẫn chứng..........................................................................................43
CHƯƠNG 4: KĨ NĂNG PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG TRONG BÀI NGHỊ LUẬN
VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN.....................................................45
4.1. Kĩ năng phân tích dẫn chứng trữ tình...............................................................45
4.2. Kỹ năng phân tích dẫn chứng tự sự..................................................................52
4.3. Kĩ năng phân tích dẫn chứng kịch....................................................................59
CHƯƠNG 5: THỰC HÀNH CHỌN VÀ PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG TRONG
MỘT SỐ BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN
69
KẾT LUẬN.............................................................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................78


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn nghị luận là một thể loại có tính nghệ thuật và tính ứng dụng cao,
và có vai trò khá quan trọng trong đời sống. Văn nghị luận có những đặc
3


trưng cơ bản là lập luận chặt chẽ; lí lẽ sắc bén; dẫn chứng chính xác, chân
thực, giàu sức thuyết phục. Văn nghị luận giúp học sinh vận dụng tổng hợp
các tri thức văn học, tri thức xã hội và đời sống trong quá trình tạo lập văn
bản; rèn luyện kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt giúp HS vào việc
phát triển tư duy khoa học, tư duy lí luận và tư duy phản biện. Từ đó, giáo
viên thấy rõ được góc nhìn, những cách ứng xử của học sinh qua những tác
phẩm văn học cũng như các hiện tượng, vấn đề trong xã hội.
Trong nhà trường, văn nghị luận chiếm một vị trí quan trọng trong bộ
môn Ngữ Văn: Văn nghị luận là kiểu bài quan trọng trong tất cả các kì kiểm
tra, đánh giá năng lực của học sinh THPT nói chung và học sinh giỏi nói
riêng. Hầu hết, trong các đề thi chọn HS giỏi Ngữ văn hiện nay ở các cấp tỉnh,
khu vực, quốc gia đều có hai phần: nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Vì
thế, trong nhà trường phổ thông hiện nay, đặc biệt là ở các trường chuyên,
việc rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận là yêu cầu rất quan trọng trong quá
trình học tập bộ môn Ngữ văn.
Không dừng lại trong trường THPT, văn nghị luận còn chiếm một vị trí
đặc biệt trong đời sống. Các vấn đề từ các đề văn nghị luận xã hội đặt ra luôn
theo sát những vấn đề trong thực tế, những vấn đề đang xảy ra trong xã hội
hoặc những vấn đề về tư tưởng đạo lý – rèn những bài học, những trải
nghiệm, những kinh nghiệm sống cho học sinh. Nếu như nghị luận xã hội gắn
bó trực tiếp với đời sống thì nghị luận văn học lại gắn bó với đời sống nhưng
thông qua một phương thức thể hiện khác - qua hình tượng trong tác phẩm
văn học. Nghị luận văn học gắn bó thiết thực với đời sống thông qua những

chức năng: nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, giao tiếp, giải trí...Người đọc cần có
kiến thức, vốn sống nhất định nhìn nhận được sự gắn bó của một tác phẩm
văn học với đời sống. Khi tiếp nhận văn học đòi hỏi năng lực tiếp nhận của
người đọc, người nghe. Khi HS lĩnh hội được văn chương thì những tác phẩm
văn học chính là một phương tiện giúp học sinh phân tích, cảm nhận, đánh giá
con người, sự việc trong cuộc sống này. Văn nghị luận có vai trò quan trọng
4


như thế nhưng trong thực tế, học sinh vẫn chưa ý thức được vai trò của văn
nghị luận cũng như chưa thực hành viết tốt một bài nghị luận văn học.
Chính vì học sinh chưa có kĩ năng tốt trong khi tạo lập văn bản nghị
luận nên việc rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận đóng vai trò quan trọng để
cải thiện kĩ năng viết cho học sinh. Nhưng trong các công trình nghiên cứu
lâu nay, các nhà nghiên cứu vẫn thường chỉ tập trung vào các kĩ năng như:
phân tích đề, lập dàn ý; kĩ năng lập luận, trình bày lí lẽ; hoặc kĩ năng viết
đoạn văn nghị luận...tuy nhiên chưa chú ý nhiều đến kĩ năng chọn và phân
tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận nói chung và nghị luận văn học nói
riêng, đặc biệt là cho học sinh giỏi Ngữ văn – đối tượng luôn phải chịu sự đòi
hỏi khá cao về chất lượng của bài làm văn nghị luận.
Một bài văn nghị luận của người học sinh giỏi Ngữ văn bao giờ cũng
phải đảm bảo hai yêu cầu là: đúng và hay. Muốn vậy, học sinh giỏi phải vận
dụng thật tốt tất cả các kiến thức và kĩ năng khi làm bài. Bài văn nghị luận
cần tính thuyết phục rất cao, để tạo nên sự tin cậy đó cần có hệ thống dẫn
chứng phù hợp, làm sáng rõ các vấn đề nghị luận. Tuy nhiên, qua thực tế
giảng dạy ở trường phổ thông, chúng tôi nhận thấy phần lớn học sinh, dù là
học sinh chuyên Văn, học sinh giỏi Ngữ văn, vẫn còn gặp nhiều khó khăn
trong việc chọn và phân tích dẫn chứng trong quá trình tạo lập văn bản nghị
luận văn học. Chính vì những lí do trên mà chúng tôi quyết định chọn chuyên
đề: “KĨ NĂNG CHỌN VÀ PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG TRONG BÀI VĂN

