Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.71 KB, 22 trang )

Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
I
Sinh chẳng gặp thuở Đường Ngu
Cái tin vua Lê Tương Dực bị tướng Trịnh Duy Sản giết chết đã được loan truyền đi nhanh
chóng khắp các phường phố kinh kỳ. Bởi vì đó nào phải là việc bí mật gì trong cung cấm. Nó đã
xảy ra một cách công khai, đang lúc ban ngày ban mặt, ngay giữa đường phố, có thể nói là hả hê
của thiên hạ.
Hơn thế nữa, đối với người thạo tin tức -mà ở cái đất kinh kỳ này thời nào chả có loại người
như vậy - thì điều này hầu như người ta đã chờ đợi từ mấy hôm nay như là một câu chuyện thế
tất sẽ xảy ra, chỉ ngày một ngày hai.
Trịnh Duy Sản là ai? Có thể nói đấy là một tướng mạnh, một cánh tay đắc lực của nhà vua
trong việc đàn áp các cuộc "nổi loạn" đang dấy lên liên tiếp khắp nơi từ Nghệ An, Thanh Hóa đến
Kinh Bắc, Hải Dương, đặc biệt là vụ "phản nghịch" của Trần Tuân ở Sơn Tây hồi tháng 11 năm
Tân Mùi, Hồng Thuận thứ 3 (1511). Hồi ấy thế "giặc" rất mạnh. Chúng đã tiến sát
kinh thành. Nhiều cánh quân lớn do nhà vua phái đi ứng chiến liên tiếp bị đánh bại. Dân chúng
hoảng loạn. Nhà vua đã phải chuẩn bị thuyền bè để chạy vào Thanh Hóa. ấy thế mà Trịnh Duy
Sản, lúc ấy chỉ còn lại trong tay vỏn vẹn hơn ba chục thủ hạ, đã xé áo làm hiệu, thề đánh đến
cùng, đang khi xuất kỳ bất ý, xông thẳng vào trại địch, đâm chết tươi tướng giặc Trần Tuân, làm
cho quân địch như rắn mất đầu, bị quan quân triều đình quay lại dồn
đ

uổi tan tác. Nhờ có chiến công xuất sắc này,
ô

ng ta được nhà vua phong đến tước Nguyên
quận công, thế lực không phải là nhỏ.
Nhưng mặt khác, cũng chính trong những cuộc đánh dẹp vất vả liên miên này, ông ta đã thấy
rõ nguy cơ sụp đổ ngai vàng treo ngay trước mắt, nếu nhà vua không mau mau tỉnh ngộ, bỏ bớt
thói xa xỉ ăn chơi, đặc biệt là trong việc xây dựng đại điện và đài cửu trùng hết sức tốn kém, giữa
lúc muôn dân đang rên xiết trong cảnh đói nghèo cùng cực. Oán hận đã chất cao như núi. Mà một
khi ngai vàng sụp đổ thì bao nhiêu công lao đánh dẹp sẽ trở thành công cốc, hơn thế nữa sẽ trở


thành lưỡi dao kề cổ ngay chính ông ta.
Vì vậy ông ta đã hết sức can ngăn nhà vua. Tiếc thay bao nhiêu lời nói thống thiết đều bị Lê
Tương Dực bỏ ngoài tai, không những thế còn đem lòng oán giận, tìm cách làm nhục ông ta. Có
lần nhà vua đã sai lính nọc ông ta ra mà đánh trượng như đối với một kẻ tội phạm tầm thường.
Tránh sao Trịnh Duy Sản khỏi ngầm nuôi ý khác.
Thế rồi gần đây người ta bỗng thấy ông tướng này lui tới dinh thái sư Lê Quảng Độ. Cả đất
kinh đô này còn ai lạ gì tâm địa phản trắc như trở bàn tay của vị quan đầu triều này nữa. Trước
đây, tuân theo di chiếu của vua Trúc Tông
(1)
ông ta đã tôn phò Lê Uy Mục và được ông vua này
khá tin dùng. Nhưng đến khi kinh thành bị quân của Giản Tu Công Lê Oanh (sau này trở thành vua
Lê Tương Dực) vây khốn thì ông ta đã không ngần ngại quay mũi giáo làm nội ứng cho quân bên
ngoài để hại Lê Uy Mục. Tất nhiên là ông ta được chủ mới hết sức trọng đãi. Từ chức Trung quân
đô đốc phủ tả đô đốc, tước Bình Sơn hầu, ông ta đã được gia phong tước Thiệu Quốc công, rồi
chẳng bao lâu lại nhảy lên đến chức Bình chương quân quốc trọng sự thái tể thái sư, một chức vụ
tối cao nắm giữ tất cả quyền chính trong nước mà từ thời Lê Thánh Tông đã bãi bỏ.
Mặc dầu được hưởng nhiều ân sủng đặc biệt như vậy, ông thái sư Lê Quảng Độ vẫn còn đủ
sáng suốt, tỉnh táo để nhận ra rằng vua Lê Tương Dực, từ khi tạm được yên vị, đã ngày càng lao
sâu vào vết bánh xe đổ của Lê Uy Mục và vì thế sớm muộn rồi cũng sẽ chịu
(1) Nối ngôi Lê Hiến Tông, làm vua từ tháng 6 năm Giáp Tý (1504) đến tháng 12 năm ấy thì mất,
truyền ngôi cho anh là Lê Uy Mục.
chung vận mệnh với ông vua xấu số này. Vả lại gần đây ông lại thường nghe bọn tướng số lưu
truyền một nhận xét rất đáng chú ý. Họ nói: Nhà vua có khuôn mặt đẹp ra dáng một gã phong lưu
công tử hơn là một vị đế vương. Lại phải cái dáng đi hơi lệch, khó mà ở ngôi được lâu! Vậy thì còn
phải cân nhắc gì nữa. Nếu mà không sớm tìm kế thay thầy đổi chủ một lần nữa thì rồi đây số phận
của mình sẽ ra sao? Dưới con mắt tinh đời của ông, Trịnh Duy Sản quả là một cánh tay vàng trong
âm mưu phế lập đã định sẵn.
Thời cơ đã đến, thuận tiện đến mức không thể còn mong ước gì hơn được nữa. Cứ như có
bàn tay Trời sắp đặt cho vậy! Hầu hết những đoàn quân tinh nhuệ lúc này đã được dồn cả sang
bên kia sông Cái để chặn đường quân "giặc" Trần Cao đang từ Hải Dương tiến thẳng vào kinh

