Tải bản đầy đủ (.docx) (131 trang)

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA TRÍ TUỆ CẢM XÚC TỚI HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.77 KB, 131 trang )

Mục lục

Danh mục các kỹ hiệu và chữ viết tắt
EI: Trí tuệ cảm xúc (Emotional Intelligence)
IQ: Chỉ số thông minh
EQ: Chỉ số trí tuệ cảm xúc (Emotional Intelligence Quotient)
: Chỉ số trí tuệ cảm xúc trung bình
GVMN: Giáo viên mầm non
TTCX: Trí tuệ cảm xúc
WMT: Test thông minh vật liệu hình – Anton K. Formann
MSCEIT: Trắc nghiệm Trí tuệ cảm xúc Mayer Salovey Caruso

Danh mục các bảng số
Bảng 1.1: Cấu trúc của TTCX
Bảng 1.2: TTCX và các trắc nghiệm TTCX, sử dụng những cách tiếp cận đo
lường: năng lực, tự đánh giá và người khác đánh giá
Bảng 2.1: Phân loại EQ của GVMN
Bảng 2.2: Phân loại IQ của GVMN
1


Bảng 3.1: Thực trạng giá trị EQ thô của GVMN
Bảng 3.2: Thực trạng EQ của GVMN
Bảng 3.3: Thực trạng TTCX của GVMN Thành phố Hà Nôị
Bảng 3.4: Phân phối chuẩn EQ của GVMN
Bảng 3.5: Thực trạng mức độ EQ của GVMN
Bảng 3.6: Các mặt biểu hiện TTCX của GVMN
Bảng 3.7: Thực trạng trí thông minh của GVMN
Bảng 3.8: Mức độ trí thông minh của GVMN
Bảng 3.9: Mối tương quan giữa IQ và EQ của GVMN
Bảng 3.10: Sự phân bố nhóm IQ và EQ của GVMN


Bảng 3.11: Danh hiệu thi đua GVMN Thành phố Hà Nội theo danh hiệu đạt
được trong công tác giáo dục trẻ
Bảng 3.12: Thành tích giáo dục của GVMN Thành phố Hà Nội
Bảng 3.13: Sự phân bố thành tích giáo dục trong công tác giáo dục của GVMN
Bảng 3.14: Mô tả thống kê mối liên hệ của EQ với thành tích giáo dục
Bảng 3.15: Tương quan giữa EQ và tuổi đời
Bảng 3.16: Tương quan giữa EQ với tuổi nghề
Bảng 3.17: So sánh mức độ của GVMN theo trình độ đào tạo
Bang 3.18: Mối liên hệ giữa trình độ đào tạo với EQ
Bảng 3.19: Mối tương quan giữa trình độ đào tạo với EQ
Bảng 3.20: Điểm của khối công lập và tư thục
Bảng 3.21: Mối tương quan giữa hai loại hình trường

Danh mục các biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Thực trạng EQ của GVMN
Biểu đồ 3.2: Thực trạng IQ của GVMN
Biểu đồ 3.3: Mối liên hệ giữa EQ với hoạt động sư phạm của GVMN

2


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Mỗi một cá nhân, một nhóm hay một cộng đồng xã hội luôn mong có được
sự phát triển không ngừng để vươn tới một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn
minh. Con người với những hiểu biết, kiến thức sâu rộng sẽ là nền tảng cho sự
phát triển xã hội, song học rộng, tài cao chưa đủ, để thành công trong cuộc
sống con người phải nhận biết thấu hiểu và kiểm soát được cảm xúc của của
mình và của người khác trong quan hệ ứng xử xã hội. Đó là trí tuệ cảm xúc
1.1. Cơ sở lí luận

Một trong rất ít những lĩnh vực được đề cập ngay từ những ngày đầu tiên
của tâm lí học khoa học đó là trí tuệ. Từ trước thế kỉ XX, khái niệm trí tuệ và
chỉ số trí tuệ trở nên rất quen thuộc trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Các nhà tâm
lí học đã không ngừng nghiên cứu, đi tìm bản chất, vai trò của trí tuệ.
Theo cách nhìn của các nhà triết học duy vật - duy cảm Anh, các nhà duy lí
Đức, các nhà tâm lý học hành vi, tâm lí học Ghestant, tâm lí học hoạt động, trí
tuệ chỉ là những logic toán học và ta không thể nhìn thấy sự sáng tạo trong trí
3


tuệ, vai trò của trí tuệ đối với mỗi con người. Với phương pháp biểu trưng
chúng ta thấy trí tuệ được chuyển dịch từ hành vi bên ngoài vào những hoạt
động và sản phẩm tư tưởng con người.
Tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu, kế thừa những mặt tích cực, hạn chế những
mặt tiêu cực của các cách tiếp cận trên, các nhà tâm lí học đã tìm ra bản chất,
nguồn gốc hình thành và phát triển của trí tuệ, yếu tố quan trọng trong tiềm lực
con người với sự nghiệp phát triển của mỗi quốc gia.
Theo Howard Gardner có rất nhiều dạng trí tuệ (trí tuệ ngôn ngữ, âm nhạc,
toán học,…). Và các trí tuệ này là nền tảng của sự hiểu biết, của tri thức, tạo
nên nền tảng của sự thành công. Trí tuệ có mối quan hệ với rất nhiều yếu tố
(Sinh học, môi trường xã hội, hoạt động…). Trí tuệ thuộc về từng chủ thể hoạt
động và do vậy các yếu tố của mỗi cá nhân cũng tác động tới trí tuệ, trong đó
có yếu tố cảm xúc. Cảm xúc tiêu cực làm giảm hiệu xuất của trí tuệ cá nhân.
Cảm xúc tích cực, ngược lại sẽ làm tăng hiệu xuất của trí tuệ cá nhân.
Như vậy cảm xúc và trí tuệ có quan hệ rất mật thiết với nhau. Cảm xúc
không chỉ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến trí tuệ (tác động trực tiếp tới trí
tuệ) mà ngược lại, sự tham gia trực tiếp của yếu tố trí tuệ vào việc nhận thức và
kiểm soát các yếu tố cảm xúc của chủ thể hoạt động và người khác trong hoạt
động, giao tiếp đã dẫn đến một loại trí tuệ - Đó là trí tuệ cảm xúc.
Trí tuệ và cảm xúc là hai mặt của một hành vi cá nhân. Cảm xúc làm ảnh

hưởng tới trí tuệ và trí tuệ cũng tác động ngược trở lại cảm xúc. Cũng đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu trí tuệ cho thấy rằng, kết quả hoạt động sống của
mỗi cá nhân phụ thuộc nhiều vào các yếu tố phi trí tuệ logic, đó là mức độ thấu
hiểu và kiểm soát cảm xúc của mình cũng như của người khác. Với lí do này
trong những năm gần đây có rất nhiều nhà tâm lí học đã tập trung nghiên cứu
về khả năng thâm nhập của trí tuệ vào trong lĩnh vực cảm xúc - tình cảm của mỗi

