Hoàng Văn Thụ (1906-24 tháng 5 năm 1944) là nhà lãnh đạo cao cấp của Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương, người có đóng góp lớn vào phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc và là nhà thơ cách mạng Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945.
1. Tiểu sử
Hoàng Văn Thụ là người dân tộc Tày, sinh năm 1906 tại xóm Lạc Phạn, xã Nhân Lý (nay là
xã Hoàng Văn Thụ), châu Điềm He, huyện Văn Uyên (nay là huyện Văn Lãng) tỉnh Lạng Sơn,
Việt Nam.
Về xuất thân của ông, các tài liệu ghi khác nhau. Theo Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, ông sinh ra trong gia đình nông dân. Tuy nhiên theo một số tài liệu khác, ông
"ra đời trong một gia đình quan lại, cha là tri phủ".
Một số tài liệu ghi ông còn có tên là Hoàng Đình Hưng.
2. Thoát ly theo cách mạng
Theo tài liệu của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hoàng Văn Thụ đã được
học cả chữ Hán và chữ quốc ngữ từ nhỏ. Năm 14 tuổi (1920), sau học đậu sơ học yếu
lược[2] ông ra thị xã Lạng Sơn học tiếp.
Tại đây, Hoàng Văn Thụ đã gặp và kết bạn với Hoàng Đình Dong (Roong, Gioong) và Lương
Văn Chi, những người trở thành bạn hoạt động cách mạng của ông sau này.
Năm 1926, sau lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh, ông đã cùng Lương Văn Chi thành
lập nhóm thanh niên yêu nước ở Lạng Sơn. Cuối năm 1927, ông cùng Lương Văn Chi sang
Bản Đáy (Quảng Tây, Trung Quốc) là nơi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đang
tổ chức các lớp huấn luyện chính trị. Nhưng khi ông vừa tới nơi thì bị đặc vụ vây bắt. Ông
chạy thoát về Long châu, trải qua nhiều khó khăn gian khổ để kiếm sống và hoạt động, có
lần phải đóng làm người "bán thuốc cao" và thậm chí phải đi xin ăn, nhưng ông vẫn không
nản chí.
3. Gây dựng cơ sở trong nước từ nước ngoài
Năm 1930, ông được người quen giới thiệu vào học thợ và làm việc tại xưởng cơ khí Nam
Hưng, một xí nghiệp do một số nhà cách mạng Việt Nam lập ra, làm cơ sở liên lạc, nơi hội
họp đồng thời là cơ sở hoạt động kinh tế để lấy kinh phí hoạt động. Tại đây Chi bộ Đông
Dương cộng sản đảng gồm ba người: Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Roong và Hoàng Vĩnh Tuy
đã được thành lập, Hoàng Đình Roong làm bí thư chi bộ. Từ chi bộ ba người đã trở thành Ban
liên tỉnh uỷ Cao - Lạng (Cao Bằng - Lạng Sơn). Hoàng Văn Thụ được phân công phụ trách
Lạng Sơn. Ông rời xưởng Nam Hưng về Long Châu, gây dựng cơ sở ở Lũng Nghìu làm nơi
liên lạc với những người cách mạng ở Việt Nam.
Năm 1930, ông gây dựng được 3 tổ quần chúng tại các xóm Ma Mèo, Tà Lài (huyện Văn
Uyên), tới năm 1931 mở rộng ra các địa phương Khơ Đa, Na Sầm, Đồng Đăng, Kỳ Lừa, Thất
Khê và tới năm 1932 mở rộng tới xã Nhân Lý quê ông. Khi vận động được người nào, ông
thường tập hợp tại hang Áng Cúm (gần Lũng Nghìu) để huấn luyện rồi giao nhiệm vụ trở về
phát triển tổ chức trong nước.
Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, năm 1932, Lê Hồng Phong về nước hoạt động. Về tới
Long châu, Lê Hồng Phong bắt liên lạc với Ban liên lạc tỉnh uỷ Cao - Lạng và đã gặp ông.
Ông được Lê Hồng Phong giúp đỡ học tập chủ nghĩa Marx – Lenin và làm trợ bút cho tờ báo
Châu Giang để học thêm tiếng Hán. Nhờ vốn tiếng Hán, ông đã tiếp cận với nhiều trước tác
của Mao Trạch Đông. Từ khi Ban chỉ huy hải ngoại thành lập, ông trở thành người giúp việc
tích cực của ban này và chắp nối với các cơ sở trong nước.