thành, thế mạnh như nước vỡ bờ. Nguyễn Hoằng Dụ, vị tướng đáng gờm nhất của ông và của
Trịnh Duy Sản cũng đã dời cả hành dinh sang bến Bồ Đề. Kinh thành hầu như bỏ ngỏ. Thế là hai
người quyết định khởi sự.
Thuyền bè, khí giới được gấp rút sửa soạn. Trên dưới 3000 quân còn lại của các vệ Kim Ngô
và Hộ Vệ được điều về đóng chật cả vùng bến Thái Cực
(1)
, nói phao lên là để sẵn sàng ứng viện
cho đại quân đánh Trần Cao. Nhưng vào khoảng canh hai đêm mồng 6 tháng 4 bất thình lình cánh
quân ấy đột nhập vào thành qua cửa Bắc Thần.
Nhà vua vẫn chẳng hay biết gì cả, còn đương túy lúy với bữa tiệc rượu kéo dài suốt từ chiều
đến giờ, giữa đám cung tần mỹ nữ. Bỗng gã thừa chỉ Nguyễn Vũ hớt hơ hớt hải từ đâu chạy xộc
tới, mặt tái mét tưởng chừng như cắt không còn giọt máu:
- Tâu bệ hạ, dễ chừng có biến. Một cánh quân lạ đã lọt vào thành.
- Quân nào?
- ...
Lâu nay hầu như suốt ngày đêm gã thừa chỉ này vẫn ăn dầm nằm dề trong nội điện để uống
rượu và đánh bạc. Y vốn là một tên văn dốt vũ dát vô tích sự không hơn không kém. Nhưng sẵn
đầu óc phiêu lưu, thừa dịp Giản Tu Công Lê Oanh ở Thanh Hóa đang chiêu binh mãi mã để làm
thanh thế áp đảo vua Lê Uy Mục thì y tìm đến ứng nghĩa ngay. Vì vậy mà khi vị hoàng thân này trở
thành vua Lê Tương Dực thì y nghiễm nhiên được đứng vào hàng công thần số một. Con đường
danh vọng bẩn thỉu đã mở rộng trước mắt y. Khoa thi Hội Giáp Tuất (1514), mặc dầu đã bị loại vì
văn thể lủng củng, y vẫn được nhà vua ban đặc ân cho thi lại để lấy đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất
thân. Rồi chỉ vài năm sau y nhảy lên chức Hình bộ
thượng thư kiêm Bảo thiên điện Đông các đại học sĩ, Hàn lâm viện thừa chỉ nhập thị kinh diên,
được phép ra vào tự do nơi nội điện. Mọi người đều khinh ghét y, y cũng biết rõ điều đó. Cho nên
số phận của y trong lúc nguy cấp này không thể tách rời số phận của nhà vua. Và nhà vua cũng tự
biết còn có một gã vô lại ấy là có thể tin cậy được.
Thế là suốt đêm hai thầy trò dắt díu nhau lẩn trốn như chuột, cho mãi đến tờ mờ sáng hôm sau
mới dám mò ra cửa Bảo Chánh. Nhưng vừa đi tắt qua cửa nhà Thái Học, đến hồ Chu Tước thì họ
đụng ngay phải Trịnh Duy Sản. Vẫn chưa hay biết chuyện gì, nhà vua còn quát hỏi: "Giặc ở

phương nào?". Duy Sản không trả lời, chỉ ngoảnh mặt đi mà phá lên cười và khi nhà vua định rẽ
sang đường khác thì ông ta đã ra hiệu cho vũ sĩ cầm giáo đâm chết ngay trên mình ngựa. Liền đó,
gã thừa chỉ Nguyễn Vũ cũng bị đập chết tươi, không kịp kêu lấy một tiếng.
Mặt trời đã lên đến một con sào mà người ta vẫn thấy cái xác dơ bẩn của gã tay chân này còn
nằm co quắp bên lề đường, bê bết những máu và bụi đất. Còn xác nhà vua thì được đặt ngang
trên lưng ngựa, béo ị, nhợt nhạt, chở về cửa Nam, trước viện Đãi Lậu chỗ phủ Tể tướng, để thiêu.
Ngôi viện đồ sộ này, chỉ mới hôm qua còn tấp nập ngựa xe, mà bây giờ đã trở thành vắng tanh
vắng ngắt như chùa Bà Đanh. Lão thái sư cáo già Lê Quảng Độ đã lẩn đi đâu từ lúc nào, đố ai mà
biết được! Lão dại gì mà xuất đầu lộ diện trong lúc mọi sự còn đang rối ren này. Lão cũng phải còn
gờm đại quân của Nguyễn Hoằng Dụ chứ. Chưa biết lúc nào đạo quân ấy sẽ trở lại kinh thành để
hỏi tội những kẻ đã giết vua. Viên tướng này không phải là không có nhiều tham vọng. Chỉ một cái
danh nghĩa là vừa đánh quân "phiến loạn" Trần Cao bên ngoài vừa dẹp bọn phản nghịch bên trong
cũng đủ đưa ông ta đến được địa vị thao túng cả quyền bính trong nước. Thế rồi bọn giặc Trần
Cao chẳng dại gì mà không thừa dịp các cánh quân của triều đình lục đục với nhau để thực hiện
cái mộng "được làm vua" của mình. Chặng đường kéo quân của chúng về kinh thành chẳng còn
phải xa xôi mấy đỗi... Tốt hơn hết trong lúc này là hãy để một mình gã võ biền Trịnh Duy Sản gánh
lấy cái tiếng nghịch đảng giết vua trước dư luận.
Trong dư luận thì ở Nghị sự đường trong thành cấm giữa các quan đại thần và cùng người tôn
thất đang xảy ra một cuộc tranh chấp gay go quanh việc lập ông vua mới. Một phe thì muốn lập
con Mục ý Vương là Quang Trị, lúc ấy mới tám tuổi, lên nối ngôi. Cánh khác lại đòi lập con Cẩm
Giáng Vương là Y, dù sao
(1) Quãng phố Hàng Buồm, Hà Nội ngày nay.
cũng đã mười bốn tuổi. Nghe đâu trong cuộc cãi lộn này đã xảy ra án mạng. Tường quận công
Phùng Dĩnh trong lúc nóng gáy đã sai lực sĩ giết chết Vũ Tá hầu Phùng Mại... Rồi ông vua tám tuổi
được lên ngôi, đâu có ba ngày, chưa kịp đổi niên hiệu thì đã bị Trịnh Duy Ngạc
đ