4


cá nhân; khả năng nhận thức, kiểm soát, điều khiển chúng trong hoạt động và
giao tiếp.
Từ đây hình thành những hướng nghiên cứu mới về trí tuệ cảm xúc. Hướng
nghiên cứu này giúp trả lời câu hỏi tại sao một số cá nhân có IQ cao lại thất
bại, mà một số có IQ thấp lại thành công trong cuộc sống. Các nhà nghiên cứu
luôn muốn giải thích được điều đó, tìm ra đâu là yếu tố cần và đâu là yếu tố đủ
của mỗi cá nhân để đem đến thành công cho chính bản thân và cho xã hội.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội hiện nay, đã đặt ra nhiều yêu cầu
mới đối với mỗi cá nhân trong xã hội. Và để tiến kịp với xu thế phát triển chung
của thế giới, mỗi đất nước đều cần có một nguồn nhân lực chất lượng cao (Trí tuệ
cao).
Con người với tầm cao của trí tuệ đã đưa nhân loại đi từ sự phát triển này
đến sự phát triển khác: Phát triển trong lĩnh vực chính trị, trong khoa học,
trong văn hóa… Các công cuộc cách mạng khoa học đã liên tục mở ra những
điều ngoài sức tưởng tượng của sự phát triển trong các lĩnh vực sản xuất.
Với trí tuệ, con người đã từng bước đi lên từ nền văn minh này tới nền văn
minh khác cao hơn. Bằng trí tuệ con người đã chuyển đổi các hình thái kinh tế
- xã hội dựa trên sự phát triển của phương thức sản xuất. Chính bằng trí tuệ
con người đã tạo nên sự phát triển của nền văn hóa nhân loại, cải tạo thiên

nhiên, tìm ra các dạng năng lượng - thể hiện sự phát triển của xã hội (Lửa, dầu
hỏa, điện, các năng lượng mới và ngày nay là công nghệ năng lượng).
Nói như trên không có nghĩa là, trí tuệ chỉ để tạo nên những phát kiến vĩ đại
cho nhân loại. Mà ngay cả những công việc đời thường cũng rất cần tới trí tuệ.
Bất kì ta làm gì, ta là người lao động chân tay, ta là người lao động trí óc, ta
đều cần có trí tuệ. Vì nếu ta có trí tuệ thì công việc của ta sẽ trở nên dễ dàng

5


hơn và từ những thành quả bé nhỏ đó ta hoàn toàn có thể có những thành công
trong cuộc sống.
Thế kỉ mới với sự phát triển của nền kinh tế tri thức đã tạo ra nhiều sự biến
đổi nhanh chóng và sâu sắc. Nó đặt ra một yêu cầu mới về con người, đó là sự
phát triển toàn diện của mỗi cá nhân. Sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân
trong xã hội sẽ đem đến một nguồn nhân lực có chất lượng cao, tạo ra được
nhiều giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần.
Theo Daniel Goleman: “Thành công là một quá trình thực hiện, nếu bạn
khống chế được EQ thì khống chế được cuộc đời; nhận thức được mình là đã
thành công một nửa”. Daniel đã luôn đặt ra câu hỏi cho sự thất bại trong các
cuộc họp của ông. Và ông đã thấy sự ảnh hưởng rất lớn của yếu tố cảm xúc tới
thành công trong công việc của chính mình. Do vậy ông đi tìm câu trả lời cho
câu hỏi trên. Ông đã nhận thấy sự tham gia của trí tuệ vào cảm xúc tạo nên
những kết quả rất tốt cho cuộc sống. Ông đã đưa ra rất nhiều ví dụ của những
người có trí tuệ cảm xúc, nhờ có trí tuệ cảm xúc họ đạt được thành công trong
cuộc sống, từ những việc nhỏ thường ngày đến những việc quan trọng của mỗi
người.
Năm 1970, một người thủ thư của một hãng thông tấn Mỹ ở nước ngoài gặp
phải tình huống: một nhóm sinh viên đe dọa sẽ thiêu trụi thư viện của bà. Bà
đã xử lí rất tốt tình huống này bằng cách mời nhóm sinh viên này sử dụng thư

viện làm nơi họp nhóm, bà còn mời những người Mỹ sống ở quanh đó đến
tham dự các buổi họp của nhóm sinh viên để tăng cường đối thoại thay cho đối
đầu.
Trong cuộc sống hiện nay chúng ta cũng rất dễ dàng nhận ra, có nhiều sinh
viên cùng học một trường, họ đều rất thông minh, sáng tạo. Nhưng không phải
tất cả họ khi ra trường đều gặt hái được thành công. Điều gì đem lại kết quả
khác nhau đó? Ta thường thấy có người biết giải quyết các vấn đề giữa con
6


người với nhau, xử lí các mối quan hệ luôn thành công hơn những cá nhân
khác, mặc dù trí tuệ, học vấn thua kém họ.
Các nhà tâm lí học khẳng định rằng, sự thành công trong cuộc sống của mỗi
cá nhân không hẳn là do trí thông minh, học vấn cao mang lại mà còn do
TTCX mang lại. Trong nhiều trường hợp TTCX giữ vai trò quyết định.
Như vậy TTCX rất cần thiết cho mỗi người trong xã hội và đối với giáo
viên mầm non cũng vậy. Bên cạnh những kiến thức chuyên môn, sự hiểu biết
xã hội, giáo viên mầm non rất cần có kĩ năng của trí tuệ cảm xúc để nâng cao
hiệu quả chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non. Từ những vấn đề lí luận và thực
tiễn trên đây chúng tôi chọn đề tài “ Nghiên cứu ảnh hưởng của trí tuệ cảm
xúc đến hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non” làm đề tài nghiên
cứu của mình. Hi vọng rằng, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm
phong phú cơ sở lí luận và thực tiễn về TTCX.

2.Mục đích nghiên cứu
- Vận dụng hệ thống lý luận về TTCX để tìm hiểu thực trạng TTCX của
GVMN.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của TTCX đến hoạt động nghề nghiệp của GVMN
và đề xuất một số biện pháp nâng cao TTCX cho GVMN.
3.Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu
Giáo viên mầm non một số trường mầm non thành phố Hà Nội
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Mức độ trí tuệ cảm xúc của GVMN và ảnh hưởng của TTCX đến hoạt động
nghề nghiệp của họ.

