Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Tín dụng ngân hàng đối với phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 90 trang )

MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu ……………………………………………………………3
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ & VỪA TRONG NỀN KINH TẾ

1.1 Vị trí của DNNVV trong nền kinh tế
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa. ………………….….. 8
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa .……………… 10
1.1.3 Vai trò của DNNVV trong phát triển kinh tế. ……….…... 13
1.2 Tín dụng ngân hàng với DN NVV.

………………………....16

1.2.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng. …………………………. 17
1.2.2 Quan hệ tín dụng ngân hàng với DNNVV...………….….. 19
1.3 Tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV ở Việt Nam. ….….. 25
1.3.1 Thực trạng hoạt động tín dụng cho DNNVV..................... 26
1.3.2 Nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng
tín dụng với DNNVV …………………………………………… 29

Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BẮC NINH

2.1 Khái quát về doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Bắc Ninh….... 34
2.1.1 Thực trạng phát triển. ……….…………………………... 34
2.1.2 Những đóng góp tích cực của DNNVV với kinh tế - xã hội
tỉnh Bắc Ninh……………………….………………………..39


2.2 Hoạt động tín dụng với DNNVV …………………….…..…44
2.2.1 Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng trên địa bàn … 44
-1-


2.2.2 Quan hệ tín dụng ngân hàng với các DNNVV trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh……………..…………………………………….. 45
2.3 Đánh giá chung về hoạt động tín dụng của các NHTM với
DNNVV
2.3.1 Về những mặt tích cực. ……………..………………………57
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân yếu kém trong quan hệ
tín dụng ngân hàng với các doanh nghiệp nhỏ và vừa …….…..….60

Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ MỞ RỘNG

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ &
VỪA Ở BẮC NINH
3.1 Định hướng, mục tiêu phát tiển DNNVV tỉnh Bắc Ninh . . 68
3.2 Quan điểm về mở rộng tín dụng đối với DNNVV ….….… 69
3.2 Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Bắc Ninh ……….……………...70
3.2.1 Về phía doanh nghiệp nhỏ và vừa ………………………… 70
3.2.2 Về phía ngân hàng thương mại ……………………..…….. 75
3.2.3. Về phía Nhà nước và tỉnh Bắc Ninh. …………..……..….. 81
Kết luận …………………….…………………………..……… 89
Danh mục tài liệu tham khảo ……………………..………..… 91

-2-



CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG NỀN KINH TẾ
1.1 Ví trí của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế.
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền
công nghiệp phát triển gắn với những công ty, tập đoàn kinh tế lớn như
ngày nay thì sự khởi đầu của họ là những xí nghiệp, công trường thủ công
sản xuất nhỏ, qúa trình phát triển của chủ nghĩa tư bản gắn với qúa trình
tích tụ tập trung tư bản, sự cạnh tranh gay gắt giữa các xí nghiệp trong và
ngoài nước đã tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn như ngày nay. Tuy vậy,
ngay cả những nước tư bản phát triển, các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn giữ
một vị trí quan trọng và ngày càng khẳng định.
Trong nền kinh kinh tế thị trường doanh nghiệp được hiểu là một tổ
chức kinh tế: Được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài
sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là nhiệm vụ quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý,
phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên
kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả
năng cạnh tranh trên thị trường, phát triển sản xuất, tạo việc làm và năng
cao đời sống cho người lao động.

-8-



Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động trung bình hàng năm không qua 300 người. Căn cứ vào tình hình
kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong qúa trình thực hiện các
biện pháp, chương trình trợ giúp có thể áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu
vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên [18].
Hiện nay trên thế giới không có định nghĩa chung thống nhất về doanh
nghiệp nhỏ và vừa, hầu hết các nước đều đưa ra những định nghĩa về doanh
nghiệp nhỏ và vừa dựa trên tình hình kinh tế xã hội của nước mình.
Bảng 1.1: Các định nghĩa về DNNVV ở một vài nước Châu Á.
T
T

Quốc gia

1

Indonesia

Không quá 100 lao động

2

Nhật

Khụng quỏ 300 lao động hoặc giỏ trị tài
sản là 10 triệu yờn;
Bỏn buụn - khụng quỏ 50 lao động, 30
Lao động và
triệu yờn giỏ trị tài sản;

tài sản
Bỏn lẻ – khụng quỏ 50 lao động, 10 triệu
yờn giỏ trị tài sản.

3

Hàn Quốc

Chế tạo – không quá 300 lao động; Dịch
vụ – không quá 30 lao động

4

Malaysia

Cổ đụng,
Biến động, doanh thu khụng quỏ 25 triệu
quỹ và lao
ringgit và 150 lao động
động

5

Trung
Quốc

Thay đổi theo ngành không quá 100 lao
động

Lao động


6

Phillipin

Khụng quỏ 200 lao động, 40 triệu Peso

Tài sản và
lao động

7

Singapore

Chế tạo – tài sản cố định không quá 12
triệu đôla Singapore

Tài sản và
lao động

Định nghĩa về DNNVV

-9-

Thƣớc đo
Lao động

Lao động



DN dịch vụ không quá 100 nhân công

8

9

Đài Loan

Chế tạo – vốn khụng quỏ 40 triệu đài tệ,
tổng tài sản khụng quỏ 120 triệu đài tệ.
Trong kinh doanh vận tải và cỏc dịch vụ
khỏc, doanh thu khụng quỏ 40 triệu đài
tệ.

