Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ 56”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.16 KB, 19 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa
cho trẻ 5-6”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội.
3.Tác giả:
Sinh ngày: – Nữ
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Mầm non Bình Lãng
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường mầm non
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường mầm non
Địa chỉ:.
Số Điện Thoại:
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Về cơ sở vật chất: Có môi trường hoạt động, đồ dùng đồ chơi phong phú.
- Giáo viên: Nhiệt tình, ham học hỏi, có hành vi, ngôn ngữ chuẩn mực, nắm
chắc những hiểu biết cơ bản về hành vi giao tiếp có văn hóa.
- Với trẻ: Có nề nếp, thường xuyên được hoạt động theo nhóm, tập thể.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 09/2019 - 02/ 2020.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN

( Ký, ghi rõ họ tên)

VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Tuyến
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Như chúng ta đã biết rằng, trong ngành giáo dục thì giáo dục đạo đức
cho trẻ là một bộ phận không thể thiếu được của nền giáo dục toàn diện. Giáo
dục đạo đức có ảnh hưởng to lớn đến các mặt giáo dục khác. Giáo dục hành vi
giao tiếp có văn hoá là một bộ phận của giáo dục đạo đức cho trẻ. Đối với trẻ
lứa tuổi mầm non giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách, giao
tiếp với người xung quanh giữu vai trò quan trọng, việc giáo dục cho trẻ có
hành vi giao tiếp có văn hóa với bạn bè và người lớn càng trở nên cần thiết
hơn.Trong sự phát triển xã hội ngày nay sự du nhập của nhiều nền văn hóa
khác nhau đã và đang ảnh hưởng đến nền văn hóa nước ta. Bên cạnh những
thay đổi tích cực cũng có những biểu hiện tiêu cực trong mối quan hệ giao
tiếp mà dễ nhận thấy nhất là thế hệ trẻ, trong đó có trẻ mầm non. Các hành vi
giao tiếp của trẻ được hình thành chủ yếu từ sự bắt trước và phản ảnh rất chân
thực những điều trẻ học được, nếu không có sự hướng dẫn giáo dục kịp thời
của người lớn, những hành vi không chuẩn mực của những người xung quanh
sẽ taccs động và trở thành những hành vi giao tiếp không văn hóa của trẻ. Mà
thực tế cho thấy ở trường mầm non hiện nay việc giáo dục hành vi giao tiếp
có văn hóa cho trẻ mẫu giáo chưa được giáo viên chú trọng nên việc sử dụng
các biện pháp chưa phù hợp với nội dung giáo dục nên tính hiệu quả chưa
cao, công tác phối hợp giữa nhà trường và phụ hynh còn gặp khó khăn.Từ
những lí do trên nên tôi chọn đề tài : “ Một số biện pháp giáo dục hành vi
giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi” để nghiên cứu mong muốn
đóng góp một phần nào đó vào việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho
trẻ được tốt hơn.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
- Có môi trường cho trẻ hoạt động, phong phú các loại đồ dùng đồ chơi,
giáo viên nhiệt tình, ham học hỏi, có những kiến thức cơ bản về hành vi giao
tiếp có văn hóa.
- Thời gian áp dụng sáng kiến từ: 9/2019 – 2/2020



- Đối tượng áp dụng: Trẻ lứa tuổi 5- 6 tuổi
3. Nội dung sáng kiến:
* Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
- Làm sáng tỏ mối quan hệ thống nhất giữa hình thức thể hiện bên ngoài
với phẩm chất tâm lý bên trong của hành vi trẻ.
- Đề xuất các biện pháp cụ thể mang lại hiệu quả giáo dục.
* Với sáng kiến này không những chỉ áp dụng ở độ tuổi 5 – 6 tuổi mà
còn có thể áp dụng ở cả lứa tuổi mẫu giáo. Chính vì vậy mà khi đưa ra sáng
kiến này tôi cũng rất mong muốn đồng nghiệm có thể tham khảo và áp dụng
vào việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa ở lớp của mình.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
Với đề tài: “Một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa
cho trẻ 5 – 6” đã giúp trẻ nắm được các chuẩn mực và quy tắc giao tiếp trong
xã hội, trẻ biết vận dụng những quy tắc và sử dụng chúng một cách linh hoạt,
sáng tạo, đúng mực, đúng lúc, đúng chỗ từ đó trẻ có lòng yêu thương, quan
tâm chia sẻ và tôn trọng người khác.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
kinh nghiệm.
Với đề tài này có thể áp dụng ở cả lứa tuổi mẫu giáo nhưng khi áp
dụng sáng kiến giáo viên cần nắm chắc yêu cầu, mục đích của từng độ tuổi để
lên kế hoạch hoạt động phù hợp, có hiệu quả cao và phải phối kết hợp chặt
chẽ với phụ huynh.