7


4. Giả thuyết khoa học
TTCX là một yếu tố rất quan trọng đưa đến thành công trong cuộc sống con
người nói chung và trong công tác giáo dục của GVMN nói riêng. TTCX của
giáo viên một số trường mầm non Thành phố Hà Nội hiện nay chưa cao. Điều
đó có thể ảnh hưởng không tốt đến hoạt động nghề nghiệp của GVMN. Nếu
tìm ra được các biện pháp nâng cao TTCX cho GVMN thì sẽ ghóp phần đưa
đến thành công trong hoạt động nghề nghiệp của họ.
5.Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu tổng quan về TTCX của các tác giả trong và ngoài nươc.
- Xây dựng cơ sở lý luận về TTCX của GVMN và ảnh hưởng của nó đến
hoạt động nghề nghiệp của họ.

5.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Nghiên cứu thực trạng TTCX của GVMN và ảnh hưởng của nó đến hoạt động
nghề nghiệp của họ. Xác định nguyên nhân dẫn đến thực trạng TTCX của
GVMN.
- Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nâng cao TTCX cho GVMN.
6.Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Phân tích, tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm xây dựng cơ

sở lí luận về TTCX và ảnh hưởng của nó tới hoạt động nghề nghiệp của
GVMN.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1.
Phương pháp trắc nghiệm

8


Sử dụng test trí thông minh vật liệu hình Wiener Matrizen test (WMT) của
nhà tâm lí học người Áo Anton K. Formann để đo mức độ trí thông minh của
GVMN
Sử dụng test TTCX của John D. Mayer, Peter Salovey, David R. Caruso
(MSCEIT) được soạn thảo năm 1999 để đo mức TTCX của GVMN.
6.2.2.

Phương pháp quan sát

Quan sát những biểu hiện TTCX của GVMN thông qua các hoạt động nghề
nghiệp của họ; ảnh hưởng của TTCX tới hiệu quả hoạt động nghề nghiệp của
họ.
6.2.3.

Phương pháp điều tra viết

Sử dụng phiếu hỏi để điều tra, xác định rõ thêm mức TTCX của GVMN và
ảnh hưởng của TTCX tới hoạt động nghề nghiệp của họ.
6.2.4.

Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia


Tham khảo và xin ý kiến chuyên gia thẩm định những tiêu chí đo các biểu
hiện TTCX của giáo viên mầm non trong hoạt động sư phạm.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Chúng tôi sử dụng một số công thức toán học thống kê: Công thức tỉ lệ %;
tính đểm trung bình cộng; xác định độ lệch chuẩn; … để xử lí kết quả nghiên
cứu
thực tiễn. Các số liệu thống kê được xử lí trên phần mềm SPSS.
7.Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tìm hiểu biểu hiện về mức TTCX của GVMN và ảnh
hưởng của nó đến hoạt động nghề nghiệp của họ. Trên cơ sở đó xây dựng một
số biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao TTCX cho GVMN.
- Địa bàn nghiên cứu: Một số trường mầm non Thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Thực hiện trong 1 năm (2011 – 2012).
8.Đóng góp mới của đề tài
9


Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần xây dựng cơ sở lí luận và thực
tiễn về TTCX của giáo viên mầm non. Chỉ ra mối quan hệ ảnh hưởng của
TTCX đến hiệu quả hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non. Trên cơ sở
đó đề xuất được một số biện pháp nhằm nâng cao TTCX cho giáo viên mầm
non.

Chương I: Những vấn đề cơ bản về trí tuệ cảm xúc
1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trí tuệ cảm xúc là một hướng nghiên cứu mới về trí tuệ, trong những năm
gần đây được rất nhiều nhà tâm lý học quan tâm.
Trí tuệ cảm xúc (Emotional intelligence – EI) thường dùng dưới hàm nghĩa
nói về chỉ số cảm xúc (Emotional intelligence quotient – EQ) của mỗi cá nhân.

Chỉ số này mô tả khả năng, năng lực, kĩ năng hay khả năng tự nhận thức để

10


xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của bản thân mỗi người, của người
khác, của các nhóm cảm xúc.
Bàn về TTCX có rất nhiều quan điểm khác nhau, và với mỗi một thời điểm
nhất định các nhà nghiên cứu lại đưa ra cách nhìn mới về trí tuệ cảm xúc.
1.1.1.

Những nghiên cứu về TTCX trên thế giới

Nguồn gốc sâu xa nhất của TTCX có thể truy ngược về việc Darwin nghiên
cứu tầm quan trọng của sự diễn đạt cảm xúc của các cá thể trong quá trình
chọn lọc tự nhiên và các thay đổi thích nghi. Ngay từ đầu thế kỷ XX, mặc dù
các định nghĩa truyền thống về trí tuệ nhấn mạnh tới yếu tố nhận thức như là
trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề, nhiều nhà khoa học đã bắt đầu nhận ra
tầm quan trọng của khía cạnh "ngoài nhận thức" (non-cognitive). Ví dụ như,
ngay từ những năm 1920, E. L. Thorndike đã sử dụng khái niệm "hiểu biết xã
hội" để miêu tả kĩ năng hiểu và quản lí người khác [10].
Tương tự, năm 1940 David Wechsler đã miêu tả ảnh hưởng của yếu tố phi
trí tuệ lôgic tới các ứng xử thông minh, và cho rằng các mô hình của chúng ta
về sự thông minh vẫn chưa hoàn thiện cho tới khi chúng ta có thể miêu tả thích
đáng các yếu tố này.
Wayne Payne là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ TTXC trong luận án tiến
sỹ của mình: "Nghiên cứu về xúc cảm: Phát triển TTCX" vào năm 1985. Tuy
nhiên, thuật ngữ gần tương tự đã xuất hiện trước đó, Hanscarl Leuner (1966)
[10]. Stanley Greenspan cũng đồng thời đề xuất mô hình TTXC này năm 1985,
nối tiếp Howard Gardner (1983) là người có công lớn trong việc xem xét lại lý

thuyết TTCX trong tâm lý học. Mô hình đa trí tuệ nổi tiếng của ông cho rằng,
trí tuệ cá nhân gồm hai loại: trí tuệ nội nhân cách (Intrapersonal intelligence)
và trí tuệ liên nhân cách (Interpersonal intelligence). Trong quan sát của ông,
các kiểu trí tuệ truyền thống như IQ không thể giải thích một cách đầy đủ khả
năng nhận thức của con người. Vì vậy thậm chí với những khái niệm cho trước
11