em biệt về Tây Đô rồi thủ tiêu mất. Rút cục,
ô


ng vua mười bốn tuổi được các phe phái Trịnh
Duy Sản cùng Lê Nghĩa Chiêu và nhiều người trong đám huân cựu tông thất đại thần tạm thời
thỏa hiệp với nhau, phò tá lên ngôi, nhưng tình hình đã rối loạn đến mức chính những người này
cũng phải lật đật rước vua về Tây Đô nốt để còn mưu việc dấy quân ra chiếm lại kinh thành đã để
lọt vào tay Trần Cao.
Thật chẳng còn ra thể thống gì nữa!
*
Buổi sáng hôm ấy, có một chàng thanh niên trạc hai nhăm hai sáu tuổi, ghé đò vào bến Giang
Khẩu
(1)
.
Rõ ràng là anh ta mới từ xa tới, chưa rõ tình hình ở kinh đô, nên vẫn cứ diêm dúa với tấm áo
the thâm dài lượt thượt của đám nho sinh và vành khăn nhiễu to bè quấn lên đến đỉnh đầu.
Thực ra thì phố phường kinh kỳ nào phải xa lạ gì đối với anh. Anh đã từng sống nơi đây suốt
cả thời kỳ niên thiếu. Vả lại giới sĩ phu ở đây mấy ai đã quên được cái anh nho sinh nổi tiếng thần
đồng của xứ Hải Dương, Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1)
ấy. Nhưng mấy năm xa cách với những biến cố
phi thường dồn dập cũng làm anh phải bỡ ngỡ ít nhiều.
Vừa mới bước đi vài bước, anh đã bị thu hút bởi những cảnh tượng khác lạ. Mới sáng sớm mà
bến đò đã đông nghẹt những người từ khắp các phường phố đổ tới. Toàn là đám đàn bà con trẻ,
ông già bà cả dắt dìu, bồng bế, kêu khóc như ri. Cứ mỗi lần có con đò ghé vào bờ là người ta ùa
cả xuống, xô đẩy, bám víu, chửi rủa. Có người sảy tay lộn cả xuống sông. Suốt tám năm trời ở
ngôi của Lê Tương Dực, dân phố kinh kỳ đã phải chạy nạn biết bao nhiêu lần, nhưng chưa thấy
lần nào hỗn loạn đến mức này.
Thế mà quanh chợ Cầu Đông, quang cảnh lại vắng vẻ lạ lùng. Các căn lều trống huếch trống
hoác. Các cửa hiệu đóng cửa im ỉm. Chỉ có những quán rượu là cứ tấp nập như thường. Bọn du
thủ du thực, bọn lính tráng trốn ngũ, bọn phu phen khuân vác... thôi thì tha hồ mà lè nhè, mà tục
tĩu:
- Mẹ kiếp, chỉ nay mai bọn quân "ba chỏm"

(2)
ấy nó kéo vào đây, thì đến cái mạng ông vua cũng
chẳng hơn gì cái mạng con lợn! Tội gì mà chẳng say... Và bọn ăn mày chẳng biết từ đâu kéo đến
mà đông vô kể. Họ cứ bu lấy những quầy hàng
rượu, ăn xin có, cướp giật cũng có. Đối với lớp người này thì chẳng có tình thế nào trên đời là
đáng phải sợ cả. ấy cứ loạn to lên lại có khi sướng cơ đấy! "Thứ nhất quận công, thứ nhì không
khố", cứ bảo thế chứ những lúc như thế này dễ thường anh "không khố" lại đứng hàng đầu.
Nhưng bỗng nhiên cái khối người bát nháo ấy cùng sững cả lại như bị một sức mạnh thần bí
nào thôi miên vậy. Rồi cứ thế, chẳng ai bảo ai, tất cả đều rùng rùng nhổm dậy, tranh nhau mà chạy
cả về một hướng.
- Anh em ơi, bọn lính canh biến mất tất cả rồi!
- Quân ông Dụ đã đổ lên chật cả bến Đông Bộ Đầu. Quân ông Sản thì tếch từ hôm qua. Nhà
vua cũng chuồn nốt...
- Cấm thành bỏ trống toang. Không vào mà hôi của còn đợi lúc nào. Máu mỡ của chúng mình
cả chứ của ai. Mau lên. Mau lên nào! Nguyễn Bỉnh Khiêm còn chưa hết ngạc nhiên sửng sốt thì đã
thấy từ phía cửa Đông túa ra từng tốp từng tốp người, mặt mày hớn hở, khiêng
Cuộc hồi loan của nhà vua đã được nhân dân khắp vùng đón rước thật là nồng nhiệt. Suốt dọc
đường, hai bên bờ sông, cờ vũ mao của nhà vua đi đến đâu là người ta đổ xô ra tới đó, reo hò,
tung hô "Vạn tuế", có lúc đẩy nghiêng cả tàn lọng, cờ quạt. Các làng xã đều đặt long đình, hương
án bên đường để làm lế bái vọng. Có nơi các bô lão còn dâng sớ chúc mừng cùng bày tỏ niềm tin
sẽ được nhà vua khoan giảm. Khắp các phường phố kinh đô, cờ xí rợp trời, tiếng loa dậy đất,
quân dân chen chúc nhau hồ hởi khác thường. Lâu lắm rồi người ta mới được thấy một cảnh
tượng như vậy.
Ôi, người ta khao khát hòa bình, trật tự biết bao. Chỉ cần đẩy lùi được chiến tranh, giặc giã là
người ta thấy sướng vui như chết đi sống lại. Người ta tưởng chừng như chính vua Mạc đã làm
được việc đó và sẽ đem lại cuộc sống bình yên như họ hằng mơ ước. Trong chốc lát, người ta
như quên đi tất cả những cảnh đen tối trước mắt, mà chỉ còn nhớ đến những ngày an lạc mà
chính nhà Mạc đã đem lại cho họ trước
đây.