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
“ Tiên học lễ, hậu học văn”
Đó là câu tục ngữ của nhân dân ta nhưng dường như nó cũng khẳng

định quan điểm giáo dục của ta từ trước đến nay. “ Tiên học lễ” là trước tiên
phải học trau dồi lễ nghĩa, cách ửng xử với người khác sao cho đúng mực, cho
được lòng, cho phù hợp với thuần phong mỹ tục của xã hội, kiến thức dù có
uyên thâm đến đâu khi thiếu đi lễ nghĩa, đạo lý hay chúng ta không biết cách
ứng xử phù hợp thì cũng không có nghĩa gì hết. Nói như vậy để khẳng định
rằng trong sự nghiệp giáo dục, để giáo dục con người phát triển một cách toàn
diện thì giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá là một bộ phận của giáo dục
đạo đức rất quan trọng.
Trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế của nước ta, một trong những nhiệm
vụ mới được đặt ra là giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa. Đó là những
con người phát triển toàn diện, có quan điểm sống tích cực, có thói quen tự
điều khiển hành vi, hành động của mình trên cơ sở ý thức trách nhiệm của bản
thân đối với xã họi và đối với chính mình.
Giáo dục mầm non là nghành giáo dục non trẻ, là khâu đầu tiên trong
hệ thống giáo dục Quốc dân nhưng đó là nơi thuận lợi nhất để tạo ra những
tiền đề đầu tiên cho sự hình thành nhân cách con người mới, ở đó không chỉ
hình thành cho trẻ hứng thú ham hiểu biết và nhu cầu cần thiết nhằm lĩnh hội
những chuẩn mực xã hội.
Qua nghiên cứu cho thấy lứa tuổi mẫu giáo là bước ngoặt đầu tiên cho
sự hình thành nhân cách trẻ. Đặc biệt đến lứa tuổi 5 - 6 tuổi đã xuất hiện những
giá trị tâm lí mới, cho phép tăng cường nhiệm vụ giáo dục trong đó có giáo dục
hành vi giao tiếp có văn hóa. Tuy nhiên để thực hiện nhiệm vụ giáo dục này
cần có sự nỗ lực có mục đích của nhà trường, gia đình và xã hội. Trên thực tế
cho thấy những năm qua ở trường mầm non đã chú trọng việc thực hiện giáo
dục lễ giáo trong đó có giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ song việc
thực hiện giáo dục vẫn chưa thường xuyên và chưa có hệ thống. Phần lớn các
phương pháp biện pháp của giáo viên còn mang tính áp đặt, rời rạc…


Vậy việc nâng cao chất lượng giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa nói

chung và giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5 - 6 nói riêng là rất
cần thiết, để giúp trẻ có những thói quen, hành vi chuẩn mực từ đó trẻ sẽ linh
hoạt, sáng tạo trong giao tiếp với mọi người xung quanh. Đó cúng chính là lý
do mà tôi đi sâu vào tìm hiểu các biện pháp giáo dục thích hợp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ ở lớp mình cũng như
mong muốn được bạn bè đồng nghiệp trong trường tham khảo.
2.Cơ sở lý luận.
Để hiểu được việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa thì trước hết
chúng ta đi tìm hiểu về các định nghĩa:
* Hành vi: Là cách ứng xử của con người đối với một sự vật, một sự
kiện, một hiện tượng trong hoàn cảnh, tình huống cụ thể.
* Giao tiếp: Có rất nhiều quan điểm về giao tiếp, theo Lomov – nhà
tâm lý học người Nga định nghĩa: “ Giao tiếp là mối quan hệ tác động qua lại
giữa con người với tư cách là chủ thể” hay Miaxivxet nêu: “ Giao tiếp là quá
trình quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các nhân cách cụ thể”.. Người ta
còn nghiên cứu các phương diện giao tiếp khác nhau, còn đi tìm nguồn gốc
của giao tiếp, ý nghĩa của giao tiếp... giao tiếp được hình thành và xảy ra
trong những điều kiện lịch sử phát triển nhất định như phong tục, tập quán,
không gian, thời gian...Nhờ đấ hiệu này mà giao tiếp của con người mang tính
kế thừa, chọn lọc những tinh hoa của thế hệ trước để lại tạo thành một phần
nền văn hóa ở mỗi thời điểm lịch sử của mỗi cộng đồng của mỗi quốc gia.
Hành vi giao tiếp của họ phù hợp với chuẩn mực xã hội quy định hay phong
tục tập quán quy định mà cá nhân nhận thức được rõ ràng.
* Văn hóa: Văn hóa là một khái niệm rộng và phức tạp, khái niện về văn
hóa được nhiều tác giả đề cập tới và diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau. Nhưng
nhìn chung “ Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của dân tộc mình” văn hóa là một hiện tượng
xã hội tiêu biểu cho trình độ mà xã hội đạt được trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định.Theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh



thần. Văn hóa chính là sản phẩm của con người và do con người tạo ra nó. Văn
hóa không phải là một hiện tượng cố định mà trái lại nó biến chuyển và phát
triển từ xã hội này qua xã hội khác từ thời kỳ này sang thời kỳ khác.
Tóm lại nhân cách của con người nói chung và của trẻ nói riêng được
thể hiện đầy đủ nhất trong hành vi ứng xử hay hành vi giao tiếp, cách nói
năng và thể hiện rõ nhất quan điểm sống, thái độ của chủ thể hành vi ứng xử.
Như vậy, giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ chính là giáo dục
những phép tắc, lễ nghĩa, những chuẩn mực và mẫu hành vi đơn giản, phổ biến,
cần thiết với lứa tuổi mầm non như cách ăn nói, tư thế trang phục, phong cách
phép tắc ứng xử có văn hóa trong quan hệ của trẻ với người xung quanh, gia
đình, nhà trường, môi trường thiên nhiên, vật nuôi, môi trường. Từ đó hình thành
ở trẻ một số nề nếp, thói quen, hành vi đẹp, biết phân biệt được tốt, xấu; hư,
ngoan...Đó chính là bước đầu hình thành ở trẻ những cơ ở đầu tiên của nhân
cách con người mới xã hội chủ nghĩa như mục tiêu giáo dục đề ra.
3. Thực trạng vấn đề
3.1-Thuận lợi và khó khăn
* Thuận lợi
- 100% giáo viên tổ 5 tuổi có trình độ CĐ, ĐH giúp đỡ lẫn nhau tạo điều
kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm.
- Bản thân tôi cũng coi trọng vấn đề giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa
hay giáo dục lễ giáo nên luôn trau dồi học hỏi những phương pháp để dạy trẻ.
- Được sự quan tâm của BGH nên cơ sở vật chất tương đối đầy đủ để
phục vụ cho việc dạy và học.
-Trẻ phần lớn là con em nông thôn nên có đều kiện tiếp xúc trải nghiệm
nhiều với môi trường thực tế, mọi người xung quanh nên nhanh nhẹn và khả
năng thực hành trải nghiệm khá tốt.
* Khó khăn:
- Về cơ sở vật chất:



+ Các tài liệu chuyên môn về phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục
hành vi văn minh cho trẻ còn nằm rải rác ở nhiều nơi, nhiều loại nên việc sưu
tầm tìm kiếm gặp khó khăn.
+ Môi trường hoạt động còn nghèo nàn, đồ dùng để phục vụ cho hoạt
động còn hạn chế.
- Về phía giáo viên:
+ Đôi khi cô chưa sáng tạo hình thức dạy, nội dung giáo dục nghèo nàn,
đôi khi còn mang tính áp đặt.
+Phần lớn giáo viên biết được nội dung giáo dục nhưng chưa chú ý đến
biểu hiện của nội dung văn hóa qua hành vi giao tiếp của trẻ.
- Về phía trẻ:
+ Ở nhóm lớp tôi phụ trách nhiều cháu còn e dè, nhút nhát, không tích cự
tham gia vào hoạt động.
+ Có một số học sinh yếu, hay nghỉ học nên gặp khó khăn trong việc
cung cấp các kiến thức và rèn luyện cho trẻ.
+ Nhiều trẻ được gia đình chiều, được bố mẹ, ông bà ở nhà làm hộ mọi
việc nên trẻ ỉ lại.
- Về phía phụ huynh:
+

Phụ huynh ít có thời gian quan tâm đến trẻ vì bận đi làm công ty nên sự

quan tâm phối hợp với giáo viên, lớp còn hạn chế...
+ Còn một số phụ huynh chưa được tiếp cận nên nhận thức về vai trò của
việc giáo dục hành vi văn minh cho trẻ còn hạn chế nên việc phối hợp giữa
giáo viên và phụ huynh còn gặp khó khăn.
3.2. Những giải pháp cũ thường thực hiện
- Dạy theo phương pháp truyền thống, mang tính chất áp đặt
- Chưa thống nhất giữa hình thức và nội dung dạy.

- Chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
- Chưa áp dụng thực hành trải nghiệm cho trẻ.
Bảng 1: Khảo sát nội dung giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa của 32
trẻ lớp 5 tuổi C trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.


Tốt
STT

1

2

Nội dung khảo sát
Biết chào hỏi, thưa
gửi lễ phép
Biết cảm ơn, xin lỗi,
biết đón nhận bằng

Khá

Số %

Số

trẻ

Trẻ

Kết quả

Trung

%

Yếu

bình
Số %

Số

Trẻ

Trẻ

%

5

15,6

15

46,9

8

25

4


12,5

0

0

8

25

17

53,1

7

21,9

5

15,6

16

50

7

21,9


4

12,5

0

0

19

59,4

10

31,3

3

9,3

2

6,3

15

46,9

12


37,5

3

9,3

0

0

9

28,1

18

56,3

5

15,6

2 tay
Biết giữ gìn vệ sinh
3

4

5


thân thể, vệ sinh
môi trường,ăn uống
văn minh lịch sự
Biết yêu quý vật
nuôi cây trồng
Thích chơi với bạn,
không tranh giành
đồ chơi với bạn, biết
giúp đỡ mọi người
Biết phân biệt đúng