Cuối năm 1934, Hoàng Văn Thụ cùng các đảng viên trong Ban liên tỉnh uỷ lâm thời họp và
được đề cử đại biểu đi dự đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Đông Dương. Năm
1935, sau khi dự đại hội, ông được cử về nước hoạt động.
4.Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ
Hoàng Văn Thụ trở về Việt Bắc làm chủ bút báo “Tranh đấu” ở miền thượng du. Sau đó ông
gây dựng cơ sở đảng ở Vũ Nhai, Bắc Sơn. Chi bộ ghép được thành lập, trong đó có Chu Văn
Tấn và Nông Văn Cún là những người chỉ huy khởi nghĩa Bắc Sơn sau này.
Thời kỳ 1936-1939, thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, còn gọi là thời kỳ Bình dân, sau
một thời gian sang Trung Quốc để in văn kiện đại hội Đảng gửi về nước, tháng 2 năm 1937,
ông về Cao Bằng lãnh đạo phong trào bình dân và viết báo Lao động. Sau đó, vì bị người
Pháp theo dõi gắt gao, ông trốn sang Hương Cảng.
Giữa năm 1938, ông được Lê Hồng Phong giao nhiệm vụ về gặp Xứ uỷ Bắc Kỳ tại Hà Nội để
truyền đạt chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ chống phát xít ở Đông Dương. Sau đó
Hoàng Văn Thụ được bầu vào Ban thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, cùng với Trường Chinh và Hoàng
Quốc Việt, Bí thư Liên xứ uỷ Bắc Trung kỳ giai đoạn này là Hoàng Văn Nọn tức Hoàng Tú
Hữu[3]. Sau đó ông lại được cử ra Hòn Gai, Uông Bí để củng cố cơ sở Đảng.
Đầu năm 1939, ông dự hội nghị Xứ uỷ mở rộng do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ triệu tập ở
Vạn Phúc (Hà Đông) và được cử làm Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ. Thời gian hoạt động ở Hà Đông, cơ
quan Xứ uỷ bị người Pháp theo dõi, khủng bố ráo riết. Để tránh bị lộ, ông thường xuyên phải
cải trang và di chuyển, đi ở nhờ trong nhiều nhà dân và vận động được nhiều người tham
gia, ủng hộ cách mạng. Nhiều người biết đến ông với những cái tên như "đồng chí Bảy",
"anh Lý".
Ngoài công việc Xứ uỷ, ông còn được giao trực tiếp phụ trách Thành uỷ Hà Nội. Do bị nội
phản, Thành uỷ luôn bị phá. Từ năm 1939 đến 1943, ông đã 10 lần khôi phục lại Thành uỷ
Hà Nội.
Tháng 11 năm 1940, tại Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ 7 diễn ra
tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, ông cùng Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt được bầu
là Uỷ viên thường vụ Trung ương Đảng, Trường Chinh làm quyền Tổng Bí thư.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, thực dân Pháp ở Đông Dương tăng cường đàn áp.
Hàng ngàn đảng viên đảng Cộng sản bị bắt giam. Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương
rút vào hoạt động bí mật, ông cùng Trường Chinh phải lặn lội đi nhiều tỉnh để chắp nối trong
cảnh vô cùng thiếu thốn và gian khổ.
Phát xít Nhật đem quân tràn vào Đông Dương. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, dẫn đến việc
thành lập Cứu quốc quân do Chu Văn Tấn chỉ huy. Ông cùng Trường Chinh và Trần Đăng
Ninh đã kịp thời lên Lạng Sơn chỉ đạo để Cứu quốc quân, lúc đó chưa đủ mạnh, rút vào bí
mật, để bảo toàn lực lượng.
Đầu năm 1941, ông được cử sang Tịnh Tây (Trung Quốc) dự đại hội đoàn thể cách mạng
Việt Nam để bàn việc thống nhất các lực lượng cách mạng trong và ngoài nước. Ông đã gặp
Nguyễn Ái Quốc và nhận trách nhiệm cùng tỉnh uỷ Cao Bằng đón Nguyễn Ái Quốc về nước.
Sau đó ông nhận lệnh của Trường Chinh sang Quảng Tây đón Nguyễn Ái Quốc, nhưng
chuyến đi đó chưa đón được. Tháng 4 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc từ Vân Nam qua Quảng
Tây về Cao Bằng, ở tại hang Pắc Pó, nơi có dòng suối mà tiếng địa phương gọi là Khuổi Nậm.