Người ta lại hy vọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã

được chứng kiến đầy đủ cảnh tượng này
trong khi hộ giá nhà vua trở lại kinh thành. Như vậy thì nhà Mạc phải đâu đã mất hết thời cơ để
thống nhất đất nước và đem lại cuộc sống yên vui cho trăm họ, nếu như vua tôi đều đồng tâm
nhất trí lo toan việc đó. Họ còn có lực. Họ còn có dân. Nhưng tiếc thay, bọn triều thần đớn mạt bao
quanh nhà vua nào có nghĩ thế.
Tuy nhiên tai họa lớn vừa qua cũng làm cảnh tỉnh được phần nào nhà vua cùng một số triều
thần còn có ít nhiều tâm huyết. Nhà vua đã cố gắng tự nắm lấy quyền chính để cho Khiêm vương
Mạc Kính Điển được chuyên tâm hơn vào việc quân. Hàng loạt đại thần dều dâng sớ nêu rõ thực
trạng lộn xộn, thối nát trong chính sự và mạnh dạn khuyên nhủ nhà vua gia tăng phép nước để
bầy tôi không dám chuyên quyền.
Mạc Phúc Nguyên không phải là không chấp nhận tất cả những ý kiến chân thành và
xác đáng của họ. Nhưng thi hành những điều đó lại là chuyện khác. Cả bộ máy thừa hành từ trên
xuống dưới đã không còn là công cụ đắc lực cho nhà vua nữa rồi. Tuy nhiên trên một số mặt sinh
hoạt bình thường, tình hình bề ngoài cũng đã trở lại được nhịp điệu như trước. Khoa thi Hội năm
Quý Sửu (1553) vẫn được mở theo đúng kỳ hạn. Năm sau đó, Giáp Dần (1554), niên hiệu Cảnh
Lịch được đổi thành niên hiệu Quang Hòa năm thứ nhất để chứng tỏ với muôn dân là nhà vua đã
quyết tâm đổi mới.
Tình thế đã tạm thời cho phép quân Mạc mở những cuộc phản công quy mô hòng gỡ khỏi thế
bị động trên cả hai mặt trận. Mặt trận
• phía nam, đánh thẳng vào căn cứ Lê Trịnh
• Thanh Hóa, và mặt trận phía tây bắc nhằm
thẳng vào sào huyệt của Vũ Văn Mật ở vùng Hưng Hóa, Tuyên Quang. Bọn này càng ngày càng
tỏ ra hung hãn, quấy rối sau lưng quân Mạc và gần đây đã phối hợp với quân Trịnh tiến đánh kinh
thành, trở thành một thế hết sức nguy hiểm.
Và lần này Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được sung vào đạo quân Tây Bắc cùng với một số văn thần
khác.
*

Đây không phải là lần đầu Nguyễn Bỉnh Khiêm được cử vào nhiệm vụ này. Vào khoảng đầu đời
Cảnh Lịch chính ông đã hộ giá nhà vua thân chinh đi chiến dịch đó. Những ký ức về cuộc hành
quân gian nan vất vả này hãy còn như rất mới mẻ trong tâm trí ông.
Hồi ấy quân Mạc quả thật là một lực lượng hùng hậu. Khí thế ra quân cũng rất hùng dũng. Nhà
vua đã biết sử dụng khá nhiều văn thần để làm nhiệm vụ an dân sau khi quân đội chiến thắng.
Nhưng Vũ Văn Mật đã tỏ ra là một địch thủ lợi hại hơn người ta tưởng rất nhiều. Chỉ sau khi quân
Mạc "khải hoàn" về ít lâu là y đã nghiễm nhiên trở lại làm chủ hầu hết những vùng đất đai phải tạm
rút bỏ, và lại còn nắm trong tay cả một lực lượng còn lớn hơn trước nhiều. Cuộc tấn công mãnh
liệt và bất ngờ vừa rồi về tới kinh đô cùng với những cánh quân tiên phong của họ Trịnh đã làm
cho nhiều người, trong đó có Nguyễn Bỉnh Khiêm phải hết sức ngạc nhiên.
Vũ Văn Mật là ai? Y cùng người anh, Vũ Văn Uyên, thực ra chỉ là những gã phiêu lưu gặp thời.
Trong cái buổi thế nước rối ren loạn lạc này, những hạng người như anh em hắn chẳng phải là
hiếm. Vốn người xã Ba Động, huyện Gia Phúc, trấn Hải Dương. Vào cái thời Quang Thiệu (1516-
1522) hay Thống Nguyên (1522-1527) nhà Lê gì đó vì can tội giết người, hai anh em liền trốn khỏi
quê quán, lần mò lên đến vùng Tuyên Quang này nương nhờ một nhà giàu ở xứ Đại Đồng, châu
Thu Vật. Nhân thấy người tù trưởng ở đây bị dân chúng địa
phương oán ghét vì tham lam, độc ác, hai anh em liền liên kết bè đảng đi giết và cướp lấy đất, tự
biến thành lãnh chúa cả vùng này.
Thế là từ đó hai anh em đã bắt tay vào một cuộc kinh doanh rộng lớn, mở mang ruộng nương,
phố xá, chợ búa, cầu đò. Lại chiêu tập những người dân phiêu tán từ những miền xuôi chạy lên
đây đã khai phá đất hoang, lập thêm làng ấp. Chẳng bao lâu khu vực Đại Đồng đã trở thành một
thị trấn sầm uất, trên bến dưới thuyền bán buôn tấp nập. Nhân dân no đủ. Thật khác xa với quang
cảnh tiêu điều đang bày ra khắp nước hồi đó. Văn Uyên đã mất để lại toàn bộ giang sơn cho em
nối nghiệp.
Thời đó vua Lê đã không còn đủ sức nắm lấy những vùng biên viễn xa xôi nữa, đành phải
phong cho Văn Mật chức Đô tổng sứ Tuyên Quang, tước Khánh Dương hầu và cho quyền được
tùy nghi tuyển mộ binh lính trấn giữ địa phương. Lợi dụng điều kiện hết sức thuận lợi này, Văn Mật
đã mặc sức mở rộng phạm vi thế lực ra khắp cả một miền rộng lớn bao gồm các châu Thủy Vĩ,
Văn Bàn, Lục Yên, Thu Vật, Vị Xuyên thuộc trấn Tuyên Quang, và có lúc ra đến tận các phủ Lâm
Thao, Đoan Hùng, Đà Dương trấn Sơn Tây và các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ trấn Thái Nguyên