đến những khái niệm biến đổi, đều có một tin tưởng chung rằng những định
nghĩa truyền thống về trí tuệ đang thiếu khả năng giải thích những kết quả
trước đó.
Rewen Bar – On nhà tâm lý học người Israel (quốc tịch Mỹ) là người đầu
tiên đưa ra thuật ngữ EQ ( Emotional intelligence Quotient) trong luận án tiến
sĩ của mình (1985). Ông đặt TTCX trong phạm vi lý thuyết nhân cách, đưa ra
mô hình Well –being (1997) với ý định trả lời câu hỏi “Tại sao người này có
khả năng thành công trong cuộc sống hơn những người khác?” . Ông đã nhận
diện được 5 khu vực bao quát về mặt chức năng phù hợp với cuộc sống bao
gồm: các kỹ năng hiểu mình, các kỹ năng hiểu người khác, tính thích ứng,
kiểm soát stress và tính khí.
Theo Bar-On TTCX là trí thông minh thể hiện qua một tập hợp các năng lực
chung, các năng lực cụ thể và các kỹ năng… đặc trưng cho sự tích lũy những
hiểu biết được dùng để đương đầu với cuộc sống một cách hiệu quả .
Bar-On là người đầu tiên dùng chỉ số EQ để đo lường TTCX. Ông cho rằng:
TTCX là tổ chức các năng lực phi nhận thức và những kỹ năng chi phối năng
lực của cá nhân nhằm đương đầu có hiệu quả với những đòi hỏi và sức ép của
môi trường.
Peter Salovey, năm 1977, trong cuốn “Sự phát triển cảm xúc và trí tuệ cảm
xúc” cho rằng: Trí tuệ cảm xúc bao gồm khả năng tiếp nhận đúng, đánh giá và
thể hiện cảm xúc, khả năng đánh giá và phân loại những cảm xúc giúp định
hướng suy nghĩ, khả năng hiểu và điều khiển, định hướng cảm xúc nhằm gia

tăng sự phát triển cảm xúc và trí tuệ. Peter Salovey và John Mayer (1990) đã
đưa ra lý thuyết trí tuệ cảm xúc trong bài báo “Trí tuệ cảm xúc”, lý thuyết này
có ảnh hưởng mạnh nhất tới lý thuyết trí tuệ cảm xúc thời điểm đó. Theo hai
tác giả này, TTCX được nhận diện như là năng lực làm chủ, điều khiển, kiểm
soát xúc cảm, tình cảm của mình và của người khác để sử dụng thông tin này
12


định hướng cách suy nghĩ và cách hành động của một cá nhân. Hai tác giả này
đã đưa ra một mô hình TTCX nhấn mạnh đến mặt nhận thức. Mô hình này tập
trung vào những khả năng tâm trí cụ thể phục vụ cho việc nhận biết và tổ chức
điều khiển xúc cảm (ví dụ: biết người khác đang cảm nhận điều gì là một năng
lực tâm lý, trái lại cởi mở, thân thiện là một hành vi). Năm1997, P.Mayer và
Salovey đưa ra định nghĩa: “TTCX như là năng lực nhận biết, bày tỏ xúc cảm,
hòa xúc cảm vào suy nghĩ, hiểu suy luận với xúc cảm, điều khiển, kiểm soát
xúc cảm của mình và của người khác”
Mô hình TTCX này là kiểu mô hình thuần nhất năng lực, gồm bốn năng lực
cơ bản, tương ứng với bốn mức độ từ thấp lên cao:
-

Nhận thức và bày tỏ cảm xúc.
Hòa cảm xúc vào suy nghĩ.
Thấu hiểu và biết phân tích cảm xúc.
Điều khiển các xúc cảm một cách có suy nghĩ, có tính toán.

Theo Edawrd De Bono (nhà tâm lý học người Anh), TTCX là loại trí tuệ
giúp cá nhân đi sâu phân tích, khám phá và làm bộc lộ cảm xúc của chủ thể ra
ngoài. Nó là loại trí tuệ trực giác, linh cảm và phi logic [24.176].
Boyatzis (1999) cho rằng: TTCX là năng lực nhận biết những tình cảm của
mình và của người khác để tự thúc đẩy mình, kiểm soát, điều khiển xúc cảm

của mình và của người khác.[23.98].
Daniel Goleman, một tiến sĩ Tâm lý học của Đại học Harward, một người
phụ trách chuyên mục khoa học của tờ Times, tập hợp những kết quả nghiên
cứu về TTCX và viết thành cuốn sách gây tiếng vang lớn ở Mỹ với nhân đề
“TTCX : Tại sao nó lại có thể quan trọng hơn IQ đối với tính cách, sức khỏe
và thành công trong cuộc đời?” (Emotional intelligence – Why it can matter
more than IQ for Character, Heath and lifelong Achievement?) Từ đây EQ trở
thành yếu tố quan trọng để lựa chọn con người vào vị trí lãnh đạo. Daniel
Goleman nghiên cứu và đã đưa ra mô hình 5 lớp về TTCX theo lý thuyết hiệu
13


quả thực hiện công việc, được tác giả mô tả trong cuốn “Làm việc với trí tuệ
cảm xúc” công bố năm 1998. Lý thuyết này của ông đề cập đến năng lực dựa
trên một loạt các năng lực cụ thể, mà các năng lực cụ thể này là sự hòa trộn các
kỹ năng nhận thức với các kỹ năng xúc cảm tình cảm nhưng lại tách biệt khỏi
các năng lực được đo trong các trắc nghiệm trí tuệ (IQ) truyền thống.
Mô hình TTCX do D.Goleman đề xuất là một mô hình kiểu hỗn hợp gồm 5
lĩnh vực:
-

Hiểu biết về xúc cảm của mình (Knowing one’s emotions)
Quản lý xúc cảm (Managing emotions)
Tự thúc đẩy/ động cơ hóa mình (Motivating oneselt)
Nhận biết xúc cảm của người khác (Reconizing emotions in others)
Xử lý các mối quan hệ (Handling relationships)

D.Goleman là tác giả của một loạt tác phẩm: “TTCX: Làm thế nào để biến
những xúc cảm của mình thành trí tuệ” (1997), “Làm việc với trí tuệ cảm xúc”
(1998), “Nghệ thuật lãnh đạo cơ bản: Việc nhận thấy sức mạnh của TTCX”

(2002), “Những xúc cảm dễ bị phá vỡ: Làm thế nào để vượt qua” (2003)…
Những nghiên cứu của ông không chỉ dừng lại ở việc xác định bản chất của
TTCX mà còn tìm ra những biện pháp giáo dục TTCX một cách hiệu quả.
Như vậy, mặc dù TTCX là một vấn đề mới được nghiên cứu, song trên thế
giới đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trong đó phải kể đến ba
đại diện tiêu biểu sau:
- Rewen Bar-On với mô hình hỗn hợp hay pha trộn: bằng cách hòa trộn vào
trí tuệ cảm xúc những đặc tính phi năng lực, cách tiếp cận trí tuệ cảm xúc dưới
góc độ nhân cách. Mô hình của Bar-on dự đoán thành công với tư cách là “sản
phẩm của cái mà một người cố gắng đạt được, cố gắng hoàn thành…(1997).
- D.Goleman đề xuất lý thuyết hiệu quả thực hiện công việc, trong đó đưa
ra kiểu mô hình hỗn hợp, mô hình TCCX bao gồm các năng lực tâm lý và các
phẩm chất nhân cách. Ông cho rằng mô hình hỗn hợp này có độ dự đoán rất
14