6

sai, yêu ghét rõ ràng

Từ kết quả trên cho thấy mức độ phát triển hành vi giao tiếp có văn hóa
của trẻ còn thấp, còn hạn chế, đã làm chủ được hành vi tuy nhiên vô thức vẫn
còn chi phối mạnh, khả năng kiêm chế của trẻ ở mức độ còn yếu, tính hợp của
hành vi chưa cao, trẻ còn bị ảnh hưởng bởi ý muốn chủ quan do trẻ chưa có
kinh nghiệm trong giao tiếp. Tôi nhận thấy nguyên nhân chủ yếu là do: Mức độ
khó của hành vi, trẻ còn ít được trải nghiệm, cách thể hiện hành vi còn cứng
nhắc chưa linh hoạt, những vấn đề đó phụ thuộc phần lớn vào môi trường giao
tiếp của trẻ, trong đó có sự phát triển của xã hội, sự giáo dục của nhà trường,
gia đình và bản thân trẻ. Mặt khác Giáo viên chưa chú ý đến việc phối hợp các


biện pháp một cách hệ thống, trình tự khoa học, việc sử dụng còn tùy tiện
không theo mục đích và kế hoạch rõ ràng, chủ yếu giáo dục dựa trên kinh
nghiệm cách làm này khiến giáo viên bị động trong việc giáo dục trẻ.

Qua khảo sát ban đầu như trên, tôi cần phải suy nghĩ làm thế nào để
dạy trẻ có hành vi giao tiếp có văn hóa đạt hiệu quả cao và tạo cho trẻ tự tin
trong giao tiếp, trẻ được hoạt động trong môi trường theo đúng chuẩn mực.
Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có
văn hóa cho trẻ 5- 6 tuổi được tốt hơn.
4. Biện pháp thực hiện
4.1 Giáo viên tự học hỏi, bồi dưỡng kiễn thức, nâng cao nhận thức của
bản thân về giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa.
Để đưa ra các biện pháp thực hiện thì trước tiên giáo viên phải có kiến
thức đúng , hiểu sâu và đúng bản chất vấn đề khi đó giáo viên có thể truyền
đạt kiến thức đến học sinh một cách chính xác. Sau đây là các nhóm hành vi
giao tiếp ứng xử mà giáo viên cần nắm được:
- Nhóm hành vi giao tiếp ứng xử lịch sự, lễ phép:
+ Chào hỏi
+ Cảm ơn
+ Xin lỗi
+ Xin Phép
+ Cử chỉ thân mật
- Nhóm hành vi tham gia hội thoại:
+Chấp nhận và lắng nghe người khác nói
+ Không ngắt lời khi người khác nói
+ Hướng mặt vào người đang nói chuyện với mình
+ Nói vừa đủ nghe, không nói trống không
+ Xưng hô thân mật với bạn
- Nhóm hành vi thể hiện sự cảm thông chia sẻ
+ Quan tâm đến người thân, bạn bè, những người cần giúp đỡ
+ Cùng chơi, cha sẻ thông tin với bạn


- Nhóm hành vi tôn trọng giao tiếp:

+ Chấp nhận ý kiến
+ Tôn trọng sở thích riêng của bạn, của người thân
+ Tuân thủ những quy định chung của tập thể
+ Không ồn ào làm mất trật tự nơi đông người.
4.2. Các nhóm biện pháp cụ thể:
4.2.1. Nhóm biện pháp giáo dục tình cảm cho trẻ.
Quá trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ từ 5 đến 6 tuổi
nói riêng, trẻ em nói chung được bắt đầu từ việc giáo dục tình cảm của trẻ với
hành vi. Có thể nói, giáo dục tình cảm là giáo dục khởi đầu, đặt nền móng
vững chắc để nhà giáo dục cũng như chính người được giáo dục thiết kế: “tòa
lâu đài nguy nga tráng lệ nhân cách cho trẻ”. Không có giáo dục tình cảm,
không hình thành và tạo dựng nền tảng xúc cảm, tình cảm vững bền ở mỗi
con người thì khó có thể nói đến các quá trình giáo dục tiếp sau. Bởi vậy, để
thực hiện quá trình giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ trước hết cần
giáo dục đề hình thành ở trẻ những xúc cảm, tình cảm tích cực. Giáo dục hành
vi nói chung, giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa nói riêng, xúc cảm tình
cảm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có thể nói đó là những tín hiệu bên trong
làm cho các diễn tiến tâm lý được kiểm soát chặt chẽ và là động cơ thúc đẩy
hành vi. Điều này càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với trẻ lứa tuổi 5 -6
tuổi vì ngay từ đầu, trẻ chưa thể ý thức được động cơ hành vi nhưng trẻ vẫn
có thể cảm nhận và nhận thức được qua những sắc thái xúc cảm, tình cảm.
Giáo viên có thể tạo cảm xúc tình cảm tích cực của trẻ đối với môi
trường xung quanh bằng cách cho trẻ được tiếp xúc nhiều với cây trồng, vật
nuôi với thiên nhiên từ đó trẻ sẽ biết được vai trò, ý nghĩa của chúng hình
thành ở trẻ tình yêu thiên nhiên từ tình yêu thiên nhiên trẻ sẽ có các hành vi
chăm sóc, bảo vệ, giữ gìn môi trường xung quanh
Mở rộng kinh nghiệm, cung cấp một số biểu tượng hành vi qua các tác
phẩm văn học trong cuộc sống. Tư duy của trẻ ở giai đoạn này là tư duy “trực
quan sinh động”. Trẻ học mà chơi, chơi mà học, trẻ chỉ tiếp thu kiến thức,