Hoàng Văn Thụ cùng Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Chu Văn Tấn từ Việt Nam sang Long
Châu (Quảng Tây, Trung Quốc) rồi đi vòng về Cao Bằng. Tại Pắc Bó, tháng 5 năm 1941, ông
cùng đoàn đại biểu Xứ uỷ Bắc Kỳ dự hội nghị trung ương lần thứ VIII và được cử vào Ban
thường vụ Trung ương Đảng. Đại hội thành lập Việt Nam cách mạng đồng minh (Việt Minh)
đã cử ông vào Lâm thời Tổng bộ Việt Minh. Ông được phân công là Thường vụ trung ương
phụ trách binh vận.
Mặt trận Việt Minh ra đời, phong trào chống Pháp-Nhật lên cao. Đảng Cộng sản Đông Dương
một mặt xây dựng căn cứ ở Việt Bắc, mặt khác đẩy mạnh phong trào ở các tỉnh. Ban Thường
vụ đặt cơ quan bí mật ngay tại quận 5 Hà Nội. Hoàng Văn Thụ thường cùng ở với Tổng bí thư
Trường Chinh. Ông tích cực hoạt động binh vận (vận động binh lính địch) ở Hà Nội. Trong khi
đang vận động các binh lính, do bị chỉ điểm, ông bị bắt tháng 8 năm 1943 tại ngõ Nam Diệm
khu Tám Mái[4].
5.Trong lao ngục
Trong nhà lao thực dân Pháp, ông truyền thụ nhiều lý luận cách mạng và nêu cao tinh thần
bất khuất cho các đồng đội trong ngục. Ông mở cuộc tranh luận với các thủ lĩnh Đảng Đại
Việt làm họ thấy chủ trương đúng đắn của Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp-Nhật do
Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Ông tranh thủ cảm hoá các giám ngục, binh lính
trông tù, nhiều người trong tù rất kính phục ông.
Hoàng Văn Thụ bị nhiều trận tra tấn rất nặng. Theo tài liệu của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, ông bị hơn 20 trận tra tấn, nhiều trận kéo dài từ 9 giờ đêm tới 3 giờ
sáng. Tuy nhiên, thực dân Pháp không thể khuất phục được ông. Trong thời gian chịu đòn
tra tấn, ông vẫn ôn tồn thuyết phục, tuyên truyền cho sự hợp tác giữa những người Pháp và
ngưòi Đông Dương trong việc chống lại phát xít Nhật.
Tháng 1 năm 1944, ông bị kết án tử hình.
6. Ra pháp trường
Sáng ngày 24 tháng 5 năm 1944, thực dân Pháp mang ông ra xử bắn. Ông ung dung ra
pháp trường Tương Mai. Khi giám thị hỏi ông có cần bịt mắt hay không, ông trả lời không
cần.
Quan toà hỏi ông có cần nói lời cuối cùng, ông nói:
"Trong cuộc đấu tranh sinh tử, giữa chúng tôi, những người mất nước và các ông, những kẻ
cướp nước, sự hy sinh của những người như tôi là một sự dĩ nhiên. Chỉ biết rằng cuối cùng
chúng tôi sẽ thắng"
Cha cố hỏi ông có cần rửa tội hay không, ông đáp:
"Cảm ơn ông, tôi không có tội gì. Nếu yêu nước, cứu nước là có tội thì những người Pháp
hiện giờ đang đấu tranh chống phát xít Đức bên nước ông đều là có tội cả. Ông hãy về hỏi
xem họ có tội không?"
6 giờ sáng, ông bị đưa đi bắn. Năm đó ông 38 tuổi.
7. Đời tư
Đời tư của ông được các tài liệu ghi không thực sự thống nhất, do xuất thân của ông cũng
được các tài liệu xác nhận khác nhau. Bài thơ Đoạn tuyệt của ông (xem bên dưới), có ý kiến
cho rằng là bức thư trả lời cha ruột làm tri phủ cộng tác với Pháp; lại có ý kiến cho rằng bài
thơ đó trả lời cha vợ là đội Hiển, còn cha ruột ông chỉ là nông dân.
Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1909. Tuy nhiên, hồi ký của Trần Đăng Ninh, người cùng bị
tù Hỏa Lò với ông khi đó, mang tựa đề "Những ngày cuối cùng của anh Hoàng Văn Thụ" (ban
hành năm 1959), đã có đoạn khẳng định lời nói của ông với tác giả năm 1944 trong nhà lao
Hỏa Lò: "Năm nay tôi 38 tuổi...". Như vậy ông sinh năm 1906.
Một số tài liệu, trong đó có tài liệu của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Hà Đông (ban hành
năm 1964) nói rằng giữa ông và bà Hoàng Ngân, một lãnh tụ của phong trào phụ nữ Việt
Nam, ngoài tình đồng chí còn có tình yêu.
8. Nhà thơ cách mạng
Hoàng Văn Thụ sáng tác nhiều bài thơ cách mạng bằng cả tiếng Tày lẫn tiếng Việt. Thơ của
ông có vị trí xứng đáng trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Trong thơ ông có những nét
truyền thống thi ngôn chí, thơ nói lên ý chí tác gia của truyền thống thi ca cổ điển dân tộc,
truyền thống phương Đông cũng như của thơ ca cách mạng.
Đoạn tuyệt
Theo một số nguồn tài liệu, khi Hoàng Văn Thụ đi hoạt động cách mạng, cha vợ là ông đội
Hiển đã viết thư dụ ông về hợp tác với Pháp, nhưng ông đã viết bài thơ Đoạn tuyệt nổi tiếng
để trả lời năm 1940:
Đọc mấy lời trong thư cha vừa dụ
Dòng lệ con hoen ố mảnh nhung y
Nhớ ngày nào cất bước ra đi
Trong trí dũng con ghi đầy kiêu hãnh!
Kìa lưỡi kiếm kẻ thù dính máu
Mà anh hùng tim lạnh cả vô danh
Trong phong ba vùng vẫy cá nghê kình
Tham mồi béo nên nộp mình cho ngư phủ
Chốn rừng xanh tung hoành con mãnh hổ
Ham mồi ngon nên ủ rũ chốn chuồng con!
Bả vinh hoa làm chết cả tâm hồn
Nhưng nào chuyển được lòng son dạ sắt!
Khói Hồng Lĩnh còn mịt mù u uất
Sông Nhị Hà còn chất chứa hờn căm[5]
Thì đời con là của cả giang sơn
Dù giá rét mưa đông chi xá kể
Kìa những lúc cha vui vầy vị kỷ
Là con đang rầu rĩ khóc non sông
Đêm canh trường cha nệm ấm chăn bông
Nơi rừng sâu con nằm sương dãi đất
Cha hít thở những hương trầm thơm ngát
Pha những mùi máu thịt của lê dân
Thì mũi con đang ngạt thở, cổ khô khan
Tai vọng tiếng hờn căm trong thảm cảnh
Trên ngực cha đầy mề đay, kim khánh
Bên sườn con lấp lánh kiếm tiên cừu
Khi cha say mê với thiếu nữ yêu kiều
Thì con tận tuỵ với tình yêu đất nước
Cha mang hết tài năng trí óc
Mưu vinh thân là mục đích cuối cùng
Thì con đang mang xương trắng máu hồng
Đem cứu vớt non sông là ý nguyện
Cha với con là hai trận tuyến
Cha tiến một đường, con tiến một đường
Thôi từ nay hai chữ cương thường
Xin hạ xuống để dâng đất nước
Buổi đoàn viên thôi cha đừng mong ước
Cuộc hội đàm dùng đại bác với thần công!
Bức thư đây là bức thư cuối cùng
Mà cha chỉ là cha trong dĩ vãng...