cao. Đặc biệt mô hình này giúp cho dự doán và phát triển những năng lực
vượt trội của những cá nhân xuất sắc trong công việc của từng loại nghề
nghiệp, ở từng cấp độ (2005).
- J.Mayer và P.Salovey trong lý thuyết của mình đã “giới hạn TTCX vào
một khái niệm năng lực tâm lý và tách TTCX ra khỏi những nét tích cực quan
trọng” của nhân cách (J.Mayer, Salovey,1993,1997). Vì vậy, mô hình của hai
ông là kiểu mô hình thuần nhất năng lực, chú ý vào khái niệm hạt nhân của
TTCX, đó chính là các xúc cảm và sự tương tác giữa các xúc cảm và ý nghĩ.
Việc xác định TTCX như là một năng lực tâm lý đã tách biệt nó khỏi các loại
trí thông minh truyền thống (trí thông minh dùng lời và trí thông minh không
dùng lời), giúp cho việc xác định được cấu trúc bên trong TTCX và ứng dụng
nó trong cuộc sống.
1.1.2.Những nghiên cứu về TTCX ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ “TTCX” đã bắt đầu được nhắc tới khá nhiều song số

lượng các công trình nghiên cứu về nó chưa nhiều.
Năm 1997, thuật ngữ “TTCX” được chính thức đề cập tới tại một xemina
của các nhà nghiên cứu thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KX07 do GS.TSKH. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm.
Tạp chí Tâm lý học của Viện Tâm lý học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội
và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) lần đầu tiên
đăng một loạt bài chuyên khảo về TTCX của PGS. Nguyễn Huy Tú, bài đầu
tiên in trong số 6, tháng 12/2000 với tiêu đề: “TTCX – bản chất và phương
pháp chẩn đoán”. Trong khuôn khổ chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước
KX-05 chu kì 2001 - 2005, do GS.TSKH. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm,
TTCX được xác định là một trong ba thành tố trí tuệ (trí thông minh, trí sáng
tạo, trí cảm xúc) đang được các nhà tâm lý học và giáo dục học của Viện khoa
học giáo dục nghiên cứu trong khuôn khổ đề tài cấp nhà nước KX-05-06.
15


Năm 2002, Nguyễn Thị Dung đã tìm hiểu TTCX và thử đo đạc loại trí tuệ
này ở giáo viên tiểu học trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ Tâm lý học được
thực hiện tại Viện Khoa học giáo dục
Năm 2004, Dương Thị Hoàng Yến đã nghiên cứu TTCX của giáo viên tiểu
học trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ tâm lý học được thực hiện tại Đại học Sư
phạm Hà Nội.
Năm 2005, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội do PGS Trần Trọng Thủy chủ nhiệm đã sử dụng công cụ trắc
nghiệm để đo chỉ số TTCX của sinh viên hai trường Đại học Sư phạm Hà Nội
và Đai học Sư phạm Thái Nguyên.
Nguyễn Công Khanh với Nghiên cứu TTCX ở học sinh THPT.
Năm 2008, Nguyễn Thị Dung với Luận án tiến sĩ về TTCX với công tác
chủ nhiệm lớp ở trường THCS và con đường nâng cao loại trí tuệ này được
thực hiện tại Viện Khoa học giáo dục.
Năm 2009, Dương Thị Hoàng Yến tiếp tục với đề tài TTCX của giáo viên

tiểu học để bảo vệ luận án tiến sĩ tâm lý học, thực hiện tại Viện Tâm lí Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam.
Tiếp đó còn có một số nghiên cứu về các mặt khác nhau của trí tuệ cảm
xúc, song chưa thật sự thể hiện chiều sâu của vấn đề.
Như vậy, những công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn tâm lí học trong
và ngoài nước đề cập khá nhiều tới “TTCX” và đã đạt được những kết quả
bước đầu đem đến cho xã hội hướng suy nghĩ mới về trí tuệ con người. Tuy
vậy, các công trình nghiên cứu chưa tập trung thích đáng vào việc nghiên cứu
biện pháp nâng cao TTCX của cá nhân trong hoạt động nghề nghiệp. Đặc biệt,
mảng đề tài nghiên cứu TTCX và biện pháp nâng cao TTCX của người giáo
viên mầm non chưa được nghiên cứu đúng mức.
1.2. Trí tuệ, xúc cảm và trí tuệ cảm xúc
16


1.2.1.

Trí tuệ

Trí tuệ - một vấn đề luôn được nhắc đến trong cuộc sống con người. Nó có
tầm quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Và vì vậy khi bàn về
trí tuệ đã có rất nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau. Với mỗi cách tiếp cận
khác nhau lại có một quan niệm về trí tuệ. Chúng ta cùng sơ lược qua một số
quan điểm về trí tuệ nói chung.
1.2.1.1.

Các quan niệm về trí tuệ

Có thể nói trí tuệ là một lĩnh vực mà trong khoa học và ngay cả sinh hoạt
hàng ngày có rất nhiều tên gọi khác nhau: trí tuệ, trí thông minh, trí lực, trí

khôn, … Những thuật ngữ này đều có những sắc thái riêng và dùng trong các
văn cảnh
xác định. Vậy, cần có sự thống nhất trong việc dùng các thuật ngữ này.
Trong Từ điển tiếng Việt: Trí tuệ là những suy nghĩ, tư duy của con người,
bao gồm những khả năng tưởng tượng, ghi nhớ, phê phán, lý luận, thu nhận tri
thức... có thể tiến lên tới phát minh khoa học, sáng tạo nghệ thuật.Trí khôn:
Khả năng suy nghĩ và hiểu biết; trí năng: năng lực hiểu biết, suy nghĩ; trí lực:
năng lực trí tuệ; trí thông minh: có hai nghĩa, 1. Có trí lực tốt, hiểu nhanh, tiếp
thu nhanh; 2. Nhanh trí và khôn khéo, tài tình trong cách ứng đáp, đối phó.
Trong tiếng Latinh, intellectus (trí tuệ) có nghĩa là trí năng sắc sảo, sự hiểu
biết chu đáo.
Theo Nguyễn Khắc Viện (1991), có sự khác nhau giữa trí khôn và trí tuệ.
Trí khôn là khả năng hành động thích nghi với những biến động của hoàn
cảnh, thiên về hành động. Trí tuệ cũng là khả năng thích nghi nhưng thiên về
tư duy trừu tượng.
Theo Phạm Hoàng Gia (1979), Nguyễn Kế Hào (1985)… trí thông minh là
một phẩm chất cao của trí tuệ, mà cốt lõi là tính chủ động, linh hoạt và sáng