kinh nghiệm khi được truyền đạt một cách dễ hiểu, gần gũi với trẻ. Trẻ
thíchbắt chước hành vi của các nhân vật (tuyến nhân vật thiện) trong các tác
phẩm văn học trong chương trình giáo dục Mầm non hoặc những người thân
gần gũi với trẻ. Ban đầu, trẻ thường bắt chước một cách vô thức nhưng khi
được hướng dẫn, chỉ bảo, uốn nắn sự bắt chước ấy trở nên có ý thức và
chuyển từ bắt chước hình thức bên ngoài của hành vi sang bắc chước các
phẩm chất bên trong của nhân vật được nghe kể, được gặp gỡ... Do đó, sử
dụng các biểu tượng vi hành vi đẹp, đúng chuẩn mực không chỉ giúp trẻ có
biểu tượng đúng về hành vi mà còn tạo dựng những xúc cảm, tình cảm tốt
đẹp, nhân văn đối với việc thực hiện hành vi ở trẻ. Giáo dục hành vi giao tiếp
có văn hóa thực hiện thông qua chương trình môn học “Cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học”. Đây là môn học và là hoạt động không thể thiếu đối với
trẻ ở lứa tuổi Mầm non. Thông qua hoạt động làm quen với các tác phẩm văn
học, trẻ nghe kẻ chuyện, đàm thoại được làm quen với những ngôn từ chuẩn
mực, ngôn ngữ trong sáng, giàu hình tượng, hành vi đẹp, giàu tính nhân văn...
Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc chập chững tập đi, tập nói, biết viết, đọc..., văn học
luôn là chiếc cầu nối, là phương tiện dẫn dắt trẻ. Những câu truyện kể, bài
thơ, bài đồng dao... không chỉ là tấm gương sinh động, mẫu mực về giáo dục
hành vi giao tiếp có văn hóa để trẻ học tập, là phương tiện hữu hiệu trong việc
giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, tình yêu mến bạn
bè, với những người thân, biết được việc làm tốt -xấu, biết yêu cái đẹp, cái
thiện, ghét cái ác, phê phán những việc xấu mà còn là phương tiện hình thành
các phẩm chất đạo đức trong sáng. Các hình tượng nhân vật có sức hấp dẫn đã
lôi cuốn trẻ, khiến trẻ yêu thích, từđó trẻ thích học theo, bắt chước việc làm,
hành động của nhân vật. Từ việc thích bắt chước dần dần tạo cho trẻ thói
quen, thói quen đi vào nhận thức và trở thành sự tự ý thức.
Ví dụ: Với tác phẩm: “ Gấu qua cầu” giáo dục trẻ biết giúp đỡ bạn bè, tinh
thần đoàn kết vượt qua khó khăn.., tác phẩm: “ ba cô gái” giáo dục về tình
cảm gia đình sự hiếu thảo của người con...

4.2.2.Nhóm biện pháp tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động


Muốn hình thành ở trẻ những hành vi giao tiếp có văn hóa thì ngoài
việc cung cấp cho trẻ những kinh nghiệm, những biểu tượng hành vi chuẩn
mực thì việc tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ cũng rất cần thiết. Với đặc
điểm của trẻ mầm non môi trường hoạt động chính là tất cả các hoạt đông
trong ngày như: Hoạt động học, chơi, ăn, ngủ, lao động, vệ sinh...nhưng môi
trường hoạt động có hiệu quả nhất thông qua trò chơi mà trò chơi chiếm vị thế
quan trọng để bổ xung những kinh nghiệm, biểu tưởng để hình thành hành vi
giao tiếp có văn hóa đó là trò chơi đóng vai theo chủ đề. Với mỗi chủ đề trẻ
xẽ được cung cấp các kiến thức cơ bản chuẩn mức từ đó trẻ sẽ thực hành kiến
thức, vận dụng các kiến thức đó vào các trò chơi đóng vai, trong quá trình
chơi giáo viên hướng dẫn, uốn nắn trẻ bước đầu hình thành những biểu tượng
hành vi chuẩn mực.
Ví dụ: Trong các trò chơi đóng vai theo chủ đề “Trường mầm non”
giúp trẻ có những hành vi giao tiếp chuẩn mực với cô, bạn bè và những người
trong trường. Chủ đề “ Gia đình” là quan hệ, hành vi giao tiếp với những
người trong gia đình....
Với nhóm biện pháp này giáo viên cần bổ xung đa dạng các lợi đồ
chơi, xắp xếp và bố trí đồ chơi thuận tiện phù hợp với vai chơi, bổ xung góc
chơi, mở rộng nội dung chơi, tăng cường sự giao tiếp giữa trẻ với nhớm chơi.
4.2.3. Nhóm biện pháp thực hành luyện tập hành vi giao tiếp trong cuộc
sống hàng ngày
Cuộc sống thực tế hàng ngày của trẻ có rất nhiều các tình huống giao
tiếp phong phú, đa dạng. Do đó, giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ
thông qua các hành vi, hoạt động trong cuộc sống thường nhật của trẻ vừa gần
gũi, vừa giúp trẻ nhận diện nhiều giá trị tốt đẹp của cuộc sống vừa tạo dựng các
mô hình và mẫu hành vi đẹp có thể theo trẻ suốt cuộc đời. Chẳng hạn giáo dục
văn hóa vệ sinh cho trẻ có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục con người