nữa.
Cho đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê thì Vũ Văn Mật đã có thể đường đường tuyên
bố chống Mạc, xây đắp cả một hệ thống thành lũy kiên cố khắp các châu huyện và chia quân
thành 11 doanh để trấn thủ các nơi hiểm yếu. ở trấn Đại Đồng, y đã xây dựng một triều đình riêng,
cũng đủ bá quan văn võ. Y còn mời cả nhà ẩn sĩ Nguyễn Hàng ra giúp việc chính sự. Tuy đã từ
chối mọi nhiệm vụ mà Văn Mật giao cho, những Nguyễn Hàng cũng phải thốt lên những lời ca
ngợi đến kinh ngạc trước cảnh sống phồn vinh và quy mô đường bệ của cái triều đình riêng một
góc trời ấy.
Như vậy là khi tuyên bố chống lại nhà Mạc,
ý đồ của họ Vũ đâu phải là nhằm khôi phục nhà Lê mà là để lập nên một vương triều cát cứ lâu
dài. Nhưng khi được tin nhà Lê bắt đầu công cuộc trung hưng ở Thanh Hóa, thì Văn Mật không dại
gì mà không bắt tay với lực lượng này để chia sẻ thế lực của nhà Mạc và mượn danh phù Lê để
tăng thêm uy tín trong quần chúng. Vì thế y đã dâng biểu quy thuận vua Lê Trang Tông (1533-
1548) và tất nhiên tờ biểu đã được chấp nhận một cách hết sức vui vẻ.
Vua Lê và nhất là Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm đã thấy ngay được vị trí lợi hại của Vũ Văn Mật
trong sự nghiệp trung hưng của mình, vừa là một gọng kìm kẹp vào sau lưng quân Mạc, lại vừa là
một cửa ngõ thông sang nước Minh để khi cần có thể qua đường này mà xin cầu viện. Và quả
nhiên khi nhà Minh mượn cớ phù Lê diệt Mạc mà sai bọn Cừu Loan, Mao Bá ạn tiến quân thì bọn
này đã có mật hẹn với Vũ
Văn Mật để dùng y làm quân tiên phong dẫn đường cho chúng. Tuy sự việc này đã không xảy ra,
nhưng Văn Mật cũng thường có những mối quan hệ ngấm ngầm nguy hiểm với bọn quan lại bên
kia biên giới. Chính những hoạt động này đã làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải suy nghĩ nhiều
trong chuyến đi chinh phạt trước đây. Sứ mạng của ông quả thật tế nhị hơn nhiều so với quan
niệm của triều đình và nhất là bọn võ tướng chỉ huy mặt trận.
Trước hết là phải nêu cao được danh nghĩa điếu dân phạt tội của nhà vua, ban hành nhân
chính để cảm hóa lòng người chứ không thể chỉ đơn thuần dựa vào võ lực. Điều đó lại càng khó
khăn vì nhân dân vùng này đã có cả một thời khá lâu được sống yên ổn và no đủ dưới bàn tay cai
quản của hai anh em họ Vũ. Tuy những năm gần đây họ có bị bọn này vơ vét khá nhiều để đổ vào
cuộc chiến tranh với nhà Mạc, đời sống có giảm sút đi, nhưng vẫn chưa thể vì thế mà họ dễ dàng
từ bỏ lãnh chúa của họ.

Hơn nữa, cũng không thể dè chừng một cuộc đụng độ, tuy chỉ xa xôi bóng gió nhưng không thể
tránh khỏi với bọn quan lại "thiên triều" vốn vẫn giữ liên hệ với họ Vũ để tính chuyện lâu dài. Có lẽ
cũng chính vì vậy là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh của nhà Mạc, nhà vua cùng Khiêm
vương phụ chính đã cử nhiều văn thần vào hàng cao cấp đến thế đi theo việc quân. Ngay chính
nhà vua, khi ấy hãy còn nhỏ tuổi, cũng thân chinh ra trận để nêu thêm danh nghĩa.
Chuyến ấy ra đi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng các bạn ông đã phấn khởi tin tưởng biết bao nhiêu.
Nhà vua đã tin dùng bọn văn thần? Nhà vua đã quyết định thi hành đường lối nhân chính, mở rộng
việc chiêu hàng để chinh phục lòng người và hạn chế phần nào thói tham bạo của đám tướng
lĩnh? Có lẽ lúc này là cơ hội thuận tiện nhất để được gần gũi nhà vua, thuyết phục nhà vua hướng
theo đường lối đó? Và nếu như chiến dịch này mà toàn thắng, đúng như quan niệm chiến thắng
của các ông, nghĩa là chiến thắng về mặt nhân tâm, khiến cho lòng dân ở cả những miền rừng núi
xa xôi này từ nay cũng sẽ tự nguyện từ bỏ bọn cát cứ yêu nghiệt mà hướng về nhà vua, thì quả
thật đó sẽ là một chiến thắng kiểu mẫu, một phương thức chiến tranh kiểu mẫu giúp cho nhà Mạc
thu phục được giang sơn, chấm dứt cảnh đất nước chia cắt.
Tiếc thay, tất cả những lý lẽ ấy đã không thể thuyết phục được bọn tướng lĩnh. Những cuộc
chinh chiến liên miên và cả cuộc đời vào sanh ra tử mà họ rất đỗi tự hào có lẽ đã tạo
cho họ những thói quen, những nếp nghĩ thật là đen tối, tàn bạo. Kiêu ngạo, độc đoán, chỉ thích
chém giết, tàn phá, cướp bóc.
Nhưng trước những đội quân hùng mạnh của triều đình, Vũ Văn Mật đã không dại gì mà tung
lực lượng ra đánh. Trái lại y đã khôn khéo dùng kế lui quân về cố thủ trên vùng thượng nguồn
hiểm trở. Thế là cả một vùng rộng lớn, từ Lâm Thao, Đoan Hùng sang đến Phổ Yên, Đồng Hỉ lại
trở về với nhà Mạc hầu như không qua một trận đụng độ đáng kể nào. Công việc bình định như
thế tưởng chừng là sẽ dễ dàng. Đây chính là lúc nhân danh nhà vua ban bố chiếu mệnh an dân,
mở lối chiêu hàng, rộng tha những kẻ bị lôi cuốn theo giặc, chiêu mộ dân lưu tán trở lại làm ăn, cắt
đặt kẻ chăn dân để mau chóng ban hành giáo hóa, làm cho xa thư lại về một mối.
Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng các bạn của ông đang hăm hở bắt tay vào một công cuộc đầy hứng
thú như vậy thì bọn tướng tá đã làm cho các ông phải thất vọng hoàn toàn. Căm tức vì không thể
tiêu diệt được chủ lực và đầu não của đối phương trong những căn cứ hiểm hóc của họ, lại bị sa
lầy vào những vùng hẻo lánh xa xôi, rừng thiêng nước độc, tin tức không thông, lương thảo cạn
sạch, bệnh tật ốm đau, cả đạo quân hùng hậu mang danh nghĩa vương sư chẳng bao lâu đã biến