Một dị bản khác, xin sửa lại như sau:
Đọc mấy lời trong bức thư cha dụ
Dòng lệ con hoen ố mảnh nhung y
Nhớ ngày nào ôm chí lớn ra đi
Trong ký ức ghi nhiều điều kiêu hãnh
Kìa mũi kiếm máu kẻ thù con dính
Mà anh hùng tim lạnh bởi mơ vinh
Chốn phong ba vùng vẫy bóng ngư kình
Tham mồi béo nộp mình cho ngư phủ
Nơi rừng thiêng tung hoành con mãnh thú
Tham mồi ngon ủ rũ chốn chuồng con
Bả vinh hoa làm mất cả tâm hồn
Nhưng nào chuyển được lòng son dạ sắt
Núi Hồng Lĩnh còn mịt mù u uất
Sông Nhị Hà con chất chứa căm hờn
Thì đời con là của cả giang sơn
Mà bão táp mưa đơn đâu sá kể
Nào những lúc cha vui vầy vị kỷ
Là khi con rầu rĩ khóc non sông
Đêm canh trường cha nệm ấm chăn êm
Nơi hố thẳm con nằm gai nếm mật
Cha hít thở hương trầm bay bát ngát
Pha lẫn mùi máu mắt của lương dân
Thì mũi con nghẹt thở cổ khô khan
Tai vẳng tiếng kêu than trong thảm cảnh
Cha trước ngực mề đay kim khánh
Con bên mình lấp lánh kiếm tiên cừu
Cha say sưa bên thiếu nữ yêu kiều
Con tận tụy với tình yêu tổ quốc
Nghĩa là cha đem tài năng và trí óc
Mơ vinh thân là mục đích sau cùng
Thì con đem xương trắng với máu hồng
Ra cứu giúp non sông là chí nguyện
Cha và con thế là hai trận tuyến
Cha một đường và con ở một đường
Thôi từ nay hai chữ can thường
Con... để thờ dân giúp nước (quên mất câu này)
Buổi đoàn viên xin cha đừng mong ước
Cuộc hội đàm xin để lúc thành công
Bức thư đây là bức sau cùng
Mà cha chỉ là cha trong dĩ vãng
Thôi hạ bút cho thâm tình gián đoạn
Để cho người kết án thế gian phê
Lưỡi gươm thù con tuốt để sẵn chờ...
Nhắn bạn
Trước khi bị địch bắn, Hoàng Văn Thụ đã viết một bài thơ tuyệt mệnh gửi ra ngoài nhà tù
cho các đồng chí của mình, mà có người cho rằng ông nhắn tới bà Hoàng Ngân, nằm ở sà lim
cạnh phòng ông. Đó là bài thơ Nhắn bạn bất hủ:
Việc nước xưa nay có bại thành,
Miễn sao giữ được chọn thanh danh,
Phục thù, chí lớn không hề nản,
Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.
Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm,
Chí còn theo rõi buổi tung hoành.
Hỡi bạn gần xa đang chiến đấu,
Trước sau xin giữ tấm lòng thành!
Đời chiến đấu của Hoàng Văn Thụ không dài nhưng rất nhiều ý nghĩa. Trên bảng ghi công
Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 có tên Hoàng Văn Thụ. Các thế hệ người cộng sản Việt
Nam luôn ghi nhớ tấm gương hy sinh và cuộc đời chiến đấu của ông cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
Hoàng Văn Thụ được truy tặng danh hiệu anh hùng, liệt sĩ. Phần mộ của ông tại Tương Mai,
từ sau ngày giải phóng Thủ đô, 10-10-1954, được xây cất đẹp đẽ, sau đó được đưa về nghĩa
trang Mai Dịch. Ở Tương Mai, nơi ông bị bắn cũng có một nấm mộ và một tượng đài trong tư
thế hiên ngang trước quân thù, dũng cảm hy sinh vì tự do cho nhân dân, vì độc lập của Tổ
quốc.
Xã Nhân Lý quê hương ông được đổi mang tên ông. Tại Hà Nội cũng có xã mang tên Hoàng
Văn Thụ. Nhiều thành phố ở Việt Nam có phố mang tên ông.
Hoàng Văn Thụ sinh năm 1906, người dân tộc Tày, Lạng Sơn. Trong cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc rừng núi chiếm một vị trí quan trọng. Đồng bào các dân tộc thiểu số cũng góp
phần to lớn cho cách mạng, đặc biệt góp những người con ưu tú, trong đó có Hoàng Văn Thụ
một lãnh tụ cộng sản, một nhà thơ cách mạng.
Ra đời trong một gia đình quan lại, cha là tri phủ, nhưng vốn sẵn tinh thần yêu nước, chống
Tây, nên Hoàng Văn Thụ sang Quảng Tây, Trung Quốc vừa lao động kiếm sống, vừa hoạt
động. Ông làm việc tại xưởng cơ khí Nam Hưng, một xí nghiệp do một số nhà cách mạng
nước ta lập ra, làm cơ sở liên lạc, nơi hội họp đồng thời là cơ sở hoạt động kinh tế để lấy
kinh phí hoạt động. Tại đây Chi bộ cộng sản gồm ba người là Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình
Roong (Gioong) và Hoàng Vĩnh Tuy đã được thành lập, Hoàng Đình Roong làm bí thư chi bộ.