Vốn, tài sản
và doanh số

Thái Lan

Không quá 200 lao động đối với ngành
càn nhiều lao động
Không quá 100 triệu Bạt đối với ngành
đòi hỏi nhiều vốn

Lao động và
vốn
Nguồn: [9]

1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cũng như các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thế giới, doanh nghiệp

nhỏ và vừa nước ta có những đặc điểm tương tự như các quốc gia khác.
Tuy nhiên, do xuất phát từ những đặc điểm riêng có của doanh nghiệp nước
ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên doanh nghiệp
nhỏ và vừa nước ta còn có những đặc điểm riêng.
- Quy mô vốn và lao động nhỏ: Phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa
có lịch sử đi lên từ kinh tế tư nhân, hộ sản xuất gia đình, thuộc nhiều ngành
nghề, làng nghề truyền thống, nên trong hoạt động kinh doanh doanh
nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, hoạt động không chỉ
trong luỹ tre làng, chưa có điều kiện tích tụ tập trung vốn nên quy mô vốn
tự có của doanh nghiệp nhỏ, không bền vững. Số lượng lao động ít, trong
giai đoạn sơ khai thì phần lớn chủ doanh nghiệp cũng đồng thời là thợ, số
lao động thuê và tuyển dụng ở mức thấp.
- Nguồn nhân lực thiếu và trình độ tay nghề ngƣời lao động thấp:
Trong điều kiện thị trường lao động hoạt động tích cực, các DNNVV
không đủ khả năng để cạnh tranh với doanh nghiệp lớn trong việc thu hút
- 10 -


những lao động có tay nghề cao do hạn chế về tài chính, cơ hội nghề
nghiệp. Hơn nữa định kiến về của người lao động về khu vực kinh tế tư
nhân vẫn còn rất lớn, nên phần lớn người lao động trong các DNNVV là
dân nghèo thành thị, nông dân nhàn rỗi ra thành phố tìm việc, chủ yếu là
các lao động thủ công, thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật, tác phòng tuỳ
tiện, không được đào tạo qua các cơ sở dạy nghề. Hầu hết chủ doanh
nghiệp không có kế hoạch đào tạo để sử dụng lâu dài người lao động.
Theo kết quả điều tra “An toàn vệ sinh lao động trong các doanh
nghiệp nhỏ” được tài trợ bởi chương trình ILO/Japan Multibilateral năm
2003: Trong tổng số 6.465 lao động làm việc trong 202 DNNVV có: Lao
động có trình độ đại học và cao đẳng chiếm: 14,4% (năm 2001 là 6,18%);

Lao động có trình độ trung cấp và công nhân kỹ thuật chiếm: 27,8%;
Không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm 57,8%.
- Năng lực tổ chức, quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp còn
hạn chế: Chủ doanh nghiệp thường là những người đi lên từ hoạt động sản
xuất kinh doanh hộ gia đình, cá thể hoặc họ là những kỹ sư, kỹ thuật có tay
nghề đứng ra thành lập doanh nghiệp. Họ vừa là nhà quản lý doanh nghiệp,
vừa là người tham gia trực tiếp vào sản xuất, nên mức độ chuyên môn hoá
không cao. Nhìn chung, trình độ chuyên môn chưa cao, phần lớn chưa qua
khoá đào tạo chính quy về quản lý, đại bộ phận chủ doanh nghiệp (69,5%)
quản lý bằng kinh nghiệm.
- Trình độ công nghệ, thiết bị: Vào đầu những năm 90, công nghệ và
thiết bị sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cơ sở tư nhân quá lạc
hậu, tốc độ đổi mới quá chậm, khoảng 90% các DNNVV của tư nhân sử
dụng trang thiết bị cũ kỹ lạc hậu từ 10 – 20 năm do các doanh nghiệp Nhà
nước thanh lý, thải loại [5]. Trong 5 năm gần đây, với chủ trương của Nhà
nước về phát triển DNNVV nên chủ doanh nghiệp bắt đầu có những đầu tư
- 11 -


ban đầu vào công nghệ. Do những hạn chế về nguồn lực tài chính, quy mô
sản xuất nên ứng dụng công nghệ thiết bị hiện đại vào sản xuất vẫn ở mức
thấp. Tuy nhiên, DNNVV rất linh hoạt trong ứng dụng công nghệ, họ
thường có những sáng kiến cải tiến kỹ thuật, đổi mới nâng cấp công nghệ,
thiết bị cũ, tạo sự linh hoạt nhạy bén trong việc đa dạng hoá các sản phẩm,
nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, nhanh chóng thay đổi quy
trình sản xuất và cung ứng sản phẩm dịch vụ phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng .
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh:
DNNVV nước ta chủ yếu thuộc thành phần kinh tế tư nhân mới được phục
hồi và phát triển, không có thời kỳ tích luỹ nguyên thủy như kinh tế tư bản