mới phát triển toàn diện, đó là điều cần thiết để tạo cho trẻ những thói quen tốt.
Những thói quen này được lặp đi lặp lại hằng ngày và trở thành những kỹ năng.
Kỹ năng văn hóa vệ sinh sạch sẽ, kỹ năng lao động tự phục vụ. Đó là những


động tác, thói quen: rửa mặt, rửa tay, súc miệng, đánh răng, ngồi ngay ngắn, xì
mũi vào khăn, mặc quần áo gọn gàng, sạch sẽ, không vứt rác, khạc nhổ bừa
bãi...Trong các bài học về vệ sinh, làm quen với môi trường xung quanh hoặc
thông qua các hành vi, việc làm cụ thể hằng ngày... dần dần đã giúp cho trẻ biết
được cái đẹp, cái sạch của con người, học được những tác phong, nếp sống văn
minh. Ví dụ bài học vệ sinh gồm: Vệ sinh thân thể như luôn giữ cho mắt, mũi,
chân tay sạch sẽ, khi chân tay bẩn phải biết đi rửa, trước khi ăn phải rửa tay,
không bôi bẩn lên quần áo, đầu tóc luôn gọn gàng... Những thói quen văn
minh: biết giữ gìn đồ dùng, đồ chơi, không phá hỏng hoặc bôi bẩn lên đồ dùng
đồ chơi, khi sử dụng xong biết cất đúng nơi quy định và ngăn nắp, đẹp mắt,
biết chơi đoàn kết, nhường nhịn nhau, khi ngáp phải lấy tay che miệng, ho phải
biết quay sang hướng khác tránh người đối diện... Đây là việc làm tuy nhỏ
nhưng giáo viên cần quan tâm và nên giáo dục trẻ ngay tuổi mầm non nhằm
giúp trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, nhất là nơi đông người. Trẻ phải biết
nói năng rõ ràng, không la hét, nói to tiếng, quát nạt, không nói tục. Khi nói
hoặc làm sai phải biết xin lỗi, biết tạo cho trẻ tình thường yêu con người, thế
giới xung quanh, biết chia sẻ, cảm thông... Trẻ phải nắm được một số qui định
về giao tiếp với người lớn, với các bạn cùng lứa tuổi; biết sử dụng các phương
tiện ngôn ngữ và văn hóa trong mọi tình huống, hoàn cảnh; biết chào hỏi lễ
phép với mọi người, biết chấp hành những yêu cầu của người khác nếu không
đồng ý phải biết bày tỏ để người khác hiểu và chia sẻ...
4.2.4. Nhóm biện pháp đánh giá
Việc để cho trẻ được tham gia vào việc đánh giá nhận xét sự vật, hiện
tượng cũng như những hành vi của bạn bè và những người xung quanh cũng
rất quan trọng trong việc hình thành và bổ xung trau dồi hành vi của bản thân

trẻ. Ở phương pháp này hoạt động nêu gương là hoạt động có tác dụng hữu
hieeuj nhất của nhóm phương pháp vì trong hoạt động nêu gương trẻ được tự
đánh giá bản thân, đánh giá bạn. Biết nhận xét phân biết được những hành vi
đúng sai, những việc làm tốt xấu và trong hoạt động này trẻ cũng nhận được


