Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.89 KB, 8 trang )

MỤC LỤC
Trang

1


Đề số 10: Tại sao pháp luật đất đai hiện hành lại quy định cơ chế hòa
giải tranh chấp đất đai tại UBND xã, phường, thị trấn khi có tranh chấp đất
đai xảy ra là yêu cầu bắt buộc phải thực hiện? Phân tích mục đích, ý nghĩa
của hòa giải tranh chấp đất đai. Anh (chị) có nhận định, đánh giá gì về tính
hiệu quả của hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND xã, phường, thị trấn?

MỞ ĐẦU
Đất đai là một loại tài sản đặc biệt, có tầm quan trọng lớn đối với mỗi
quốc gia. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, những sự việc
tranh chấp đất đai cũng ngày càng phổ biến và gây nên nhiều bất cập trong
công tác quản lý cũng như gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của cộng
đồng. Vì vậy, em xin trình bày bài tiểu luận với nội dung “Cơ chế hòa giải
tranh chấp đất đai tại UBND xã, phường, thị trấn” nhằm làm rõ hơn vấn đề
tranh chấp đất đai đang ngày một gia tăng cũng như mong muốn nâng cao
hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai trong tình hình hiện nay. Do nhận thức
còn hạn chế nên em mong thầy cô sẽ xem xét và đưa ra ý kiến để bài làm được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I. GIẢI THÍCH MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai (TCĐĐ) là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về
lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp
luật đất đai. Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: “Tranh chấp đất đai là



2


tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hay nhiều bên
trong quan hệ đất đai”.1
Đặc điểm của tranh chấp đất đai:
- Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lí, quyền sử dụng và
những lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng một loại tài sản đặc biệt không
thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp;
- Các chủ thể tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lí và sử dụng đất,
không có quyền sở hữu đối với đất đai;
- Tranh chấp đất đai luôn gắn liền với quá trình sử dụng đất của các chủ
thể nên không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia tranh
chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước. Vì trước hết, khi xảy ra
tranh chấp, một bên không thực hiện được những quyền của mình, do đó ảnh
hưởng đến việc thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.2
2. Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai
Giải quyết tranh chấp đất đai (GQTCĐĐ) là một nội dung quan trọng
trong hoạt động quản lí nhà nước đối với đất đai và là một biện pháp để pháp
luật đất đai phát huy được vai trò trong đời sống xã hội. Việc giải quyết tranh
chấp đất đai chính là việc tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm
giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Trên cơ sở đó
phục hồi các quyền lợi hợp pháp cho bên bị xâm hại đồng thời bắt buộc bên vi
phạm phải gánh chịu những hậu quả pháp lí do hành vi của họ gây ra. Đó cũng
là công việc có ý nghĩa quan trọng để tăng cường pháp chế trong lĩnh vực
quản lí và sử dụng đất đai.3
3. Hòa giải tranh chấp đất đai

3



Hòa giải tranh chấp đất đai là biện pháp mềm dẻo, linh hoạt và hiệu
quả nhằm giúp cho các bên tranh chấp tìm ra giải pháp thống nhất để tháo gỡ
những mâu thuẫn, bất đồng trong quan hệ pháp luật đất đai trên cơ sở tự
nguyện, tự thỏa thuận.
Trường hợp các bên tranh chấp không thể tự hòa giải thương lượng
được với nhau thì việc giải quyết tranh chấp sẽ thông qua tổ hòa giải ở cơ sở.
Nếu hòa giải ở cơ sở vẫn không đạt được sự thống nhất thì các bên có quyền
gửi đơn đến UBND xã, phường, thị trấn nơi có tranh chấp để yêu cầu tổ chức
việc hòa giải.4
II. LÀM RÕ NỘI DUNG HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TẠI UBND XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
1. Cơ chế hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND xã, phường, thị
trấn khi có tranh chấp đất đai xảy ra là yêu cầu bắt buộc phải thực hiện
theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành
Luật Đất đai năm 2013 quy định hòa giải TCĐĐ là thủ tục bắt buộc, là
bước đầu trong quá trình GQTCĐĐ. Theo đó, “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương
mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức
xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được
thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu
cầu giải quyết tranh chấp đất đai.” (Điều 202 Luật Đất đai 2013)5 Bên cạnh
đó, Luật Đất đai 2013 còn có quy định về thời hạn hòa giải, kết quả hòa giải
được lập thành biên bản có chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận của
UBND cấp xã nơi có tranh chấp. Kết quả hòa giải khác với hiện trạng sử dụng
đất, thì UBND cấp xã chuyển kết quả hòa giải đến cơ quan có thẩm quyền để
giải quyết theo quy định về quản lý đất đai.