tư nhân ở các nước tư bản. Ngoài thiếu vốn, công nghệ thiết bị lạc hậu,
năng lực quản lý hạn chế, thì doanh nghiệp còn thiếu mặt bằng sản xuất.
Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước đã tạo điều kiện để doanh nghiệp
được giao đất, thuê đất nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn thiếu đất sản xuất
kinh doanh, phải đi thuê lại đất hoặc sử dụng diện tích đất riêng của mình
làm mặt bằng sản xuất. Vì vậy, các doanh nghiệp rất khó khăn trong việc
ổn định và mở rộng đầu tư chiều sâu hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Năng lực cạnh tranh sản phẩm và khả năng tiếp cận thị trƣờng
còn hạn chế: Các hoạt động về marketing, xây dựng thương hiệu sản
phẩm, mở rộng thị trường cung cấp nguyên vật liệu và thị trường đầu ra
cho sản phẩm chưa được doanh nghiệp quan tâm và có kế hoạch phát triển,
qui mô sản xuất thường ở phạm vi tỉnh, thành, việc mở rộng thị trường
trong và ngoài nước rất khó khăn. Với hạn chế đó, DNNVV rất dễ bị tổn
thương, trước những biến động, thậm trí là biến động nhỏ của thị trường về
nguyên vật liệu, giá cả, cung cầu sản phẩm. Các sản phẩm chủ yếu ở dạng
sơ chế nguyên liệu hoặc lắp ráp hoặc gia công hàng xuất khẩu.

- 12 -


1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế.
Một là: DNNVV đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc
dân và tốc độ tăng trƣởng kinh tế, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh
kể từ khi Nhà nước ban hành Luật doanh nghiệp và Nghị định 90/2001/NĐCP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa,
năm 2004 tăng 30,9%, 2005 tăng 32,2%. Ngoài ra DNNVV đã hoạt động
năng động hơn và có hiệu quả hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác,
vươn lên đóng góp vào nền kinh tế chiếm khoảng 30% tổng sản phẩm quốc
dân (GDP) của cả nước [1, 4].
Hai là: Giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời lao
động, DNNVV tạo trên 12 triệu việc làm cho xã hội, hàng năm Việt Nam

có khoảng 1,4 - 1,5 triệu người gia nhập vào lực lượng lao động, đây sức ép
rất lớn đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương, trong đó
DNNVV có khả năng thu hút hơn 90% lao động và là động lực quan trọng
cho phát triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo [11].
Ba là: DNNVV góp phần khôi phục, gìn giữ và phát triển các làng
nghề truyền thống, Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp, lực lượng lao
động ở các vùng nông thôn, làng nghề chiếm tỉ trọng lớn. Các làng nghề
truyền thống đã và vẫn đang tạo ra khối lượng lớn giá trị hàng hoá, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước và kinh doanh xuất khẩu. Phát triển DNNVV
ở các làng nghề là điều kiện để các hộ gia đình, thực hiện quá trình tích luỹ
vốn, tăng cường mở rộng năng lực sản xuất, phát huy thế mạnh khơi dậy
tiềm năng của làng nghề và của toàn xã hội.
Bốn là: Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công
nghiệp hoá hiện đại hoá: DNNVV góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, thể hiện qua các cơ cấu kinh
tế.
- 13 -


Cơ cấu thành phần kinh tế: Trong thời gian qua tỉ lệ doanh nghiệp dân
doanh trong số các doanh nghiệp đã tăng nhanh chóng. Đến nay cả nước có
trên 200 ngàn doanh nghiệp, trên 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể và khoảng
18 ngàn hợp tác xã. Các doanh nghiệp dân doanh đã và đang trở thành một
trong những lực lượng trụ cột của nền kinh tế, đưa chủ trương phát triển
kinh tế nhiều thành phần đi vào cuộc sống.
Cơ cấu ngành nghề: DNNVV tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ
chiếm 47,7%, công nghiệp 16,14%, ngành xây dựng chiếm 15,11%, ngành
nông nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng giảm xuống chỉ còn chiếm 13,13%
[11]. Điều đó sẽ góp phần cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế các địa
phương, tạo điều kiện thu hút lao động ở nông thôn, rút dần lao động nông

nghiệp sang công nghiệp, theo phương châm “ly nông bất ly hương”.
Cơ cấu theo lãnh thổ: DNNVV được thành lập ở các địa phương
trong cả nước, ở các làng nghề, những vùng có kinh tế - xã hội khó khăn.
Đây là điểm khác khác biệt căn bản với đầu tư trực tiếp của nước ngoài (chỉ
đầu tư vào những đại phương có điều kiện thuận lợi). Tỷ trọng đầu tư của
các doanh nghiệp tư nhân ngày càng tăng và lớn hơn đầu tư của doanh
nghiệp Nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai
trò quan trọng, thậm trí là nguồn vốn đâu tư chủ yếu đối với phát triển kinh
tế ở địa phương. Thực tế cho thấy ở hầu hết các tỉnh việc thu hút đầu tư
trong nước thường dễ thực hiện và khả thi hơn so với thu hút đầu tư nước
ngoài.
Năm là: Đóng góp vào chƣơng trình xuất khẩu, tạo nguồn thu
ngoại tệ, với chính sách của Nhà nước về khuyến khích doanh nghiệp mở
rộng hoạt động xuất khẩu, tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu, DNNVV đã nắm bắt
cơ hội, năng động đầu tư vào nhiều ngành nghề có lợi thế về nguồn nhân
- 14 -