17


tạo của tư duy để giải quyết tối ưu vấn đề nào đó trong những tình huống mới,
phức tạp.
Như vậy, trí khôn, trí thông minh, trí năng, trí lực,.. là các cách quan niệm
khác nhau về sự nhận thức của con người trong từng hoàn cảnh xác định. Nó
chính là sự thể hiện các mức độ khác nhau của trí tuệ, là những bình diện của
năng lực cá nhân. Và thuật ngữ “trí tuệ” là thông dụng và thể hiện sự bao quát
hơn cả. Có quan niệm cho rằng, trí tuệ chính là trí thông minh như: W.Stern,
J.Guthke, F.Klix và J.Lander. Lại có quan niệm “trí tuệ khác với trí thông
minh” như: E. Jaques (GS, xã hội học , Đại học Brunel ở Anh), thì theo ông

“Năng lực trí tuệ là phức hợp những năng lực giúp cho mỗi cá nhân có khả
năng làm việc và đạt những mục tiêu đã đề ra”, “năng lực trí tuệ là năng lực
của cá nhân tham gia giải quyết vấn đề và những công việc hằng ngày bằng
hành vi có định hướng mục tiêu”.
Như vậy, có bao nhiêu nhà nghiên cứu về trí tuệ thì có bấy nhiêu quan điểm
về nó. Do đó, khó có thể bắt mọi người tuân theo một định nghĩa chung về trí
tuệ. Song các nhà nghiên cứu cũng đã đúc kết và thấy rằng, có thể phân các
quan điểm về trí tuệ thành ba nhóm: 1. Coi trí tuệ là khả năng hoạt động lao
động và học tập; 2. Đồng nhất trí tuệ với năng lực tư duy trừu tượng, 3. Trí tuệ
là năng lực thích ứng tích cực của cá nhân.
- Nhóm quan niệm thứ nhất đã có từ lâu và khá phổ biến. Theo nhà tâm lý
học người Nga, Ananhiex, trí tuệ là đặc điểm tâm lý phức tạp của con người
mà kết quả của công việc học tập và lao động phụ thuộc vào nó. Thực ra, mối
quan hệ giữa học tập đặc biệt là kết quả học tập) với khả năng trí tuệ của cá
nhân đã được các nhà sư phạm quan tâm từ lâu. Nhiều công trình nghiên cứu
đã cho thấy, giữa hai yếu tố này có quan hệ nhân quả với nhau. Tuy nhiên, đây
không phải là quan hệ tương ứng [1-1]. Ngay từ những năm 1905, nhà tâm lý
học Pháp A.Binet (1857-1911) đã nghiên cứu (bằng test trí lực) và xác định
18


được những học sinh học kém do khả năng trí tuệ và những em do lười học
hoặc do nguyên nhân khác.
- Nhóm quan niệm thứ hai, về thực chất, đã quy hẹp khái niệm trí tuệ và các
thành phần cốt lõi của nó là tư duy và gần như đồng nhất chúng với nhau.
(L.Terman

91937),

G.X.Cootxchuc


91871),

V.A.Cruchetxki

(1976),

R.Sternberg (1986), D.N.Perskins (1987).
- Nhóm quan niệm thứ ba, coi trí tuệ là khả năng thích ứng của cá nhân
được phỏ biến hơn cả và thu hút nhiều nhà nghiên cứu: U.Sterner, G.Piagiet,
Đ.Wechsler, R.Zazzro… Theo Piagiet (1969), bất kì trí tuệ nào cùng đều là một
sự thích ứng. Đ.Wechsler cho rằng (1939): trí tuệ là khả năng tổng thể để hoạt
động một cách có suy nghĩ, tư duy hợp lý, chế ngự được môi trường xung
quanh. Trí tuệ là khă năng xử lí thông tin để giải quyết vấn đề và nhanh chóng
thích nghi với tình huống mới (F.Raynal, A.Rieunier -1997). Trí tuệ là khả
năng hiểu các mối quan hệ sẵn có giữa các yếu tố của tình huống và thích nghi
để thực hiện cho lợi ích bản thân (N.Sillamy-1997).
Thực ra các quan niệm về trí tuệ không loại trừ nhau. Trong thực tiễn không
có quan niệm nào chỉ chú ý đến duy nhất một khía cạnh năng lực tư duy hay
khả năng thích ứng, mà thường đề cập hầu hết tới các nội dung đã nêu. Sự
khác biệt giữa các quan niệm chỉ là ở chỗ khía cạnh nào được nhấn mạnh và
nghiên cứu sâu hơn. Tuy nhiên, để có cách hiểu bao quát vấn đề trí tuệ, cần
tính đến những đặc trưng của nó: 1. Trí tuệ là yếu tố tâm lý có tính độc lập
tương đối với các yếu tố tâm lý khác của cá nhân. 2. Trí tuệ có chức năng đáp
ứng mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể với môi trường sống, tạo ra sự
thích ứng tích cực của cá nhân. 3. Trí tuệ được hình thành và biểu hiện trong
hoạt động của chủ thể. 4. Sự phát triển của trí tuệ chịu ảnh hưởng của yếu tố
sinh học của cơ thể và chịu sự chế ước của các yếu tố văn hóa – xã hội.
1.2.1.2.


Cấu trúc trí tuệ
19


Cũng như định nghĩa về trí tuệ, có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc
trí tuệ. Căn cứ vào các phương pháp tiếp cận khác nhau, chúng ta có các mô
hình cấu trúc khác nhau. Theo phương pháp phân tích nhân tố ta có mô hình
cấu trúc trí tuệ hai thành phần và đa thành phần. Theo phương pháp phân tích
đơn vị ta có mô hình cấu trúc trí tuệ theo lý thuyết hoạt động và lý thuyết nhiều
dạng trí tuệ.
Xét theo phương pháp phân tích nhân tố ta có:
Mô hình cấu trúc trí tuệ hai thành phần
- Mô hình trí tuệ C. Spearman
C. Spearman, nhà tâm lý học người Anh (1863 -1945) cho rằng, trí tuệ con
người là một cấu trúc gồm hai nhân tố:
+ Nhân tố G: đó là sự linh hoạt, mềm dẻo của hệ thần kinh.
+ Nhân tố S: là những hiểu biết, năng lực, năng khiếu chuyên biệt.
Hai yếu tố này hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong mỗi cá nhân tạo nên khả
năng trí tuệ của họ. Đây là một mô hình cấu trúc đã mở ra hướng ngiên cứu
mới trong trí tuệ đặc biệt là đối với các trắc nghiệm đo lường. Nhưng cách
phân chia này còn quá chung chung nên giá trị thực tiễn còn chưa cao.
- Mô hình trí tuệ của N.A. Menchinxcaia
Theo Menchinxcaia và E.N.Canbanova – Menle cấu trúc trí tuệ gồm hai
thành phần: Tri thức về đối tượng (cái được phản ánh) và các thủ thuật trí tuệ
(phương thức phản ánh).
Với mô hình cấu trúc này, N.A. Menchinxcaia chỉ ra vấn đề phát triển trí
tuệ cho trẻ không chỉ là sự tăng lên về số lượng tri thức hoặc chỉ nhằm vào thủ
thuật trí tuệ mà cần quan tâm phát triển đồng đều hai thành phần này. Tuy
nhiên, cấu trúc hai thành phần này cũng còn quá trừu tượng và mới chủ yếu
quan tâm tới các thao tác trí óc, còn hàng loạt thao tác khác (kể cả thao tác vật