4


Trong quá trình hòa giải tranh chấp đất đai do UBND cấp xã thực hiện,
hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai do UBND xã, phường, thị trấn thành lập
gồm Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn là Chủ tịch Hội
đồng; Đại diện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại xã, phường, thị trấn; Tổ
trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn đối với khu vực nông
thôn; Đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết
rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; Cán bộ địa chính,
cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Họ có vai trò tích cực trong việc đưa ra ý
kiến tư vấn góp phần vào thành công của buổi hòa giải. 6
Sau khi UBND cấp xã đã tiến hành hòa giải mà một hoặc các bên
đương sự không nhất trí thì có thể yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện để giải quyết hoặc có thể nộp đơn khởi kiện lên Tòa án để yêu cầu Tòa
án giải quyết.
Vậy, hòa giải TCĐĐ tại UBND cấp xã là hình thức bắt buộc, các cơ
quan có thẩm quyền chỉ tiếp nhận giải quyết khi các tranh chấp đã được hòa
giải tại UBND cấp xã.
2. Phân tích mục đích, ý nghĩa của hòa giải tranh chấp đất đai
Hòa giải TCĐĐ là một biện pháp mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả nhằm
giúp cho các bên tranh chấp tìm ra một giải pháp thống nhất để tháo gỡ những
mâu thuẫn, bất đồng trong quan hệ pháp luật đất đai trên cơ sở tự nguyện, tự
thỏa mãn. Trong hoạt động giải quyết tranh chấp nói chung và TCĐĐ nói
riêng, hòa giải có tầm quan trọng đặc biệt; nếu hòa giải thành, có nghĩa là
tranh chấp kết thúc, không những hạn chế được sự phiền hà, tốn kém cho các
bên đương sự mà còn giảm bớt được công việc đối với các cơ quan có trách
nhiệm giải quyết, phù hợp với truyền thống đạo lý tương thân tương ái của
dân tộc, giữ được tình làng nghĩa xóm, đảm bảo đoàn kết trong nội bộ nhân
dân; đồng thời, qua hòa giải các đương sự sẽ hiểu thêm về pháp luật và chính


5


sách của nhà nước. Nhận thức được ưu điểm của hòa giải, trong hoạt động
GQTCĐĐ, Luật Đất đai 1993 lần đầu tiên đã thể hiện thái độ của nhà nước
trong việc khuyến khích hòa giải các TCĐĐ; và Luật Đất đai năm 2013 tiếp
tục phát triển quy định về hòa giải theo hướng hòa giải là thủ tục đầu tiên bắt
buộc phải thực hiện trong quy trình giải quyết ở các hình thức giải quyết sau.
3. Nhận định, đánh giá về tính hiệu quả của hòa giải tranh chấp đất
đai tại UBND xã, phường, thị trấn
Trong thực tế, tranh chấp đất đai xảy ra rất nhiều dạng. Có địa phương
cho rằng chỉ có loại tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mới phải qua
hòa giải tại cấp xã, còn các tranh chấp về hợp đồng liên quan quyền sử dụng
đất như chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho... và tranh chấp thừa kế quyền
sử dụng thì không bắt buộc phải qua hòa giải tại cơ sở. Ngược lại, ở địa
phương khác thì lại khẳng định tất cả các tranh chấp đất đai kể cả các tranh
chấp hợp đồng liên quan quyền sử dụng đất và thừa kế quyền sử dụng đất đều
bắt buộc phải qua hòa giải tại cấp xã trước khi khởi kiện đến Tòa án. Khi đó, ở
từng địa phương khác nhau sẽ có cách giải quyết hòa giải khác nhau.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Ðiều 202 Luật Ðất đai năm 2013 thì
UBND cấp xã phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của Mặt trận để tiến hành hòa giải. Trong thực tế, do không
nắm vững các quy định của pháp luật cho nên nhiều trường hợp thành phần
tham gia hòa giải ở cấp xã không đúng. Chẳng hạn như không có sự tham gia
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận mà chỉ có thường
trực UBND, cán bộ địa chính, tư pháp và đại diện một số hội, đoàn thể ở xã
mà quên mất thành phần cần có là đại diện Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
Các vụ hoà giải trên đây tuy không đúng với quy định của Luật Đất đai, song,
không có gì đáng nói, nếu đã được hòa giải thành. Điều đáng nói là, khi các

bên tranh chấp hòa giải không thành đã tiến hành khởi kiện theo trình tự của
Bộ luật tố tụng dân sự, do biên bản hòa giải không có Ủy ban Mặt trận Tổ
6


quốc tham gia hòa giải (áp dụng đối với một số trường hợp bắt buộc phải tiến
hành hòa giải cơ sở) nên Tòa án đã căn cứ điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 20157 và được hướng dẫn chi tiết tại khoản 2 Điều 3
Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP để trả lại đơn cho người khởi kiện vì chưa có
đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, còn nhiều trường hợp khác là UBND xã tổ chức hòa giải
nhưng không giao biên bản để người khởi kiện nộp cho Tòa án, kéo dài nhiều
tháng đến cả năm. Tranh chấp đất đai bao giờ cũng là cũng chiếm một số
lượng lớn trong các vụ án dân sự ở các địa phương, nhưng trong quan hệ đất
đai thường phức tạp do vậy việc định hướng hòa giải đối với cấp xã đôi khi
cũng rất khó khăn, nhưng thực tế cũng có trường hợp địa phương cố tình hòa
giải theo hướng có lợi cho một phía.8

KẾT LUẬN
Thông qua những vấn đề nhận thức trong 3 phần: Cơ sở pháp lý, Ý
nghĩa và vai trò, Đánh giá về cơ chế hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND xã,
phường, thị trấn, những nội dung cơ bản trong cơ chế hòa giải tranh chấp đất
đai tại UBND xã, phường, thị trấn đã được làm rõ phần nào. Từ đó, góp phần
nâng cao nhận thức của các chủ thể và đảm bảo việc giải quyết tranh chấp đất
đai được hoàn thiện hơn trong thực tiễn./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

7



1, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015
2, Luật Đất đai năm 2013
3, Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành
1 số điều của Luật đất đai năm 2013
4, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2017
5, Lê Minh Trường, Việc hòa giải tranh chấp đất đai còn nhiều bất cập,
Luatminhkhue.vn, ngày 9-11-2018.

8



×