lời khen ngợi, tán thưởng, tuyên dương cũng như những phê bình để từ đó trẻ
biết tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với chuẩn mực.
4.2.5. Nhóm biện pháp kết hợp với phụ huynh
Để có sự giáo dục đồng bộ giữa gia đình và nhà trường thì việc phối kết
hợp với phụ huynh là rất quan trọng và cần thiết, bởi tôi nhận thấy rằng tất cả
mọi khó khăn trong học tập không thể thiếu được vai trò giải quyết khó khăn
của phụ huynh. Vì vậy ngay từ đầu năm học để phụ huynh hiểu được tầm
quan trọng của việc giáo dục trẻ có những kỹ năng, hành vi giao tiếp đúng
chuẩn mực tôi đã trao đổi một số phương pháp cũng như hình thức cho phụ
huynh nắm được để kết hợp dạy con khi con em mình ở nhà. Bên cạnh tôi
cũng thường xuyên trao đổi với các bậc phụ huynh nắm được tình hình các
con của họ đã tiến bộ ở trường như thế nào hạn chế ra làm sao để phụ huynh
cùng giáo dục trẻ, luôn tạo môi trường cởi mở giữa gia đình và lớp học.
5. Kết quả đạt được
Sau khi áp dụng một số biện pháp trên, đến nay tôi thu được một số kết
quả như sau :
*Đối với trẻ :
So sánh đối chứng kết quả trước và sau thực hiện sáng kiến :
Bảng 2: Khảo sát nội dung hành vi giao tiếp có văn hóa của 32 trẻ lớp 5
tuổi C Sau khi dụng sáng kiến kinh nghiệm.

Tốt
STT


Nội dung khảo sát

Số

Khá

%

trẻ
1

Biết chào hỏi, thưa
gửi lễ phép
Biết cảm ơn, xin lỗi,

Số

Kết quả
Trung

%

Trẻ

Yếu

bình
Số %

Số


Trẻ

Trẻ

%

5

15,6

15

46,9

8

25

4

12,5

2

biết đón nhận bằng

0

0


8

25

17

53,1

7

21,9

3

2 tay
Biết giữ gìn vệ sinh

5

15,6

16

50

7

21,9


4

12,5

thân thể, vệ sinh


môi trường,ăn uống
4

5

văn minh lịch sự
Biết yêu quý vật
nuôi cây trồng
Thích chơi với bạn,
không tranh giành
đồ chơi với bạn, biết

0

0

19

59,4

10

31,3


3

9,3

2

6,3

15

46,9

12

37,5

3

9,3

0

0

9

28,1

18


56,3

5

15,6

giúp đỡ mọi người
Biết phân biệt đúng
6

sai, yêu ghét rõ ràng

Như vậy nhìn vào kết quả so sánh đối chứng thì đây là một kết quả
đáng khích lệ đối với bản thân tôi. Các kỹ năng của hành vi giao tiếp có văn
hóa ở trẻ khá tốt. Nếu như trước khi áp dụng sáng kiến việc chào hỏi, thưa gửi
lễ phép luôn phải được cô nhắc nhở chứ trẻ chưa chủ động được các hành vi
đó thì sau khi áp dụng sáng kiến trẻ có nề nếp chào hỏi thưa gửi lễ phép rất
tốt, trẻ đã biết phân biệt và có thái độ khi thấy bạn khác có hành vi chưa tốt.
Không khí, môi trường giao tiếp trong lớp bây giờ rất nhẹ nhàng cô không
phải thường xuyên nhắc nhở trẻ về ý thức, nề nếp hành vi còn trẻ thì rất tự
giác, bạn bè trong lớp chơi đoàn kết, xung hô thân mật...
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên đã chú trọng vào việc sáng tạo hình thức dạy, bổ xung phong
phú nội dung dạy
- Nắm chắc nội dung, phương pháp và tổ chức hoạt động giáo dục hành
vi giao tiếp có văn hóa.
- Có nhiều kinh nghiệm trong tạo môi cho trẻ hoạt động theo nhóm, tập thể.
- Thường xuyên cho trẻ thực hành trải nghiệm những nội dung giáo dục
hành vi giao tiếp.

* Về phía phụ huynh :
- Có sự thay đổi về việc nhìn nhận về việc giáo dục hành vi giao tiếp có
văn hóa là rất qua trọng ngay từ lứa tuổi mầm non đặc biệt trẻ 5 – 6 tuổi.


- Thường xuyên quan tâm đến các hoạt động trải nghiệm, các hoạt động
tập thể của lớp.
- Giúp đỡ nhiều cho giáo viên trong việc cung cấp những nguyên vật liệu
đồ để làm đồ dùng đồ chơi cũng như ủng hộ kinh phí để tổ chức các hoạt
động giáo dục trải nghiệm.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
Để sáng kiến được nhân rộng thì cần phải có những điều kiện về nhân
lực, môi trường hoạt động, cơ sở vật chất...
* Về nhân lực :
- Giáo viên phải nắm vững kiến thức cơ bản về các hành vi giao tiếp
chuẩn mực, thường xuyên đầu tư phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo,
cung cấp nội dung dạy phong phú. Tự bồi dưỡng chuyên môn, khả năng tổ
chức hoạt đông trải nghiệm cho trẻ, luôn thay đổi hình thức, tạo tình huống
bất ngờ để thu hút sự chú ý của trẻ. Phải tìm hiểu biểu hiện hành vi của trẻ để
có biện pháp rèn luyện phù hợp.
- Trẻ phải được tham gia vào môi trường hoạt động giao tiếp có văn hóa
thường xuyên.
- Phụ huynh phải phối hợp với nhà trường để có sự giáo dục đồng bộ.
* Về môi trường, cơ sở vật chất :
- Có môi trường hoạt động để tạo cảm xúc, hành vi cho trẻ được bộc lộ.
- Có đầy đủ các thiết bị , đồ dùng đồ chơi để trẻ được học, được chơi.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1- Kết luận :
Việc rèn luyện hành vi gao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo đặc biệt là
trẻ 5 – 6 tuổi là một trong những nhiệm vụ giáo dục toàn diện. Nó hình thành