NGHỊ LUẬN VĂN HỌC” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Thứ nhất, đối với học sinh giỏi Ngữ văn: Các nguồn tài liệu để học
sinh tham khảo về phân tích, bình giảng về các tác phẩm rất đa dạng,
phong phú, tuy nhiên tài liệu để tham khảo về phương pháp học văn, các kĩ
năng viết văn phần nào còn hạn chế. Đề tài này cung cấp cho học sinh khá
đầy đủ từ lý thuyết đến thực hành về kĩ năng chọn và phân tích dẫn chứng
trong văn nghị luận. Học sinh sẽ hiểu đúng về dẫn chứng, hiểu rõ lí thuyết
5


về kĩ năng chọn và phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận: vai trò, vị
trí từ đó có một “công cụ” đắc lực để dễ dàng thực hành chọn và phân tích
dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học một cách thuần thục. Từ việc
hiểu chính xác và có thể vận dụng thuần thục kĩ năng chọn và phân tích
dẫn chứng trong bài nghị luận văn học, HS sẽ tạo sẽ tạo độ rộng và độ sâu
trong bài nghị luận văn học, góp phần nâng cao chất lượng bài viết trong
các kì kiểm tra, đặc biệt là các kì thi tuyển chọn học sinh giỏi Ngữ văn
vòng tỉnh, olympic, quốc gia.
- Thứ hai, đối với người giáo viên: Chuyên đề là một cơ hội để các
thầy cô giáo nhìn lại, suy ngẫm về những kinh nghiệm của bản thân, là cơ
hội trao đổi với đồng nghiệp về chuyên môn, đặc biệt là phân môn làm văn
về kĩ năng chọn và phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học:
+ Chỉ ra sự cần thiết của việc đưa dẫn chứng trong bài văn nghị
luận văn học.
+ Kĩ năng chọn và phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận
văn học cho học sinh giỏi Ngữ văn.
+ Mô hình hóa các bước chọn và phân tích dẫn chứng trong bài
nghị luận văn học thành sơ đồ.
+ Vận dụng lý thuyết thành các bài thực hành mẫu về chọn và

phân tích dẫn chứng trong một số đề nghị luận văn học cho học
sinh giỏi Ngữ văn.
- Thứ ba, đối với sự nghiệp giảng dạy:
+ Đóng góp vào sự nghiệp phát triển về kĩ năng làm văn, bộ môn
phương pháp dạy học, chuyên đề là một tài liệu tham khảo cho
việc dạy và học môn Ngữ Văn ở nhà trường phổ thông.
+ Thông qua thực nghiệm những lớp dạy để đánh giá hiệu quả của
việc rèn kĩ năng đưa dẫn chứng trong văn nghị luận văn học cho
HS giỏi Ngữ văn, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn
Ngữ văn ở các trường chuyên nói riêng và các trường THPT nói
6


chung.
3. Phạm vi nghiên cứu
Văn nghị luận được chia làm hai loại: Nghị luận xã hội và Nghị luận văn
học. Chuyên đề này chỉ tập trung nghiên cứu kĩ năng đưa dẫn chứng trong bài
văn nghị luận văn học.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Chúng tôi sử dụng phương pháp này trong quá trình phân tích, tổng hợp cơ
sở lí luận và thực tiễn, phân tích số liệu - tổng hợp kết quả, đánh giá khả năng
chọn và phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận văn học của học sinh giỏi
Ngữ văn.
4.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp này được dùng để so sánh đối chiếu kết quả bài làm của học
sinh trước và sau khi được rèn luyện kĩ năng chọn và phân tích dẫn chứng
trong bài văn nghị luận. Từ đó, giúp người viết rút ra những nhận xét, đánh
giá về tính hiệu quả cũng như phạm vi áp dụng của chuyên đề.
4.3. Phương pháp liên ngành

Việc phân tích dẫn chứng trong văn nghị luận đòi hỏi học sinh không chỉ
nắm vững kiến thức văn học mà còn phải có những hiểu biết về các lĩnh vực:
lịch sử, chính trị, xã hội, văn hóa…Vì vậy, ngoài những phương pháp kể trên,
chúng tôi còn sử dụng phương pháp liên ngành để nghiên cứu và tổng hợp tài
liệu thuộc các ngành khoa học có liên quan, nhằm rèn luyện và củng cố kĩ
năng chọn và phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học của học
sinh.
4.4. Phương pháp mô hình hóa
Mô hình hóa là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình
giáo dục dựa vào mô hình của chúng là sự nghiên cứu gián tiếp đối tượng
giáo dục. Chúng tôi sử dụng phương pháp này để mô hình hóa các lý thuyết

7


thành một cấu trúc đơn giản dễ đưa vào thực tiễn sử dụng trong quá trình tạo
lập văn bản nghị luận văn học của học sinh.
4.5. Phương pháp quan sát sư phạm
Chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát sư phạm như một phương
pháp thu thập thông tin về thực tế giảng dạy, thực trạng việc đưa dẫn chứng
trong bài văn nghị luận của học sinh trung học phổ thông và những kinh
nghiệm trong suốt quá trình giảng dạy từ đó có thể khái quát rút ra những
điểm còn tồn tại và chỉ ra nguyên nhân, hướng khắc phục về việc đưa dẫn
chứng trong bài nghị luận văn học của học sinh.
5. Kết cấu
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Thực trạng việc đưa dẫn chứng trong bài văn nghị luận của
học sinh giỏi Ngữ văn trung học phổ thông hiện nay
Chương 3: Kĩ năng chọn dẫn chứng trong bài nghị luận văn học cho
học sinh giỏi Ngữ văn