lực, tài nguyên để đẩy mạnh xuất khẩu như mặt hàng thủ công mỹ nghệ,
chế biến nông sản, thuỷ sản.
Sáu là: Bƣớc đầu hình thành mối liên kết với doanh nghiệp lớn, và
là tiền để tạo ra những doanh nghiệp lớn, sự phát triển nhanh chóng của
lực lượng sản xuất cùng với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, đã tạo
ra sự phân công chuyên môn hoá sâu rộng không chỉ trong một quốc gia. Ở
các nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Canada, các
DNNVV có vai trò rất lớn trong quá trình chuyên môn hoá sản xuất,
DNNVV đã và đang là công ty vệ tinh chuyên sản xuất những bộ phận cấu
thành các sản phẩm với thương hiệu nổi tiếng Boeing, Canon, Honda .. Ở
Việt Nam, với mô hình kinh tế công ty mẹ, công ty con, các DNNVV đóng

vai trò là các công ty con, công ty vệ tinh nhằm cung cấp các nguyên vật
liệu, bán thành phẩm phục vụ cho doanh nghiệp lớn. Có thể thấy, mối quan
hệ ràng buộc nhau giữa DNNVV và doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp
lớn bảo đảm vững chắc cho DNNVV về thị trường, tài chính, công nghệ,
tiêu chuẩn kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý. Ngược lại, DNNVV đảm bảo
cho doanh nghiệp lớn về công nghiệp bổ trợ, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra, với quá trình tích luỹ vốn DNNVV là mầm non để hình thành các
doanh nghiệp lớn, là động lực thức đẩy sự phát triển nền kinh tế.
Quá trình thay đổi nhanh chóng về công nghệ trong những năm qua
cùng với quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá
nền kinh tế đã và đang thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp lớn
và DNNVV theo các hình thức phổ biến sau:
Liên kết mạng lƣới: Đây là hình thức liên kết được xây dựng trên cơ
sở chuyên môn hoá cao các công đoạn của qúa trình sản xuất kinh doanh
bắt đầu tư khâu cung cấp nguyên liệu, qúa trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Mạng lưới liên kết các doanh nghiệp thông qua qúa trình trao đổi
- 15 -


thông tin quan hệ giao dịch thương mại giữa người cung cấp và người tiêu
thụ, quan hệ mạng lưới phân phối tiêu thụ. Đặc trưng của loại hình liên kết
này là không cần sự gần gũi giữa các doanh nghiệp về mặt địa lý.
Liên kết dƣới hình thức đối tác chiến lƣợc: Hình thức này hiện đang
được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, được thực hiện trên cơ sở các hợp đồng,
thoả thuận hợp tác giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước
ngoài. Tuy nhiên do những bất lợi của các doanh nghiệp nước ta về vốn,
công nghệ, thị trường .. nên quá trình thực hiện liên kết theo hình thức này
chưa thực sự phát huy hiệu quả cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Liên kết theo hình thức khu công nghiệp, cụm công nghiệp: Hình
thức liên kết dựa trên cơ sở sự gần gũi về mặt địa lý trên cơ sở hình thành

các khu công nghiệp tập trung, các Khu chế xuất đã thu hút các tập đoàn
kinh tế lớn, cũng như hình thành mới các tập đoàn kinh tế mới, với hệ
thống hàng loạt các công ty “vệ tinh” sản xuất các sản phẩm phụ trợ phục
vụ cho qúa trình sản xuất các sản phẩm có thương hiệu của các tập đoàn
kinh tế lớn, các Tổng Công ty.
Mặc dù những đóng góp của DNNVV trong thời gian qua còn hạn
chế, song khu vực kinh tế này đã thể hiện hiện vai trò ngày càng quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân. Để giúp DNNVV hoạt động có hiệu quả, đóng
góp nhiều hơn nữa phát triển kinh tế xã hội, thì Đảng và Nhà nước cần tiếp
tục có chương trình trợ giúp hữu hiệu, kịp thời về tài chính, tín dụng ngân
hàng, về mặt bằng sản xuất, về thị trường và tăng khả năng cạnh tranh, về
xúc tiến xuất khẩu, về thông tin tư vấn và đào tạo nguồn lực.
1.2

Tín dụng ngân hàng với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

1.2.1

Khái niệm về tín dụng ngân hàng.

Theo C. Mác: Tư bản tiền tệ cho vay được tích lại trong các ngân hàng
và được hình thành từ các nguồn chủ yếu: Tư bản của các nhà tư bản tiền
- 16 -


tệ; những nguồn tiền tạm thời để rỗi của các nhà tư bản công thương
nghiệp; những khoản tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư [29]. Tín dụng
là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người
sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn
hơn lượng giá trị ban đầu

Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc La tinh - Creditum có nghĩa là một sự tin
tưởng tín nhiệm lẫn nhau, hay nói một cách khác đó là lòng tin. Theo các nhà
kinh tế: tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc
và lãi.
Hay “Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
(dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng
để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn giá trị
ban đầu”.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về tín dụng nhưng một quan hệ
tín dụng phải đảm bảo thoả mãn được ba đặc trưng sau:
Thứ nhất là “tính tạm thời trong quan hệ chuyển nhượng”: Khi người
sở hữu tiền tệ hoặc hàng hoá (hay còn gọi là vốn), tạm thời nhàn rỗi một
lượng giá trị và người khác có nhu cầu sử dụng lượng giá trị đó, khi đó giữa
hai đối tác sẽ thoả thuận thực hiện chuyển giao lượng giá trị đó cho nhau
trong một khoảng thời gian nhất định. Thực chất, đó chỉ là sự chuyển giao
quyền sử dụng lượng giá trị trong một khoản thời gian nhất định mà không
có sự thay đổi về quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó.
Thứ hai là “tính hoàn trả”: Người sử dụng cam kết hoàn trả số tiền hoặc
hàng hoá đó cho người sở hữu đúng thời hạn đã cam kết với một lượng giá trị
lớn hơn ban đầu gồm cả gốc và phần chênh lệch dôi ra đó gọi là lợi tức hay
tiền lãi. Thực chất phần chênh lệch này là cái giá phải trả cho quyền sử dụng
vốn tạm thời.
- 17 -


Thứ ba là, “dựa trên sự tin tưởng giữa người đi vay và người cho
vay”: Đây là điều kiện cần thiết để thiết lập mối quan hệ tín dụng giữa
người đi vay và người cho vay. Một mặt, người cho vay tin tưởng rằng vốn
sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn, mặt khác người đi vay cũng tin tưởng
vào sự chuyển giao vốn từ người cho vay và khả năng phát huy hiệu quả

của vốn vay.
Như vậy, tín dụng được hiểu là mối quan hệ kinh tế giữa người cho
vay và người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được
biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá.
Quan hệ tín dụng ra đời từ rất sớm trong lịch sử phát triển kinh tế - xã
hội thế giới. Ban đầu là quan hệ tín dụng nặng lãi gắn với nền sản xuất
hàng nhỏ lạc hậu. Sau đó mở ra hình thức tín dụng thương mại và kế đến là
tín dụng ngân hàng. Một tác nhân trong nền kinh tế, tín dụng ngân hàng
ngày càng được phát triển phong phú về mặt hình thức tương ứng với sự
phát triển ngày càng phức tạp, đa dạng các quan hệ kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là
NHTM, một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó
NHTM giữ vai trò là người tập trung các nguồn vốn từ trong nền kinh tế
dưới hình thức đi vay để cho vay. Những hành vi tín dụng có thể được diễn
ra trực tiếp giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Nhưng thực tế, hai
người này khó có thể phù hợp với nhau về quy mô, thời gian hoặc nếu phù
hợp cũng phải tốn kém thời gian và chi phí tìm kiếm, nên để thoả mãn nhu
cầu của cả hai người cần thiết phải có người thứ ba đứng ra làm trung gian,
một mặt tập trung huy động vốn lại thông qua nhận gửi hoặc vay từ các tổ
chức và cá nhân, mặt khác phân phối lại vốn đã tập trung thông qua cho
vay, người đó không ai khác chính là các tổ chức tín dụng
- 18 -


NHTM huy động mọi nguồn vốn trong xã hội bằng hình thức nhận
tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ
tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho
vay, NHTM đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
khi có nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Với

vai trò này, NHTM đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp
ứng yêu cầu tái sản xuất của xã hội. Do quy mô và phạm vi hoạt động lớn,
tín dụng ngân hàng được coi là một nguồn lực tài chính quan trọng để hỗ
trợ cho quá trình tái sản, đồng thời Chính phủ các quốc gia đều coi chính
sách về tín dụng ngân hàng là một chính sách quan trọng hàng đầu trong hệ
thống các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
1.2.2

Quan hệ tín dụng ngân hàng với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

1.2.2.1 Đặc điểm tín dụng ngân hàng với DNNVV.
Do hoạt động kinh doanh của DNNVV có những đặc điểm riêng có
nên hoạt động tín dụng ngân hàng với DNNVV cũng có những đặc điểm
riêng sau:
Thứ nhất, do quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh không lớn, nên
hoạt động tín dụng ngân hàng với doanh nghiệp cũng có qui mô nhỏ và
vừa, các khoản vay thường có giá trị thấp, nhỏ lẻ, thuộc thị trường bán lẻ
của các ngân hàng. Các khoản vay chủ yếu là để bổ sung nguồn vốn lưu
động tạm thời thiếu hụt của doanh nghiệp.
Thứ hai, các điều kiện vay vốn so với quy định hiện nay thường
không đầy đủ và mức độ tin cậy không cao. Xuất phát từ đặc điểm về qui
mô nhỏ nên, bộ máy tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh của DNNVV
thường rất giản đơn, thiếu chặt chẽ, việc chấp hành các quy định nhà nước
về chế độ kế toán tài chính còn nhiều bất cập, hơn thế năng lực, trình độ
quản lý còn nhiều hạn chế, nên các thông tin về tài chính, tình hình hoạt
- 19 -


động không đủ hoặc không có độ tin cậy để ngân hàng quyết định cho vay
hay không cho vay.