cho trẻ những hành vi văn minh đối với những người xung quanh. Đức tính
này được hình thành vững chắc từ lứa tuổi mẫu giáo là lứa tuổi mà trẻ rất dễ
nhảy cảm và nhanh chóng tiếp thu những điều trẻ học được ở trường và hình
thành dấu ấn lâu dài. Việc đưa các chuẩn mực hành vi giao tiếp có văn hóa


vào giáo dục trẻ góp phần xây dụng nền tảng ban đầu của nhân cách con
người về sau, đó là yếu tố giúp trẻ phát triển nhân cách một cách hài hoà và
toàn diện là nền tảng của tương lai. Vì vậy chúng ta phải hết sức quan tâm để
nâng cao chất lượng giáo dục ở bậc mầm non, tạo một môi trường lành mạnh,
một tâm thế tốt cho trẻ có những hứng thú khi đến trường và thực sự mang
tính chất là một trường học thân thiện. Với những biện pháp đưa ra nhằm giáo
dục trẻ có hành vi giao tiếp có văn hóa phần nào đó đã có sự tác động đến sự
phát triển ở trẻ nâng cao chất lượng giáo dục hành vi giao tiếp hàng ngày, ứng
xử lễ phép văn minh, lịch sự. Do đó trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động qua
đó trẻ sẽ nhận ra giá trị của bản thân, tự tin khi nhận các nhiệm vụ được giao,
cô trò được sống trong môi trường dạy học tích cực, thân thiện, phụ huynh
ngày càng tin tưởng vào cô giáo
Với những biện pháp tôi đưa ra trên đạt được kết quả như vậy bản thân
tôi thấy đó là điều động viên khích lệ từ đó sẽ cố gắng học hỏi trau rồi kiến
thức hơn nữa để giúp trẻ học tập tốt.
2.Khuyến nghị
Để nâng cao việc sử dụng “Một số biện pháp giáo dục trẻ có hành vi
giao tiếp có văn hóa” tôi xin mạnh dạn dưa ra một số khuyến nghị như sau:
- Các sở, Phòng GD-ĐT, trường mầm non cần tạo điều kiện thuận lợi về mọi
mặt: Thời gian, kinh phí,...để giáo viên không ngừng nâng cao trình độ. Đây
là một giải pháp rất quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục.
- Cần trang bị thêm phương tiện dạy học, đồ dùng, đồ chơi, để phục vụ
hoạt động của trẻ.
- Nhà trường thường xuyên tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động trải

nghiệm tập thể mang tính giáo dục.
- Đối với giáo viên: Luôn tìm tòi sáng tạo, khắc phục những hạn chế về
điều kiện cơ sở vật chất để tạo môi trường giáo dục trong lĩnh vực giáo dục kỹ
năng đặc biệt là kỹ năng giao tiếp có văn hóa.
Do đề tài được áp dụng trong phạm vi lứa tuổi 5-6 tuổi, vì thế biện
pháp tôi đưa ra không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp của


các cấp lãnh đạo, ban giám hiệu nhà trường và bạn bè đồng nghiệp góp ý, xây
dựng để bổ sung thêm giúp tôi có được biện pháp tốt hơn để áp dụng trong
quá trình giảng dạy.
Xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC
Nội dung
Thông tin chung về sáng kiến

Trang

Tóm tắt nội dung sáng kiến.
Mô tả sáng kiến

01

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

02

2. Cơ sở lý luận


03


3. Thực trạng vấn đề

04

3.1. Những thuận lợi và khó khăn

04

3.2. Những giải pháp cũ

07

4. Biện pháp thực hiện

10

4.1 Giáo viên tự học hỏi, bồi dưỡng kiễn thức, nâng cao nhận 11
thức của bản thân về giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa.

12

4.2. Các nhóm biện pháp cụ thể:

12

4.2.1. Nhóm biện pháp giáo dục tình cảm cho trẻ.
4.2.2.Nhóm biện pháp tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động


13

4.2.3. Nhóm biện pháp thực hành luyện tập hành vi giao tiếp 14
trong cuộc sống hàng ngày

17

4.2.4. Nhóm biện pháp đánh giá

17

4.2.5. Nhóm biện pháp kết hợp với phụ huynh

17

5. Kết quả đạt được
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Kết luận
1.Kết luận
2. Khuyến nghị



×