Chương 4: Kĩ năng phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận văn học
cho học sinh giỏi Ngữ văn
Chương 5: Thực hành chọn và phân tích dẫn chứng trong một đề nghị
luận văn học cho học sinh giỏi Ngữ văn
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Văn nghị luận
1.1.1. Khái quát về văn nghị luận
1.1.1.1. Định nghĩa, phân loại
Văn nghị luận đã có từ lâu đời, đã có rất nhiều định nghĩa về văn nghị
luận. Trong giới hạn của chuyên đề, chúng tôi điểm qua một số cách định
nghĩa về văn nghị luận nói chung và nghị luận văn học nói riêng. Khái niệm
văn nghị luận cũng được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau:

8


-

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã định nghĩa trong công trình nghiên
cứu Muốn viết được bài văn hay: “văn nghị luận nói chung là dùng lí
lẽ, lập luận, bàn bạc làm sáng tỏ một vấn đề nào đó để thuyết phục
người đọc, người nghe. (Nguyễn Đăng Mạnh, 1998, tr.7)
- Phó Giáo sư Đỗ Ngọc Thống đã định nghĩa trong Tài liệu tham khảo
hướng dẫn giảng dạy Tập làm văn cấp 3 phổ thông: “Văn nghị luận là
một thể loại văn học dùng lí luận (bao gồm lí lẽ và dẫn chứng) để làm
sáng tỏ những vấn đề thuộc về chân lý cuộc sống nhằm làm cho người
đọc, người nghe thấu hiểu và tin vấn đề đó để họ có nhận thức đúng, có
thái độ đúng và có hành động đúng” (Nguyễn Lộc, 1980, tr.5)

-


Phó Giáo sư Đỗ Ngọc Thống định nghĩa trong Giáo trình Làm văn:
“Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn
chứng về một vấn đề nào đó và thông qua cách thức bàn luận mà làm
cho người đọc hiểu, tin và tán đồng những ý kiến của mình và hành
động theo những điều mà mình đề xuất. (Đỗ Ngọc Thống, 2007, tr.37)
Như vậy, khái niệm văn nghị luận nhìn chung là một loại văn mà

người viết đưa ra lí lẽ dẫn chứng, bàn bạc để làm sáng tỏ một vấn đề. Văn
nghị luận mang tính thuyết phục người nghe, người đọc theo quan điểm,
nhận định mà mình đề xuất.
Dẫn theo Phó Đỗ Ngọc Thống, chúng tôi thống nhất chia văn nghị luận
thành hai loại: Nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Trọng tâm của chuyên
đề sẽ nghiên cứu sâu về nghị luận văn học. Chúng tôi đưa ra khái niệm, đặc
điểm của văn bản nghị luận nói chung và nghị luận văn học nói riêng để làm
nền tảng cơ sở lí thuyết vững chắc để nghiên cứu sâu hơn trong bài nghị luận
văn học.
1.1.1.2. Đặc trưng của văn nghị luận
− Tính lập luận chặt chẽ: Văn nghị luận là đưa ra lí lẽ, lập luận, lập luận
cần có sự lôgic hệ thống và tính chặt chẽ. Chặt chẽ được hiểu trong hệ
thống lập luận: luận điểm, luận cứ, luận chứng phải thống nhất. Từng
9


yếu tố một trong lập luận không được mâu thuẫn với nhau, tất cả phải
phục vụ cho luận điểm để làm sáng tỏ vấn đề. Thêm nữa chặt chẽ còn
trong cách hành văn, văn nghị luận cần có sự cứng mềm nhất định như
một nghệ thuật lập luận để thuyết phục.
− Tính thuyết phục cao: Đây là một đặc trưng then chốt, một từ khóa
quan trọng của văn nghị luận. Trong bài văn nghị luận, cần có sự nhào

nặn ngôn từ, vận dụng tư duy và sắp xếp ý tưởng, dẫn chứng để tạo nên
bài văn nghị luận đạt tính thuyết phục cao.
− Tính trang trọng, công khai: Ngoài đặc trưng về tính chặt chẽ, tính
thuyết phục cao thì tính trang trọng, công khai là một đặc trưng không
thể thiếu của văn nghị luận. Chúng tôi điểm qua một số văn bản nghị
luận xưa: Bình Ngô đại cáo, Phú sông Bạch Đằng, Hịch tướng sĩ...
những áng văn ấy đã trở nên bất hủ trong dòng chảy văn học nói chung
và trong văn hóa của người Việt Nam nói riêng. Trong các văn bản ấy,
tính trang trọng, công khai được tạo nên bởi không khí thời đại và hoàn
cảnh tác phẩm ra đời và khoảnh khắc tác phẩm được đến với người đọc
vào những thời điểm thiêng liêng của dân tộc ta. Không dừng lại ở đó,
không chỉ có văn nghị luận xưa mới có được đặc trưng trang trọng và
công khai mà đến tận ngày hôm nay tính trang trọng và công khai là
một đặc trưng cần có khi viết văn nghị luận. Đặt chung với đặc trưng
tính chặt chẽ và tính thuyết phục cao, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng:
Nếu không công khai có đủ để thuyết phục? Thuyết phục đâu chỉ với
một người, một nhóm người mà là rất rất nhiều nguời. Chính vì thế cần
có một sự công khai nhất định trong văn nghị luận, công khai về dẫn
chứng, lập luận, lí lẽ…Để làm được tất cả điều đó người viết cần có
một sự trang trọng nhất định trong khi hành văn. Trang trọng trong thái
độ lập luận và thuyết phục, trang trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ để
nghị luận. Khi lập luận để thuyết phục cần có một thái độ lắng nghe và
trao đổi, không nên áp đặt suy nghĩ của mình lên suy nghĩ của người
10


nghe, người đọc. Khi hành văn cần sử dụng ngôn ngữ bác học, ngôn
ngữ viết tránh lối ngôn ngữ nói, không nên dùng khẩu ngữ, cần có sự
trau chuốt ngôn từ.
1.1.2. Sơ lược về nghị luận văn học