Thứ ba, hoạt động tín dụng ngân hàng vừa mang tính chất thương mại
và mang tính chính sách hỗ trợ phát triển. DNNVV phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn thách thức để cạnh tranh tồn tại và phát triển, đồng thời với
mục tiêu khơi dậy và phát huy tiềm năng trong dân cư, thực hiện chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế thì chính sách hỗ trợ của Nhà nước là hết sức cần
thiết đóng vai trò quan trọng vào quá trình phát triển của doanh nghiệp, mà
một trong những chính sách hỗ trợ của Nhà nước là tín dụng ngân hàng.
Hoạt động tín dụng, không những tính đến lợi nhuận, mà còn tính đến lợi
ích lâu dài, lợi ích cho xã hội.
Thứ tƣ, doanh nghiệp nhỏ và vừa thường ít có sự hiểu biết về các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng và không nhận hỗ trợ tư vấn tài chính, pháp luật từ
các tổ chức chuyên nghiệp, nên trong quan hệ tín dụng với ngân hàng
thường gặp rất nhiều khó khăn, khó khăn từ phía ngân hàng và cả từ phía
doanh nghiệp. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường quan hệ tín dụng ngày
càng mở rộng và tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế, Nhà nước thông qua
hoạt động tín dụng ngân hàng là công cụ để điều tiết nền kinh tế, do vậy
các quy định về tín dụng ngày càng kiện toàn, đổi mới, chặt chẽ, ngăn ngừa
các rủi ro, phù hợp với vận hành của cơ chế thị trường, nhằm đảm bảo an
toàn cho hệ thống ngân hàng.
1.2.2.2 Các hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Cho vay: Là một hình thức tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng sử dụng một khoản tín dụng vào mực đích và thời gian nhất
định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Các phương
thức cho vay:

- 20 -


+ Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng
thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng.

+ Cho vay theo hạn mức: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất
định, phù hợp với tình hình hoạt động luân chuyển vốn của doanh nghiệp.
+ Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khác hàng vay vốn
để thưc hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
+ Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với
một dự án vay vốn hoặc một phương án vay vốn cho khách hàng; trong đó
có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín
dụng khác.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín
dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt mức số
tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng, với lãi suất, thời hạn
thanh toán đã xác định trước.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ
chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng, dịch vụ, rút tiền
mặt tại máy rút tiền tự động hoặc các diểm thanh toán thẻ hoặc đại lý của tổ
chức tín dụng.
- Bảo lãnh ngân hàng: Là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng
(bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng
số tiền đã trả thay.
- 21 -


Bảo lãnh ngân hàng có nhiều hình thức như: Bảo lãnh vay vốn, Bảo
lãnh thanh toán hàng hoá dịch vụ, Bảo lãnh dự thầu, Bảo lãnh thực hiện

hợp đồng, Bảo lãnh đối ứng, Bảo lãnh bảo hành sản phẩm dịch vụ, Bảo
lãnh tiền đặt cọc (ứng trước).
- Tín dụng thuê mua tài chính: Cho thuê tài chính là một hình thức tài
trợ vốn trong đó theo yêu cầu của bên đi thuê (DNNVV), bên cho thuê
(Ngân hàng) tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho bên đi thuê sử dụng.
Theo phương thức này, người vay được sử dụng tài sản mình cần trên
cơ sở đi vay không cần phải bỏ vốn mua mà chi phí phải chi tiền thuê tài
sản đó cho Công ty tín dụng thuê mua. Khi hết hạn hợp đồng thuê, người
vay được quyền mua lại tài sản thuê. Trong thời gian thuê, tài sản vẫn thuộc
sở hữu của người cho thuê nhưng thực chất đây là một khoản vay có bảo
đảm chắc chắn.
Hình thức tín dụng thuê mua tạo thuận lợi rất nhiều cho các doanh
nghiệp hạn hẹp về ngân quỹ như các DNNVV. Nó giúp cho doanh nghiệp có
tài sản sử dụng khi không đủ vốn tự có để giải quyết được bài tán vốn và hiệu
quả trong đầu tư, giúp doanh nghiệp giảm được rủi ro về tính lạc hậu, lỗi thời
của tài sản… quan trọng hơn nó sẽ giúp doanh nghiệp tạo được tín nhiệm đối
với ngân hàng qua các hợp đồng thuê mua tài chính.
Các hình thức tín dụng là sản phẩm của NHTM trên thị trường kinh
doanh tín dụng và cung cấp dịch vụ ngân hàng. Chính sự phong phú về nhu
cầu vay vốn của các loại hình doanh nghiệp cùng với sự cạnh tranh gay gắt
trên thị trường ngân hàng đã làm cho các sản phẩm tín dụng của ngân hàng
ngày được cải thiện theo hướng đi lên. Để đạt được doanh số và hiệu quả cho
vay cao, các ngân hàng đã không ngừng tìm cách đổi mới nghiệp vụ kinh
doanh của mình cho phù hợp với các đối tượng khách hàng. Điều đó có nghĩa
là, không phải đối với mọi doanh nghiệp ngân hàng đều cung cấp một sản
- 22 -


phẩm tín dụng như nhau mà đối với từng khách hàng sẽ có một hình thức tín
dụng hợp lý, với một mức lãi suất và thời hạn vay phù hợp. Nhận thức rõ