thành những toán giặc cướp không còn kỷ cương gì hết. Cả một vùng Đại Đồng trù phú là vậy mà
sau khi quân Mạc rút qua chỉ còn là đống tro tàn. Khắp nơi xóm làng xơ xác, vườn tược tiêu điều,
đồng ruộng hoang rậm. Còn đâu là danh nghĩa của đoàn quân điếu phạt, còn đâu là lòng tin của
dân chúng nữa. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải khóc lên trước những cảnh thương tâm ấy, khóc lên
về sự bất lực của chính mình, vì trách nhiệm không được hoàn thành.
Rút cục, cuộc hành quân đã thực sự thất bại, mặc dù người ta vẫn cố bày trò "khải hoàn", luận
công ban thưởng để trấn an quân sĩ. Và chỉ ít lâu sau đó, khi Vũ Văn Mật trở về thì vùng Đại Đồng
cùng các châu huyện xung quanh lại thuộc về vương quốc của y như cũ...
Vậy thì trong chuyến đi này, liệu ông còn có thể thi thố được điều gì tốt đẹp? Sự thật vẫn diễn
ra chẳng có gì khả quan hơn cả.
Đã thế vừa đặt chân về tới triều đình thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại nhận được những tin bại trận
còn thảm hại hơn nữa. Cả một đoàn quân lớn đông đến vài vạn chiến sĩ cùng hàng trăm chiến
thuyền dưới sự chỉ huy trực tiếp của Khiêm vương Mạc Kính Điển vừa thua lớn ở mặt trận Thanh
Hóa. Hàng mấy nghìn quân cùng vài chục viên tướng, trong đó có Thọ quận công chỉ huy thủy
quân đã bỏ mạng. Khí giới thuyền bè hầu như mất sạch. Kính Điển
chỉ còn thu nhặt được ít tàn quân lếch thếch chạy về kinh thành.
Cũng như mấy lần trước đây, cuộc đại thắng của quân Trịnh lần này vẫn chủ yếu là do bọn
hàng tướng Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang và nhất là danh tướng trẻ tuổi Nguyễn Quyện đóng vai
chủ chốt. Điều đó càng làm cho nhà Mạc hết sức lo ngại.
Tình thế đã cấp bách đến mức nhà vua cùng Khiêm vương không thể để cho Nguyễn Bỉnh
Khiêm, mặc dầu tuổi già sức yếu, được nghỉ ngơi về thăm nhà, theo yêu cầu khẩn thiết của ông
nữa. Một nhiệm vụ hết sức quan trọng, mà lại mười phần khó khăn tế nhị, chỉ có ông mới có khả
năng làm được. ạng được cử đi mặt trận Sơn Nam để tìm cách liên lạc với tướng Nguyễn Quyện,
vốn là học trò cũ, mà lại là con của người bạn thân, để dụ anh ta trở về với nhà Mạc.
Tất nhiên, một lần nữa, Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể từ nan. Nhưng ông cũng lường trước
được tất cả những nỗi éo le sẽ đặt ra trước mắt. Mọi việc đưa đón sắp đặt thì đã có viên tướng
Nam đạo chịu trách nhiệm cả rồi. Nhưng biết ăn nói với anh học trò Nguyễn Quyện sao đây, trong
khi ông cầm chắc là sẽ không thể lay chuyển được ông bạn Nguyễn Thiến, cha anh ta rồi. Chỉ nội
một việc cha con Phạm Quỳnh còn đó và vẫn được nhà vua trọng dụng cũng đủ làm cho ông ta
không thể trở về. Vả lại ông bạn cũng đã ngoài bảy chục tuổi đầu rồi còn gì. Thế mà một khi ông

bạn còn ở bên đó thì làm sao con ông ta đành lòng bỏ về với Mạc?
Nhưng những cảnh tàn phá đau thương mà chính tay anh ta đã gieo rắc mấy lần trên đất Sơn
Nam trù phú kia, và có lần ngay cả bên cửa ngõ kinh thành đã làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải
suy nghĩ nhiều. Vả lại, nghĩa vua tôi dầu sao cũng là rường mối trong đạo lý làm người. Thà rằng
như Lương Hữu Khánh hay Phùng Khắc Khoan thì lại là chuyện khác. Cả hai người đã có quan hệ
vua tôi gì với nhà Mạc đâu. Đằng này, ít ra thì anh ta cũng đã có hai đời gắn bó với vua Mạc, làm
sao nỡ một ngày dứt tình mà quay giáo làm thù. Cái cảnh tàn quân của Mạc Kính Điển lếch thếch
trở về cùng nỗi hốt hoảng của nhà vua đã để lại ấn tượng quá sâu trong tâm trí ông.
Thế là một lần nữa ông lại phải tạm gác mối tình quê để ra đi.
X
"Thiên hạ chăng tư, ấy của chung"
"Bụt Nam hạ lại từ oản chiêm?", cái câu nói chẳng ra khôi hài mà cũng chẳng ra than vãn ấy
quả đã nói lên rất đúng một nét sinh hoạt của người dân miền chiêm trũng hạ bạn trấn Sơn Nam.
Thì ra ở đây đến Bụt cũng chịu chung một số phận chẳng lấy gì làm tươi đẹp lắm của con người,
quanh năm chẳng bao giờ được nếm miếng cơm dẻo gạo mùa, còn nói chi đến miếng oản nếp
mùa thơm tho, béo ngậy. ở đây làng xóm cứ như là những hòn đảo nhỏ chật hẹp, nhà cửa chen
chúc cùng với mảnh vườn chỉ bằng lòng bàn tay. Bước ra khỏi xóm là chỉ có nước và nước. Đi
một bước cũng phải lội, hoặc dùng thuyền thúng.
Một cuộc sống bình thường vốn đã vất vả như vậy mà giờ đây còn bị đảo lộn cả lên. Đất Sơn
Nam từ lâu đã trở thành như một khu đệm giữa hai vương quốc đối địch: Nam triều và Bắc triều.
Chính cái tính chất đó đã tạo cho cả một vùng rộng lớn này những nét sinh hoạt thật là khác lạ.
ở đây hầu như vắng bóng đàn bà, con trẻ, vắng bóng những cụ già, những người chân yếu tay
mềm và những hạng người có của. Họ
đã