- Khái niệm: Nghị luận văn học là gì? Trong một số định nghĩa về văn
nghị luận, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã có một nhận định khá đầy đủ về
nghị luận nói chung và nghị luận văn học nói riêng: “Văn nghị luận nói chung
là dùng lí lẽ, lập luận, bàn bạc làm sáng tỏ một vấn đề nào đó để thuyết phục
người đọc, người nghe” (Nguyễn Đăng Mạnh, 1998, tr.7)
Đối tượng của bài văn nghị luận văn học phải là các vấn đề trong phạm vi
tác phẩm văn học như: tác phẩm, tác giả, trào lưu, xu hướng, giai đoạn văn
học, chức năng, nhiệm vụ của văn học...(Nguyễn Đăng Mạnh, 1998, tr.18)
“Đối tượng của nghị luận văn học là tất cả các vấn đề văn học có nghĩa là
rất phong phú và đa dạng.” (Nguyễn Đăng Mạnh, 1998, tr.21)
Như vậy nghị luận văn học là dùng lí lẽ, lập luận, bàn bạc làm sáng tỏ vấn
đề để thuyết phục người đọc, người nghe về một vấn đề trong văn học như:
tác phẩm, tác giả, trào lưu, xu hướng, giai đoạn văn học, chức năng, nhiệm vụ
của văn học.
- Phân loại: Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã chia nghị luận văn học thành
ba loại:
+ Loại yêu cầu hiểu và cảm thụ tác phẩm văn học
+ Loại yêu cầu nắm được một vấn đề văn học sử
+ Loại yêu cầu hiểu được một vấn đề lí luận văn học
Có thể nói cách chia nghị luận văn học thành 3 loại của giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh có một sự lý giải riêng. Trên cơ sở kế thừa quan điểm của giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh, cơ sở của khung chương trình của Bộ giáo dục đã phân
chia trong chương trình sách giáo khoa và theo kinh nghiệm giảng dạy, chúng
tôi chia các dạng bài nghị luận văn học như sau:
+ Nghị luận về một bài thơ hoặc đoạn thơ
11


+ Nghị luận về một tác phẩm hoặc đoạn trích văn xuôi
+ Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học

- Đặc trưng: Nghị luận văn học là một nhánh lớn của văn nghị luận,
như vậy nghị luận văn học bao hàm những đặc trưng của văn nghị luận
và có những đặc trưng riêng:
+

Tính lập luận chặt chẽ

+

Tính thuyết phục cao

+

Tính trang trọng, công khai

+

Tính truyền cảm

+

Tính cá thể hóa

Văn nghị luận là loại văn bản thuyết phục cần có đối tượng, mục đích rõ
ràng. Ngoài ra, người viết cần đảm bảo được những đặc trưng của văn nghị
luận: về tính thuyết phục, chặt chẽ, công khai. Bên cạnh đó, người viết cần sử
dụng đến đặc trưng: tính truyền cảm và cá thể hóa để văn nghị luận trở nên
gần gũi hơn, thuyết phục có tình có lý và có dấu ấn riêng của người viết.
1.2. Dẫn chứng
1.2.1. Khái niệm dẫn chứng

Xét trong kết cấu đoạn văn, để có sự lập luận sâu sắc cần có hệ thống:
luận điểm, luận cứ, luận chứng. Về dẫn chứng, đã có nhiều cách định nghĩa
khác nhau về dẫn chứng có nhiều cách định nghĩa khác nhau:
− Trong công trình nghiên cứu Từ điển Hán Việt, Phan Văn Các đã định
nghĩa luận chứng như sau:
+ Nghĩa 1: Là chứng cớ làm chỗ dựa cho lập luận (Luận chứng đầy đủ và
chính xác).
+ Nghĩa 2: Sự chứng minh một phán đoán là đúng hay không, dựa trên
phán đoán đã biết là đúng. (Bản luận chứng).
− Trong tài liệu Làm văn 12, Phó Giáo sư Đỗ Ngọc Thống đã định
nghĩa:“Luận chứng là sự phối hợp, tổ chức các lí lẽ và dẫn chứng để

12


thuyết minh cho luận điểm. Thực chất của luận chứng, là cách đưa luận
cứ vào quĩ đạo lôgic để tạo thành sức thuyết phục cho luận điểm”.
− Từ điển Wiktionary định nghĩa về dẫn chứng:
+ Danh từ: Dẫn chứng là “Cái được đưa ra để chứng minh làm cơ
sở cho điều nói ra, viết ra”
+ Động từ: Dẫn thí dụ, bằng cớ để chứng minh cho điều nói ra,
viết ra là đúng, là có cơ sở. Dẫn chứng ra nhiều cứ liệu xác
thực.
Như vậy, dẫn chứng là chứng cớ làm chỗ dựa vững chắc cho lập luận
tăng thêm sức chính xác, thuyết phục cho luận cứ, luận điểm trong bài văn
nghị luận. Luận chứng là cách gọi đầy đủ của dẫn chứng và sự phân tích,
bình luận dẫn chứng trong bài văn nghị luận.
1.2.2. Dẫn chứng trong nghị luận văn học
Dẫn chứng trong văn nghị luận văn học là những chứng cứ tạo nên tính
thuyết phục cho bài văn nghị luận văn học. Trong bài văn nghị luận nói