chất) chưa được đề cập.
20


Ngoài hai mô hình trên có thể dẫn ra nhiều mô hình khác. Chẳng hạn, theo
R.Cattell (1967), trong trí tuệ của cá nhân có hai thành phần là: “trí lỏng”
(Fluid intelligence) có từ khi mới sinh, nó là cơ sở cho khả năng tư duy, trí
nhớ, khả năng lập luận .v.v; “trí tuệ tinh luyện” (crystallized intelligence), bao
gồm những kiến thức thu được qua học tập trong cả đời người.
Cũng tương tự như R.Cattell, Hebb (1974) chia trí tuệ thành hai thành
phần: “trí tuệ A” và “trí tuệ B”. Trí A là tiềm năng, có từ khi mới sinh và là
nguyên liệu cơ bản cho sự phát triển các năng lực trí tuệ sau này, còn trí B là
kết quả của sự tương tác giữa trí tuệ A với môi trường.
Theo một cách khác, Jensen (1969), chia trí tuệ thành hai mức: trí tuệ cụ
thể, thực hành (trình độ I), tham gia vào các hoạt động đời thường và trí tuệ
trừu tượng (trình độ Ii), tham gia vào các hoạt động nhận thức khoa học.
Cũng theo xu hướng trên, Nguyễn Khắc Viện (1991) đề nghị hai mức trí
tuệ: trí làm và trí nghĩ. Các mô hình theo kiểu phân mức như trên, chúng ta còn
gặp lại khi phân tích sự phát triển của trí tuệ cá nhân.
Mô hình cấu trúc trí tuệ đa nhân tố
Phương pháp phân tích nhân tố đã thực sự kích thích các nhà nghiên cứu đi
sâu vào các tầng vi mô của trí tuệ. Nhờ đó, ngày nay có thể kể ra vô số cấu trúc
đa thành phần.
- Mô hình cấu trúc đa nhân tố của L.L. Thurtone
L.L.Thurtone (1887 – 1955) là nhà tâm lí học Mỹ. Theo ông, có nhiều yếu
tố trong trí tuệ cá nhân tham gia vào sự thành công của mọi trắc nghiệm, như
tri giác, trí nhớ, ngôn ngữ.v.v. Bằng phương pháp thống kê, ông đã làm rõ các
yếu tố đặc trưng trong trí tuệ cá nhân và gọi đó là các yếu tố trí tuệ nguyên
thủy. Theo ông có 7 yếu tố:
+ Khả năng hiểu và vận dụng số, bao gồm các thao tác với các con số - yếu

tố N (Number)

21


+ Hiểu (lĩnh hội) được ngôn ngữ (nói và viết) – yếu tố V (Verbal
comprehension)
+ Sự hoạt bát ngôn ngữ, biểu hiện qua khả năng dùng từ ngữ chính xác và
linh hoạt – yếu tố W ( Word fluency)
+ Khả năng về không gian, bao hàm khả năng biểu tượng về vật thể trong
không gian – yếu tố S ( Space).
+ Trí nhớ - yếu tố M ( Memory).
+ Khả năng tri giác – yếu tố P (Perceptual).
+ Khả năng suy luận – yếu tố R ( Reasoning)
Mô hình trí tuệ đa nhân tố của L.L.Thurtone là một đóng ghóp lớn cho
hướng phân tích nhân tố trong nghiên cứu trí tuệ. Tuy nhiên, ngày nay, dễ dàng
nhận ra mô hình trên chỉ là trường hợp cụ thể trong nhiều mô hình loại này.
- Mô hình cấu trúc ba chiều của J.P. Guilford
J.P.Guilford với hai đóng góp lớn: Cấu trúc nội dung của trí tuệ và quan
điểm về trí tuệ sáng tạo (1959).
Xét về cấu trúc trí tuệ, ông là người đưa ra một mô hình chi tiết và cụ thể
nhất. Theo ông, trí tuệ gồm có: mặt thao tác, nội dung sự vật, sản phẩm.
+ Mặt thao tác gồm các yếu tố : khả năng nhận thức ; trí nhớ; tư duy hội tụ;
tư duy phân kì ; khả năng đánh giá.
+ Mặt nội dung phản ánh: hình ảnh (tượng hình); tượng trưng (biểu tượng);
ngữ nghĩa (khái niệm); hành vi (ứng xử).
+ Mặt sản phẩm: Đơn vị (cá thể): các yếu tố giản đơn; lớp (loại): toàn bộ
các yếu tố có đặc tính giống nhau; quan hệ: tất cả những gì liên kết các yếu tố
hay các lớp; hệ thống; chuyển hóa; tổ hợp.
Mô hình cấu trúc ba mặt của trí tuệ gồm 120 yếu tố và được gọi theo nhiều

tên: Khối vuông trí tuệ; Mô hình ba chiều; Mô hình cấu trúc trí tuệ - hình ảnh.
Với mô hình chi tiết này, Guilford hi vọng sẽ chỉ ra một cách sáng tạo các
bài tập cần thiết để phát triển các kỹ năng trí tuệ cá nhân.
Trong mô hình trí tuệ này, J.P. Guilford cho rằng, trong trí tuệ có hai thành
phần: Thứ nhất: tư duy hội tụ (convergence thinging), thứ hai: tư duy phân kỳ
(Divergence thinging).

22


Ở đây Guilford đã đặt các nhà nghiên cứu trí tuệ theo xu hướng trắc nghiệm
truyền thống trước vấn đề có tính phương pháp luận: trí tuệ con người không
chỉ bao gồm các thành phần logic, được biểu hiện qua các bài trắc nghiệm có
tính khuôn mẫu tương ứng, mà còn có cả các thành phần sáng tạo, nhưng đã
không được phản ánh trong các trắc nghiệm hiện hành.
- Mô hình cấu trúc trí tuệ của R.J. Sternberg
Robert J. Sternberg là giáo sư trường đại học Yale (Mỹ). Ông cho rằng, bất
cứ sự giải thích nào về trí tuệ cũng phải giải quyết được ba vấn đề:
Thứ nhất, phải có khả năng liên kết trí tuệ với khả năng bên trong của con
người, giải thích được cái gì xảy ra khi con người suy nghĩ một cách thông
minh.
Thứ hai, có khả năng giải thích mối quan hệ giữa thế giới bên ngoài với trí
tuệ con người, giải thích được trí tuệ vận hành trong thế giới hiện thực như thế
nào.
Thứ ba, phải liên kết giữa thao tác trí tuệ với kinh nghiệm cá nhân.
Theo R.Sernberg (1986), năng lực trí tuệ và năng lực tư duy không thể tách
rời nhau, mặc dù năng lực trí tuệ rộng hơn năng lực tư duy. Trên cơ sở đó ông
xây dựng thuyết ba thành phần trí tuệ để giải thích các quan điểm của mình.
Ông gọi tên ba thành phần đó là: Cấu trúc, kinh nghiệm và điều kiện.
Thành phần cấu trúc. Đây chính là cấu trúc của kỹ năng tư duy. Trong cấu