phiêu dạt đi khắp nơi để tránh họa binh
đ

ao, hoặc sống lẩn lút trong những túp lều tạm
bợ giữa những lùm cây rậm hay trong hang núi. Còn lại chỉ là một hạng người khỏe mạnh, gan

góc, táo tợn với một nếp sống khá kỳ quặc, có thể nói là "ngoài vòng pháp luật".
Lúc thường thì đám người này cũng làm ăn lương thiện như ai. Cũng cày cấy, cũng chài lưới...
Nhưng nếu có dịp thì không ít người đã tụ tập nhau lại thành đoàn để đi cướp bóc, phá phách như
những tên lục lâm chính cống. Có bọn bỗng trở thành những tay buôn chuyến giàu sụ. Có gì đâu.
Một cuộc hạn hán hay lụt bão ở phía bên này hay bên kia, giá gạo bỗng lên vùn vụt. Thế là họ
"vượt tuyến" chở gạo đến. Thật cứ như là vơ được tiền của, vàng bạc vậy. Nhưng tất cả số của
trời ơi ấy họ cũng chẳng cần giữ làm gì. Họ quẳng cả vào những canh bạc hay quán rượu cho
thỏa thích chốc lát, rồi lại ra đi mạo hiểm làm một chuyến khác. Có khi họ lại đường hoàng chuyên
chở cả vũ khí, lương thảo cho một cuộc hành quân lớn bên này hay bên kia. Và tất nhiên là cả hai
bên đã khôn khéo sử dụng bọn họ như những tên gián điệp chuyên nghề lợi hại để dò la tin tức,
đưa đón nhân vật này hay nhân vật khác, hoặc có khi làm hướng đạo trong những cuộc hành
quân bí mật qua những đường ngang lối tắt mà hầu như chỉ có họ biết được. Có người trong bọn
họ vì vậy mà đã lập được công lớn, được phong chức tước hẳn hoi... Cuộc đi công cán của
Nguyễn Bỉnh Khiêm lần này đã được bố trí khá kín đáo. Hành dinh bí mật của ông
được đặt ở một nơi khá xa mặt trận để có đủ an toàn và yên tĩnh cho ông làm việc, nhưng đồng
thời lại rất thuận tiện cho việc liên lạc một mặt là với kinh đô, mặt khác là những đầu mối đi lại bí
mật của quan Mạc thông sang đất địch. Đủ biết là nhà vua cùng Khiêm vương coi trọng và trông
chờ ở kết quả việc làm của ông đến mức nào.
ạng được xếp đặt ở ngay gần một ngôi chùa cổ nổi tiếng ở vùng hạ bạn trấn Sơn Nam. Đó là
chùa Phổ Minh, một địa điểm có thể khêu gợi cho người ta khá nhiều ký ức lịch sử. Nơi đây chính
là làng Tức Mạc, đất thang mộc của nhà Trần xưa, sau được đổi làm phủ Thiên Trường với cả
một loạt cung điện, đình chùa được dựng lên làm nơi di dưỡng cho những vị Thái thượng hoàng
sau khi đã nhường ngôi báu cho con
(1)
.
Nhưng tất cả cái quy mô đường bệ ấy nay còn đâu! Lịch sử chỉ mới trải qua vài trăm năm thôi,
mà biết bao nhiêu cuộc tang thương biến đổi! Đâu rồi những cung Trùng Quang, cung Trùng
Hoa... của vua Trần? Cái vạc chùa Phổ Minh nổi tiếng là thế mà nay cũng chỉ còn là niềm luyến
tiếc của mọi người. Quân xâm lược tàn bạo nhà Minh đã đang tâm phá hủy nó, như chúng đã chủ
trương phá hủy mọi di tích văn hóa truyền thống của ông cha ta, để đúc thành súng đạn bắn vào