chung, luận chứng có thể là bằng chứng về số liệu, giấy tờ, bằng chứng…
Trong nghị luận văn học, luận chứng có thể là: câu thơ, đoạn thơ, những nhận
định, đánh giá của các tác giả, nhà lí luận phê bình...đối với các tác phẩm văn
xuôi dẫn chứng có thể là: chi tiết, nhân vật (ngoại hình, lời nói, hành động,
nội tâm) tình tiết, cốt truyện, hình ảnh, không gian, thời gian…
Chúng tôi sẽ phân loại kĩ hơn về dẫn chứng theo từng thể loại văn học.
Bởi lẽ, đối với bất kì dạng đề nào, dẫn chứng của HS cũng sẽ trong các loại
thể văn học.
Trước tiên, dẫn chứng phân theo thể loại văn học:
- Trữ tình: Dẫn chứng có thể là một bài thơ, đoạn thơ, hình ảnh, cấu
tứ, nhịp điệu thơ.
- Tự sự: Đối với thể loại tự sự dẫn chứng có thể là nội dung tóm tắt,
nhân vật (xuất thân, ngoại hình, lời nói, hành động, diễn biến tâm lí
nhân vật) trong truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch. Những tình tiết
13


truyện, chi tiết, hình ảnh, không gian, thời gian, diễn biến câu
chuyện.
- Kịch: Dẫn chứng có thể là xung đột và cách giải quyết xung đột,
hành động kịch, nhân vật kịch, ngôn ngữ kịch: Đối thoại, độc thoại
bàng thoại.
Thứ hai, dẫn chứng theo yêu cầu của đề bài nghị luận văn học: Trong
một bài nghị luận văn học, sẽ có rất nhiều dẫn chứng. Dẫn theo công trình
nghiên cứu Văn bồi dưỡng học sinh năng khiếu trung học cơ sở, Giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh và Phó giáo sư Đỗ Ngọc Thống đã phân loại dẫn chứng
thành hai loại: “dẫn chứng bắt buộc” và “dẫn chứng mở rộng”:
-

“Dẫn chứng bắt buộc là dẫn chứng nằm trong phạm vi yêu cầu của

đề về tư liệu” (Nguyễn Đăng Mạnh, 1998, tr.59)

-

“Dẫn chứng mở rộng là loại dẫn chứng ngoài phạm vi trên do người
viết tự viện dẫn ra để liên hệ, đối chiếu, so sánh nhằm làm sáng tỏ
thêm ý đang được bàn bạc” (Nguyễn Đăng Mạnh, 1998, tr.59)

Ví dụ đề bài: Nhận định về thơ Tố Hữu, có ý kiến cho rằng: “Nổi lên trong
thơ Tố Hữu như một thành công tuyệt đẹp là những sáng tác về Bác Hồ kính
yêu”
-

Dẫn chứng bắt buộc: Các tác phẩm thơ của Tố Hữu viết về chủ tịch
Hồ Chí Minh: Bác ơi, Sáng tháng năm, Theo chân Bác, Cánh chim
không mỏi, Hồ Chí Minh, Một khúc ca, Trưa tháng Tư, Sài Gòn…
Có thể là một hoặc hai trong một số các sáng tác của Tố Hữu đề làm
rõ vấn đề những sáng tác thành công về Hồ Chủ tịch kính yêu.

-

Dẫn chứng mở rộng: Các tác phẩm viết về Bác Hồ của các tác giả
khác. Có thể là: Bác Hồ - Người cho em tất cả của Hoàng Long,
Hoàng Lân, Cháu nhớ Bác Hồ của Thanh Hải (8/1956), Đêm nay
Bác không ngủ của Minh Huệ (1951), Em gặp Bác Hồ của Trần
Đăng Khoa, Bộ đội Ông Cụ của Nông Quốc Chấn…Trong quá trình

14



làm bài, người viết có thể liên hệ một số vần thơ khác về Bác để mở
rộng dẫn chứng, tạo độ sâu, độ rộng cho dẫn chứng trong lập luận.
Dẫn chứng mở rộng có thể ở nhiều cấp độ. Dẫn chứng bắt buộc là một
đoạn thơ, một đoạn trích văn xuôi thì dẫn chứng mở rộng có thể là một tác
phẩm thơ, một tác phẩm văn xuôi. Dẫn chứng bắt buộc là một tác phẩm văn
học này thì dẫn chứng mở rộng có thể là tác phẩm khác của cùng nhà văn
hoặc tác phẩm của nhà văn khác cùng đề tài, giai đoạn văn học. Ngoài ra dẫn
chứng mở rộng có thể là các nhận định, quan niệm, ý kiến đánh giá của các
nhà văn, nhà phê bình văn học.
Chúng ta đã phân loại dẫn chứng trong một bài văn nghị luận, cần đưa ra
một nguyên tắc sử dụng. Như tên gọi của hai loại dẫn chứng “bắt buộc”- cần
được ưu tiên, chú trọng, tập trung vào dẫn chứng bắt buộc để làm sáng tỏ vấn
đề, mở rộng - để làm sáng tỏ thêm cho dẫn chứng bắt buộc. Để có một bài
văn đúng cần khai thác tốt dẫn chứng bắt buộc nhưng để có một bài văn hay
cần có thêm dẫn chứng mở rộng. Như đánh giá của giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh trong Văn bồi dưỡng năng khiếu trung học cơ sở: “Dẫn chứng bắt buộc
cho người đọc thấy bề sâu của người phân tích còn qua dẫn chứng mở rộng
thấy được bề rộng trong tầm kiến thức văn của người ấy.” Trong thực tế, sẽ có
một số dạng đề không giới hạn phạm vi đưa dẫn chứng, chính người viết cần
tự đặt ra giới hạn về dẫn chứng văn học.
1.3. Phân tích dẫn chứng
1.3.1. Thao tác phân tích dẫn chứng
- Khái niệm: Phân tích là chia nhỏ đối tượng thành các yếu tố để xem xét
một cách kĩ càng nội dung, hình thức và mối quan hệ bên trong cũng
như bên ngoài của chúng.
- Mục đích: Làm rõ đặc điểm về nội dung, hình thức, cấu trúc và các mối
quan hệ bên trong, bên ngoài của đối tượng (sự vật, hiện tượng)
- Yêu cầu:
o Xác định vấn đề phân tích
15