trúc này có ba thành phần: Siêu cấu trúc, thực hiện và tiếp nhận .
Kinh nghiệm là khía cạnh thứ hai của trí tuệ. Nó cho phép chỉ ra trong kinh
nghiệm cá nhân chỗ nào trí tuệ cần tập trung và mang tính quyết định. Kinh
nghiệm làm tăng khả năng giải quyết các nhiệm vụ mới và giúp cho việc xử lý
thông tin có tính chất tự động nhiều hơn.
Ngữ cảnh là khía cạnh thứ ba trong mô hình trí tuệ của Sernberg, là mối
quan hệ giữa các hành vi trí tuệ của cá nhân với hoàn cảnh bên ngoài. Nói
cách khác, lực đẩy của trí tuệ là sự thích ứng.
Tóm lại, mô hình của Sternberg đã cung cấp một quan điểm khá phong phú
về bản chất của trí tuệ. Nó gợi ý muốn biết một cá nhân thông minh như thế
23


nào cần xem xét: 1. Các kỹ năng xử lý thông tin của họ; 2. Kinh nghiệm của
họ về những thông tin (những tình huống, bài tập) đó; 3. Ngữ cảnh trong đó
họ đang thực hiện các bài tập được giao (văn hóa, thời đại, tuổi tác…).
- Mô hình cấu trúc trí tuệ của D.N. Perkins
D.Perkins là giáo sư tâm lí học, trường Đại học Harward. Ông là người có
xu hướng tổng hợp khi nghiên cứu vấn đề trí tuệ, tư duy. Theo ông, không nên
có quan niệm hẹp hòi về trí tuệ, quy nó bằng trắc ngiệm và đánh giá qua chỉ số
IQ.
Theo D.Perkins, hiện có ba quan niệm phổ biến về trí tuệ:
+ Trí tuệ là năng lực cá nhân: quy sức mạnh trí tuệ vào yếu tố sinh học.
+ Trí tuệ là các thủ thuật trí tuệ: Có thể dạy và huấn luyện được.
+ Trí tuệ là trình độ chuyên môn: Trí tuệ phụ thuộc vào sự hiểu biết nội
dung chuyên môn và lập luận trên lĩnh vực đó.
D.N.Perkins cho rằng, nếu quan niệm riêng rẽ như vậy, thì không có lí
thuyết nào kể trên có thể giải quyết triệt để vấn đề trí tuệ. Theo ông, cấu trúc trí
tuệ phải
bao hàm cả ba nội dung đó và có thể mô tả bằng công thức.

Trí tuệ = Năng lực + thủ thuật + trình độ chuyên môn.
Nghĩa là, trí tuệ là kết quả, là sự kết hợp giữa khả năng của hệ thần kinh với
khả năng suy nghĩ và hành động trên cơ sở nội dung tri thức chuyên môn.
Như vậy, mỗi mô hình cấu trúc trí tuệ theo phương pháp phân tích nhân tố
đều có điểm hợp lý, vận đụng được trong thực tiễn. Tuy nhiên, dễ dàng nhận
thấy hầu hết các mô hình cấu trúc theo hướng tiếp cận phân tích nhân tố trên
mắc những hạn chế cố hữu: 1. Việc phân tích trí tuệ với tư cách là tổng thể trọn
vẹn thành các yếu tố riêng đã tạo thuận lợi cho việc đo đạc và lượng hóa các
yếu tố đó, nhưng đồng thời làm mất bản chất, nội dung tâm lí của trí tuệ; làm
lu mờ quan hệ chức năng và tương hỗ giữa các yếu tố của nó. 2. Khó phát hiện
cơ chế hình thành và vận hành của trí tuệ trong từng thời điểm và trong cả quá
trình phát triển của nó. 3. Không xác định được sự chế ước của các yếu tố văn

24


hóa – xã hội đối với sự phát triển trí tuệ của cá nhân. Ta có thể khắc phục
những hạn chế trên, bằng cách tiếp cận cấu trúc trí tuệ theo hướng phân tích
đơn vị.
Xét theo phương pháp phân tích đơn vị ta có:
Phương pháp phân tích đơn vị trong tâm lí học khác với phương pháp phân
tích nhân tố, nó không chia nhỏ thành các phần tử biệt lập nhau, mà là chia
thành các đơn vị nhỏ hơn cho đến đơn vị cuối cùng mà ở đó vẫn bảo toàn được
bản chất cố hữu của sự vật ban đầu. Chẳng hạn, phân chia nước thành phân tử
nước, phân tích sinh học là tìm hiểu tế bào sống của cơ thể…Trong tâm lý học,
có thể nói L.X.Vưgôtxki (1997) là người đầu tiên vận dụng phương pháp phân
tích đơn vị vào nghiên cứu các hiện tượng tâm lý nói chung.
- Cấu trúc trí tuệ theo L.X.Vưgôtxki
L.X.Vưgôtxki đã tách ra hai mức độ trí tuệ với hai cấu trúc khác nhau: trí
tuệ bậc thấp và trí tuệ bậc cao.

+ Trí tuệ bậc thấp là những phản ứng trực tiếp, cụ thể, tức thời và không có
sự tham gia của ký hiệu ngôn ngữ. Vậy, hành vi trí tuệ bậc thấp có cấu trúc hai
thành phần: thứ nhất, các kích thích của môi trường; thứ hai, các phản ứng của
cơ thể.
+ Trí tuệ bậc cao. Có hai dấu hiệu để phân biệt trí tuệ bậc cao với trí tuệ bậc
thấp: sự xuất hiện và tham gia của ngôn ngữ; vai trò của các công cụ tâm lý
trong các thao tác trí tuệ. Trí tuệ bậc cao là sự cấu trúc lại các hành vi trí tuệ
bậc thấp trên cơ sở sử dụng phương tiện tâm lý.
- Mô hình nhiều dạng trí tuệ của H.Gardner.
Từ các dấu hiệu: 1. Sự khu biệt các trung khu chức năng của não; 2. Sự tồn
tại một số ít dân cư ngoại lệ; 3. Các thao tác quan trọng, cốt lõi nhất; 4. Lịch sử
phát triển rõ ràng, đặc biệt; 5. Lịch sử tiến hóa; 6. Các bằng chứng thực
nghiệm; 7. Sự giúp đỡ của các số liệu đo lường tâm lí học; 8. Nhạy cảm đối

25


×