nghĩa quân ta. Ngay đến cái chùa Phổ Minh, niềm tự hào của nền kiến trúc địa phương này cũng
đã phải trùng tu biết bao nhiêu lần rồi? Còn chăng của quá khứ là mấy cái bậc thang tam cấp
chạm rồng uốn khúc mà thôi.
May thay, lòng dân đối với cái triều đại anh hùng ba lần chiến thắng quân Nguyên ấy thì vẫn
còn nguyên vẹn. Trong một ngôi miếu cổ khiêm tốn thôn Tức Mặc, 12 tấm bài vị của 12 vua Trần,
vẫn được đặt trên ngai rồng và vẫn ngát mùi hương khói vào những ngày kỵ, những ngày tuần
tiết, mặc dù quanh đây, hàng mấy chục năm rồi vẫn là chiến tranh, loạn lạc.
Bâng khuâng xúc động với những ký ức xưa, Nguyễn Bỉnh Khiêm ngẫu hứng nên bài thơ Chơi
chùa Phổ Minh. Cảm giác về sự mất mát quá ư phũ phàng qua dòng thời gian, đã làm cho ông
đến choáng ngợp. Nhưng chính trong những giây phút cảm động ấy ông lại như chợt phát hiện ra
một nhân tố vĩnh cửu, bất khả chiến bại, ngang tầm rộng lớn với trời đất, tuy đó chỉ là một nhân tố
vô hình. Phải chăng cái đó là lòng người?
Nhưng lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu còn thư thái tâm hồn để mà thả mình theo hồn thơ,
theo những suy tưởng cao siêu như thế. Công việc trước mắt đã thu hút cả tâm trí ông.
Kế hoạch của quân Mạc là bố trí phục binh, nhằm bắt sống được Nguyễn Quyện để giao
cho ông dụ hàng. Nhưng rủi thay, chờ đợi đến hàng tháng trời mà vẫn chẳng thấy tăm hơi viên
tướng vốn rất xông xáo này đâu cả. Œm mưu mai phục đã bị lộ rồi chăng? Rất có thể. Chỉ mới về
đây ít ngày Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhận ra ngay thái độ rất chủ quan, thiếu cảnh giác khá lan tràn
từ trên xuống dưới trong đám quân tướng nhà Mạc. Việc bố phòng vì vậy còn quá sơ sài, trễ nải.
Cuối cùng thì ông đành phải thuyết phục viên tướng Nam đạo thay đổi chiến thuật, cứ để ông viết
thư dụ hàng và tìm cách bí mật gửi thẳng đến cho cha con Nguyễn Quyện ở phía bên kia.
Tất nhiên là công việc này cũng chẳng dễ dàng gì hơn kế hoạch đã định trước.
Cái khó nhất vẫn là chỗ không thể không có mấy lời với ông bạn già Nguyễn Thiến. Trách móc
ư? Khêu gợi sự ăn năn nghĩ lại ư? Làm sao có thể như thế được. ạng hiểu lắm. ạng bạn nào có
vui vẻ gì khi phải từ bỏ nghĩa vua tôi, từ bỏ bạn bè thân yêu của mình để ra đi một cách phũ phàng
như vậy. Vả lại kẻ gây ra nông nỗi éo le này lại chính là những người "thân" của mình. Nhưng có
việc gì mà phải thanh minh nhiều lời cơ nhỉ. Có bao giờ ông bạn không hiểu cho lòng ta đâu. Tốt
hơn hết vẫn là tình bạn thông cảm như xưa. Nhưng chính cái đó lúc này mới khó ăn nói làm sao!
ạng đã viết rồi lại phải xé đi biết bao nhiêu dòng chữ, biết bao nhiêu trang giấy mà vẫn không sao
thấy xuôi được. Chỗ thì đọc lại nghe sao mà giả tạo làm vậy. Chỗ vừa mới xem qua đã thấy

chướng làm sao, cứ như lên mặt nhắn nhủ dạy đời. Mình còn thấy thế thì ông bạn làm sao mà
cảm thông được. ại, tình bạn! Khi còn ở bên nhau, có bao giờ hai người phải nhắc đến nó đâu nhỉ.
ấy thế mà cử chỉ nào cũng thật ăn ý với nhau, lời nói nào cũng thấy ngọt ngào, ý vị. Còn bây giờ
thì...
Bỗng một đêm thanh vắng, còn đang mơ mơ màng màng trong giấc ngủ chập chờn bên ngọn
đèn tàn, thì ông chợt giật mình tỉnh hẳn dậy. Cái gì thế nhỉ? ồ, một bài thơ nguyên vẹn, hoàn chỉnh
vừa mới bật ra trong tâm trí ông như một tia sáng. Một bài thơ. Thế mà tại sao suốt mấy hôm nay
ta chưa nghĩ đến điều đó nhỉ. Chỉ có thơ mới dễ dàng đi thẳng vào lòng ông bạn được thôi. Chỉ có
thơ mới dễ ngọt ngào tình xưa nghĩa cũ.
Ta giữ kẻ côi vì chút nghĩa, Bạn đương khi biến há cam lòng, Khí vận một vòng ly lại hợp, Sông dài
há có hạn Nam, Đông.
Chưa mấy khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy được bình tâm như thế, khi ghi lại bài thơ dự định
gửi đi cho bạn. Một bài thơ đúng lúc, đúng ý mình. Một bài thơ hợp tình, hợp cảnh.
Và suốt đêm ấy hình như bài thơ đã trả lại cho
ô

ng một giấc ngủ yên lành.
Sẵn cái đà đó, chỉ sáng hôm sau là bức
thư bằng thơ gửi cho anh học trò Nguyễn Quyện cũng được soạn thảo xong, sẵn sàng giao cho
người chuyển đạt.
Đạo ở mình ta có khó gì, Phương chi chí khí đã tương kỳ
Nghìn năm quân phụ cương thường đó Trung hiếu một lòng chớ đổi đi.
Thế là trách nhiệm được giao phó, ông đã hoàn thành một cách suôn sẻ đến không ngờ.
Nhưng thực tình mà nói, Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu dám tin vào kết quả của những bức thư này.
Tình bạn ư? Tình thầy trò ư? Vẫn là sâu nặng đấy. Nhưng đối với những con người biết suy nghĩ
như cha con ông bạn Nguyễn Thiến thì bên trên những thứ tình cảm cao quý ấy, lúc này còn có
một điều hệ trọng hơn nhiều, đáng làm cho người ta phải cân nhắc hơn nhiều, đó là câu chuyện
chọn chúa.
Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn chưa thể quên được những lời lẽ tuy có vẻ phũ phàng nhưng không
phải là không có sức mạnh thuyết phục bằng sự thật của Lê Bá Ly hồi nào, trước các hàng quân,

khi quyết định từ bỏ nhà Mạc về với nhà Lê: "Nay gặp hôn quân, không biết minh đoán, chỉ nghe
lời dèm pha khiến cho bao nhiêu nghĩa biển tình non đều thành băng tan ngói trút. Sự thể đã như
vậy, thôi còn nói làm gì..." Những lời nói ấy đã được tất cả các tướng sĩ đồng thanh hưởng ứng.
Vậy thì từ đó đến nay, vua Mạc, triều đình nhà Mạc đã làm được những gì để xóa dần cái ấn
tượng đó, để giữ vững lòng tin của những người còn ở với mình, để những người trót đã ra đi còn
có cớ để quay đầu trở lại? Nếu không thế thì chẳng phải chỉ có một Nguyễn Quyện ra đi mà sẽ có
thể còn nhiều Nguyễn Quyện khác nữa cũng sẽ nối gót.

×