o Chia vấn đề thành những khía cạnh nhỏ
o Khái quát tổng hợp, phân tích bao giờ cũng gắn với tổng hợp. Đó
là bản chất của thao tác phân tích trong văn nghị luận
- Cách phân tích:
o Các yếu tố, các phương tiện nội bộ tạo nên đối tượng và quan hệ
giữa chúng với nhau
o Quan hệ giữa đối tượng với các đối tượng liên quan:
 Nguyên nhân – kết quả
 Kết quả– nguyên nhân
o Thái độ, sự đánh giá của người phân tích đối với đối tượng được
phân tích.
Chúng tôi đưa ra khái niệm, cách phân tích của thao thác lập luận phân tích
đề làm rõ thao tác phân tích dẫn chứng: Thao tác lập luận phân tích nằm trong
hệ thống các thao tác lập luận của văn bản nghị luận: Thao tác lập luận giải
thích, thao tác lập luận phân tích, thao tác lập luận chứng minh, thao tác lập
luận bình luận, thao tác lập luận so sánh, thao tác lập luận bác bỏ. Nhưng
trong quá trình làm văn, không thể tách rời các thao tác một cách rõ ràng.
Như khi phân tích một dẫn chứng không chỉ đơn thuần dùng một thao tác lập
luận phân tích mà song song đó người viết cần sử dụng thao tác bình luận, so
sánh để đào sâu trong việc khai thác dẫn chứng.
Người viết phân tích dẫn chứng cần chia, tách đối tượng thành các yếu
tố theo những tiêu chí, quan hệ nhất định (quan hệ giữa các yếu tố tạo nên đối
tượng, quan hệ nhân quả, quan hệ giữa đối tượng với các đối tượng có liên
quan, quan hệ giữa người phân tích với đối tượng được phân tích...).
Phân tích cần đi sâu vào từng yếu tố, từng khía cạnh, song cần đặc biệt
lưu ý đến quan hệ giữa chúng với nhau trong một chỉnh thể toàn vẹn, thống
nhất.
Khi đã chia nhỏ vấn đề để làm rõ, người viết có thể sử dụng thao tác so

sánh để làm sáng rõ đối tượng đang nghiên cứu trong tương quan với đối
16


tượng khác. So sánh đúng làm cho bài văn nghị luận sáng rõ, cụ thể, sinh
động và có sức thuyết phục. Khi so sánh phải đặt các đối tượng vào cùng một
bình diện, đánh giá trên cùng một tiêu chí mới thấy sự giống nhau và khác
nhau giữa chúng đồng thời phải nêu rõ ý kiến, quan điểm của người viết/nói.
Việc so sánh các đối tượng để làm bật lên đối tượng cần phân tích.
Thêm nữa người viết cần sử dụng thao bình luận nhằm đề xuất và thuyết phục
người nghe, người đọc tán đồng với nhận xét, ý kiến, đánh giá, quan điểm,
bàn luận của mình về một hiện tượng trong văn học nghệ thuật.
1.3.2. Vai trò của việc phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận
văn học
Trong bài nghị luận văn học dẫn chứng chiếm một vị trí rất quan trọng bởi
lẽ, ông bà ta có câu: “Nói có mách, sách có chứng” quả nhiên như thế. Thứ
nhất chúng ta điểm qua vị trí của dẫn chứng trong bài văn nghị luận. Xét
trong lập luận, một bài văn được cấu tạo có ba phần: mở bài, thân bài, kết bài.
Trong đó phần thân bài được cấu tạo từ nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn có một
cấu trúc riêng, bỏ qua phần chuyển đoạn để tạo nên tính mạch lạc, tính liên
kết cho bài văn, chúng tôi xét trong hệ thống lập luận gồm: luận điểm, luận
cứ, luận chứng. Trong cấu trúc của một đoạn văn, có nhiều cách triển khai
như sau: tổng - phân - hợp, quy nạp, diễn dịch, song hành, móc xích, nêu phản
đề, so sánh, phân tích nhân quả, vấn đáp. Ứng với mỗi kiểu kết cấu đoạn văn
khác nhau mà dẫn chứng sẽ được đặt ở một vị trí khác nhau. Trong giới hạn
của đề tài này, chúng tôi sẽ đi sâu vào kiểu kết cấu phổ biến và có tính ứng
dụng cao nhất: tổng - phân - hợp. Xét trong cấu trúc của kết cấu tổng - phân hợp, thông thường dẫn chứng được đặt ở vị trí giữa hoặc gần cuối đoạn văn.
Thứ hai, vị trí – đánh giá một vị trí xứng đáng, tức ý nghĩa của dẫn chứng
trong đoạn văn và bài văn nghị luận văn học. Có thể đánh giá luận chứng như
một mảnh ghép đặc biệt trong bức tranh – đoạn văn. Chúng tôi đánh giá cao