được vấn đề này là vô cùng cần thiết, nhất là khi cho vay đối với các
DNNVV, một đối tượng khách hàng có độ rủi ro cao.
1.2.2.3 Rủi ro trong quan hệ tín dụng ngân hàng đối với DNNVV.
DNNVV là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ tồn tại ở nhiều thành
phần kinh tế (Kinh tế tư nhân, kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể) nên việc
cho vay các doanh nghiệp này chắn chắn sẽ gặp nhiều rủi ro hơn so với các
doanh nghiệp lớn. Có thể nhận thấy một số rủi ro như:
Thứ nhất, rủi ro lớn nhất mà ngân hàng phải gánh chịu là cho vay
không thu hồi được nợ, sẽ gây mất vốn, giảm uy tín của ngân hàng. Nếu rủi
ro mất vốn lớn có thể gây phá sản ngân hàng.
Thứ hai, rủi ro do khách hàng không trả nợ đúng hạn, chậm trả gốc và
lãi tiền vay. Hoạt động theo nguyên tắc: Đi vay để cho vay, phần lớn nguồn
vốn ngân hàng dùng để cho vay doanh nghiệp là nguồn vốn ngân hàng huy
động từ nền kinh tế, với thời hạn, lãi suất đã được xác định, việc không thu
được nợ từ người vay sẽ khiến ngân hàng không có nguồn tiền để trả cho
người gửi tiền, gây mất lòng tín. Giảm uy tín của ngân hàng và phát sinh
nhiều chi phí khác cho ngân hàng, là nguyên nhân giảm lợi nhuận, yếu kém
của ngân hàng.

- 23 -


Thứ ba, rủi ro trong hoạt động ngân hàng rất lớn, bao gồm rủi ro từ phía
ngân hàng và từ phía doanh nghiệp, trong đó có những rủi ro bắt nguồn từ
những nguyên nhân chủ quan mà ngân hàng, doanh nghiệp có thể thẩm định,
đánh giá và ngăn ngừa được. Song có những rủi ro xuất phát từ những nguyên
nhân khách quan bất khả kháng mà các ngân hàng và doanh nghiệp phải chấp
nhận, như rủi ro về thiên tai động đất, mưa bão, hoả hoạn, các rủi ro về chính
trị… Do vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng luôn luôn tiềm ẩn các rủi ro.
Bởi vì bản thân ngân hàng thương mại “ngại” cho các doanh nghiệp nhỏ

và vừa vay vốn. Nhưng để thực hiện tốt chủ trương của Đảng của Nhà nước là
phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì các ngân hàng thương mại phải tìm
cách giảm thiểu bớt rủi ro trong cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng
vẫn đảm bảo vốn cho các DNNVV phát triển.
1.2.2.4 Vai trò của tín dụng ngân hàng với DNNVV.
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của các DNNVV
là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cũng sử
dụng vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như
để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Vốn tín dụng ngân hàng đầu
tư cho các DNNVV đóng vai trò rất quan trọng, nó chẳng những thúc đẩy
sự phát triển của khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại, thúc
đẩy hệ thống ngân hàng đổi mới chính sách tiền tệ, hoàn thiện các cơ chế
chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối… Để thấy được vai trò của tín
dụng ngân hàng trong việc phát triển DNNVV ta xét một số vai trò sau:
Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các
DNNVV đƣợc liên tục:
Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn cải
tiến kỹ thuật, thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ, máy móc thiết
- 24 -


bị để tồn tại, đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không
một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất
kinh doanh. Việc phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa
vào tài trợ của hệ thống ngân hàng. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc,
thiết bị, cải tiến phương thức kinh doanh… Có vốn các doanh nghiệp sẽ
đáp ứng kịp thời nhu cầu về nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất. Từ đó
góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho DNNVV phát triển sản xuất kinh

doanh được liên tục.
Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
DNNVV:
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp phải tôn trọng
hợp đồng tín dụng, phải đảm bảo hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn và phải tôn
trọng các điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả
hay không. Ngoài ra, các ngân hàng chỉ cho vay khi các doanh nghiệp kinh
doanh có hiệu quả, khả năng tài chính lành mạnh đủ đảm bảo trả nợ. Do đó
đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của ngân hàng phải có
phương án sản xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn, các doanh nghiệp phải
tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất
lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh
có lãi. Trong quá trình cho vay, ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và
sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có
hiệu quả.
Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ƣu cho
DNNVV:
Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào chỉ duy nhất dùng
vốn tự có để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để
- 25 -


doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, do hạn chế về về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó
khăn vì vốn hạn hẹp và nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm sẽ khó
được thị trường chấp nhận. Để hiệu quả, doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn
tối ưu, kết cấu hợp lý nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi
nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả
năng cạnh tranh của các DNNVV:

Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường muốn tồn
tại, đứng vững và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong
cạnh tranh. Đặc biệt đối với các DNNVV, do có một số hạn chế nhất định,
việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong
nước và ngoài nước là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các
doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và
mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên,
để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại
hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì phải mất rất nhiều năm mới thực hiện được
và khi đó cơ hội để đầu tư phát triển không còn nữa. Như vậy để có thể đáp
ứng kịp thời cơ hội đầu tư, các DNNVV chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân
hàng. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể giúp doanh nghiệp thực hiện được
mục đích của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị
trường cạnh tranh.
Nguồn vốn tín dụng giúp doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội thị
trường, vốn được đưa ngay vào sản xuất và khi đó trách nhiệm sử dụng vốn
của doanh nghiệp tăng lên. Việc quản lý vốn thông qua quá trình hạch toán
kinh tế giúp các doanh nghiệp củng cố hoàn thiện chế độ hạch toán tài
chính.
- 26 -