vai trò của dẫn chứng bởi lẽ, khi người viết phân tích đề triển khai ý để hình
thành hệ thống luận điểm. Vì một số lý do, đôi khi trong quá trình giảng dạy
17


trên lớp thầy cô đã cung cấp các ý chính, những ý đó có thể trở thành các luận
điểm. Tuy nhiên khó khăn là cách lập luận, đưa ra những luận cứ, luận chứng
như thế nào để phù hợp? Trong khi đó dẫn chứng là cơ sở để tái hiện cho luận
điểm và minh chứng cho những gì người viết đã trình bày trước.
Minh chứng xác thực – tạo nên tính thuyết phục cho bài văn nghị luận.
Một trong những đặc trưng cơ bản nhất của văn nghị luận là thuyết phục
người đọc, người nghe. Có như thế mới thấy dẫn chứng giữ một vị trí then
chốt, là một tiêu chí đánh giá, để xác minh tính chính xác của lập luận mà
người viết đưa ra. Luận cứ của lập luận phải chân thực, xác đáng và toàn diện.
Mối quan hệ giữa luận điểm và luận cứ rất khăng khít, chặt chẽ: Luận điểm
làm sáng rõ đứng được là dựa vào luận cứ, còn luận cứ, luận chứng nêu ra để
phục vụ cho luận điểm. Trong nội bộ các luận cứ, lí lẽ và dẫn chứng cũng soi
sáng cho nhau: lí lẽ tạo cho dẫn chứng khả năng thuyết minh cho luận điểm,
còn dẫn chứng thực tế lại làm cho lí lẽ có nội dung, có sức nặng. [tr14]
Thêm nữa việc chọn dẫn chứng là một tiêu chí đánh giá học sinh, đặc biệt
là học sinh lớp chuyên, lớp chọn. Để có được tính thuyết phục một cách sâu
sắc cần có một sự sắp xếp “có ý đồ”. Sự sắp xếp “có ý đồ” đó không phải bất
kì một học sinh nào cũng làm được khi làm bài văn nghị luận văn học. Tìm
được dẫn chứng đã là một bước khó nhưng hệ thống và sắp xếp lại là quan
trọng. Nhưng quan trọng hơn là cách viết, bàn luận dẫn chứng ấy như thế nào
để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận một cách thuyết phục. Từ đó, qua việc hình
thành hệ thống dẫn chứng một cách lôgic, khoa học bàn luận dẫn chứng một
cách sâu sắc là một tiêu chí để giáo viên đánh giá năng lực học sinh trong viết
văn, và đó cũng là điều kiện cần của học sinh chọn, học sinh giỏi môn Văn
cần trang bị cho mình.

Ngoài việc tạo nên tính chính xác, tính thuyết phục cho bài văn nghị luận
văn học. Dẫn chứng còn tạo nên sự độc đáo, sức hấp dẫn cho bài văn nghị
luận. Việc chọn lọc được dẫn chứng phù hợp, tiêu biểu, đa dạng tạo nên sự

18


phong phú, đa dạng tạo điểm nhấn, tính thẩm mĩ cho bài văn nghị luận của
học sinh.
Điểm qua vị trí, vai trò của dẫn chứng trong bài nghị luận văn học để
chúng ta có một cái nhìn đầy đủ hơn về dẫn chứng. Dẫn chứng không đơn
thuần là sự nhớ và chép lại một hai câu thơ hay một tình tiết truyện mà nó còn
thể hiện tư duy lôgic, kiến thức, kĩ năng trong lập luận văn nghị luận văn học.
Dẫn chứng còn là một tiêu chí để phân định, đánh giá năng lực của học sinh
giỏi văn.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC ĐƯA DẪN CHỨNG TRONG BÀI
VĂN NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG HIỆN NAY
2.1. Chọn dẫn chứng chưa chính xác
Đưa dẫn chứng chưa chính xác là một trong những thực trạng cần nói
đến đầu tiên. Vì một số lí do như: chưa hiểu được nội dung nghị luận, chưa
thuộc dẫn chứng, chưa nắm vững kiến thức về văn học sử cho nên học sinh
thường đưa dẫn chứng chưa chính xác.
Đưa dẫn chứng chưa phù hợp với vấn đề nghị luận là một trong những
thực trạng khá phổ biến. Với một số đề phân tích về một đoạn thơ, một bài
thơ hay một đoạn trích, một tác phẩm văn xuôi ít có việc chọn sai dẫn chứng
vì dẫn chứng được giới hạn khá rõ trong đề bài. Tuy nhiên, đối với một số học

19



sinh, mở rộng bình luận so sánh với các tác phẩm khác, đôi khi đưa dẫn
chứng vào một cách chưa chuẩn xác.
Việc đưa dẫn chứng chưa sát với vấn đề nghị luận là lỗi cơ bản thường
gặp ở các dạng đề mở, khái quát, giai đoạn văn học, lí luận văn học. Các dạng
đề này khó hơn dạng đề nghị luận về một tác phẩm cụ thể. Với dạng đề này,
đòi hỏi năng lực của học sinh nhìn nhận ra được vấn đề trong đề bài đặt ra, từ
đó đưa hệ thống luận điểm và luận cứ, luận chứng. Tuy nhiên, không phải học
sinh nào cũng đủ năng lực để phân tích đề và triển khai ý tốt. Từ việc chưa
hiểu đúng vấn đề thành ra “tán hươu tán vượn” dẫn đến chọn dẫn chứng sai
trong bài nghị luận văn học.

20


Ví dụ: Bài kiểm tra chọn HSG Văn, học sinh trường THPT chuyên Hoàng Lê
Kha, 2018

Đề bài: Cuộc đời đầy những nỗi buồn vì thế phải chăng thiên chức của nhà
văn là lắng nghe và làm vơi đi nỗi buồn của con người?
Bằng trải nghiệm văn học của mình, anh (chị) hãy trả lời câu hỏi trên.
Đối với đề bài này, học sinh cần làm sáng tỏ vấn đề lắng nghe nỗi buồn
gì? Vì sao nhà văn lại làm vơi đi nỗi buồn. Nhưng học sinh lại hiểu vấn đề
21


nghị luận thành tinh thần lạc quan trong các tác phẩm văn học yêu nước. Như
thế từ việc chưa hiểu rõ vấn đề nghị luận dẫn đến chọn sai dẫn chứng trong
bài văn nghị luận văn học.

Một số học sinh bị sai kiến thức cơ bản dẫn đến đưa dẫn chứng sai: Lỗi
kiến thức về “văn học sử”. Đây cũng là một thực trạng của học sinh, đơn vị
bài học khái quát lịch sử văn học ở các giai đoạn là rất quan trọng nhưng vì
HS thường học “cưỡi ngựa xem hoa” dẫn đến việc chưa có kiến thức tốt về
lịch sử văn học, các giai đoạn, các trào lưu...Song song đó có trường hợp các
em nhớ được các giai đoạn văn học trong tiến trình lịch sử văn học nhưng
không hiểu được nguồn gốc, xu hướng văn học, nhầm lẫn thời kì sáng tác và
các tác phẩm của tác giả. Hoặc sai kiến thức về hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm. Chính vì những lỗi sai kiến thức cơ bản trên mà đưa dẫn chứng sai với
yêu cầu của đề.
Ví dụ đối với các dạng đề không phải là nghị luận về một tác phẩm thơ,
một đoạn thơ mà là một vấn đề đặt ra trong tác phẩm, hoặc từ một nhận định
về một tác phẩm bất kì. Như vậy, trong giai đoạn phân tích đề phải có sự chọn
lọc dẫn chứng để phù hợp với đề. Tuy nhiên một số học sinh vẫn thực hiện
phân tích toàn bộ bài thơ hoặc một đoạn thơ chưa làm rõ được nội dung nghị
luận đã cho.

22


( Bài kiểm tra học kì 2, lớp 10 Chuyên, học sinh trường THPT chuyên
Hoàng Lê Kha)
Về tác phẩm văn xuôi, tình trạng học sinh lười đọc sách là một thực
trạng đáng báo động trong nhà trường phổ thông hiện nay. Vì HS không đọc
tác phẩm, dẫn đến các em không năm được chi tiết, sự kiện, nhân vật, cốt
truyện...lẫn lộn giữa tác phẩm này và tác phẩm khác.
Một thực trạng vẫn đang tồn tại, thông thường đối với học sinh giỏi
môn Ngữ văn. Các em chưa hiểu rõ được các thuật ngữ văn học, lí luận văn
học nên đưa dẫn chứng chưa chuẩn xác. Bởi lẽ để là một học sinh giỏi môn
Ngữ văn không chỉ dừng ở phân tích tác phẩm, cảm nhận, bình giảng mà còn

ở hướng nghiên cứu về lí luận văn học. Đây là một kiến thức có thể gọi là mới
23


đối với các em, cũng chính vì vậy mà việc hiểu và vận dụng kiến thức lí luận
một các thuần thục vẫn là một vấn đề trăn trở.
2.2. Chọn dẫn chứng chưa chọn lọc
Một trong những thực trạng nữa là đưa dẫn chứng thiếu chọn lọc: quá
nhiều, quá ít. Vấn đề đối với một số học sinh có ít kiến thức về các tác phẩm
văn học, trong bài nghị luận dẫn chứng của các em thường nghèo nàn, một
hoặc một vài dẫn chứng. Điều này dẫn đến dẫn chứng chưa đủ để làm sáng tỏ
luận điểm. Đối lập với vấn đề đưa quá ít dẫn chứng là tình trạng “ham kiến
thức” học sinh đưa ra quá nhiều dẫn chứng trong một luận điểm. Trong một
bài nghị luận văn học sẽ có một hệ thống luận điểm. Việc học sinh đưa quá
nhiều dẫn chứng cho một luận điểm dẫn đến bài văn khá dài, loãng ý và
không để lại ấn tượng nếu các dẫn chứng cứ “nhạt” và đều đều nhau. Đôi khi
việc đưa quá nhiều dẫn chứng sẽ dẫn đến tình trạng học sinh liệt kê dẫn chứng
nhưng chưa làm rõ được ý nghĩa của các dẫn chứng mà mình đã đưa vào bài
văn nghị luận.
Ví dụ khi đề bài yêu cầu phân tích một nhân vật trong tác phẩm văn
xuôi, người viết cần chọn lọc những chi tiết, tình tiết quan trọng để làm nổi
bật: tính cách, vẻ đẹp, ý nghĩa của nhân vật, đặt nhân vật trong mối quan hệ
với các nhân vật khác. Khi phân tích cần hệ thống ý, thì học sinh lại sa vào kể
lại câu chuyện:

24


(Bài kiểm tra chọn HSG Văn, học sinh trường THPT chuyên Hoàng Lê Kha,
2018)

Nếu đúng theo đặc trưng của thể loại văn xuôi, khi phân tích nhân vật
cần phân tích theo một số đặc điểm sau: nguồn gốc xuất thân, ngoại hình, lời
nói, hành động, suy nghĩ nội tâm thì các em lại nghị luận bằng con đường kể
25


×