1.3 Tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV ở Việt Nam.
1.3.1. Thực trạng hoạt động tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở Việt Nam.
DNNVV là đối tượng khách hàng có nhiều tiềm năng và có vai trò rất
lớn mà các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài quan tâm phục
vụ. Bên cạnh các ngân hàng thương mại cổ phần như Ngân hàng TMCP
Châu Á, NHTMCP Quốc tế, NHTMCP Sài Gòn Thương tín, NHTMCP Kỹ
thương, NHTMCP Ngoài quốc doanh là những ngân hàng rất sớm đã xác

định thị trường doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thị trường cho vay bán lẻ
là thị trường mục tiêu lâu dài, thì đến nay các ngân hàng thương mại nhà
nước như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng
Đầu tư, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, trước đây chỉ xác
định những doanh nghiệp lớn, các tổng công ty là khách hàng của mình, thì
nay cũng đã hoạch địch chiến lược tăng trưởng tín dụng đối với DNNVV
như: Ngân hàng Ngoại thương đổi mới công nghệ, phát triển thị trường tín
dụng bán lẻ dành 3.000 tỷ để cho vay DNNVV; Ngân hàng Đầu tư và phát
triển cũng dành 3.200tỷ để cho vay DNNVV; Ngân hàng Công thương là
ngân hàng nhà nước đầu tiên đi tiên phong trong việc cho vay DNNVV và
cũng là ngân hàng gặt hái được nhiều thành công nhất, dư nợ cho vay
DNNVV chiếm tới 50% - 60% tổng dư nợ [7,8].
Uớc tính 80% lượng vốn cung ứng cho DNNVV là từ kênh ngân hàng,
trong hai năm gần đây (2005, 2006), số vốn mà các NHTM cho các
DNNVV vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ, tốc độ tăng trong tín dụng
cho khối DNNVV trong những năm gần đây cũng đã cho thấy tín hiệu khả
quan: năm 2003 là 37,1%, năm 2004 là 20,18% và năm 2005 khoảng 22%
[7,8].

- 27 -


Mặc dù hệ thống ngân hàng đã có chiến lược phát triển tín dụng cho
DNNVV và đã đạt kết quả bước đầu, nhưng nhìn chung việc tiếp cận nguồn
vốn từ ngân hàng vẫn còn không khó khăn, với nhiều lý do khác nhau:
Bảng 1.2: Khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng

STT

Chỉ tiêu


Tỉ lệ

1

Khả năng tiếp cận được

32,38%

2

Khó tiếp cận

35,24%

3

Không tiếp cận

32,38%
Nguồn: [22]

Như vậy, có tới 67,62% DNNVV rất khó khăn và không tiếp cận được
nguồn vốn ngân hàng, với một số lý do chính:
Thứ nhất: Lý do lớn nhất là tài sản thế chấp cầm cố, bảo lãnh cho
khoản vay, chiếm đến 77% từ chối cho vay của ngân hàng. Theo quy định
của Chính phủ ngân hàng có thể yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải có tài
sản bảo đảm hoặc không có tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, để được vay vốn
không có tài sản bảo đảm thì doanh nghiệp phải đáp ứng điều kiện: Kinh
doanh 2 năm gần nhất có lãi, có đầy đủ báo cáo tình hình tài chính; có

phương án, dự án khả thi đem lại hiệu quả kinh tế; có uy tín trong quan hệ
giao dịch với ngân hàng.
Trên thực tế, rất ít DNNVV có thể đáp ứng các điều kiện trên, đặc biệt
các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động hoặc doanh nghiệp đầu tư phát triển
sản phẩm mới, nên hiện nay các ngân hàng cho vay DNNVV đều có quy
định phải có tài sản bảo đảm.
Hơn nữa, cũng không phải tài sản nào cũng được ngân hàng nhận làm
tài sản bảo đảm, việc xác định giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
- 28 -


cũng là khó khăn, thường thấp hơn giá trị thị trường (đặc biệt với máy móc
dây chuyền thiết bị đã qua sử dụng, các tài sản tự chế tạo, cải tạo) dẫn đến
việc từ chối cho vay của ngân hàng.
Thứ hai: Báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa có độ tin cậy trong
việc phản ánh trung thực tình hình tài chính doanh nghiệp, chưa thực hiện
chế độ kế toán. Nhiều doanh nghiệp không thực hiện chế độ báo cáo tài
chính định kỳ, không thực hiện nghĩa vụ đăng ký, kê khai và nộp thuế. Một
số doanh nghiệp còn trốn thuế, mua bán hoá đơn tài chính, sử dụng hoá đơn
giả. Các hoạt động kinh doanh thu chi phần nhiều bằng tiền mặt, nên ngân
hàng không đủ cơ sở đánh giá nhận xét về tình hình tài chính doanh nghiệp.
Thứ ba: Thiếu căn cứ và các thông tin phục vụ đánh giá tính khả thi
của phương án, dự án vay vốn, hơn nữa việc giám sát khách hàng sử dụng
vốn vay đứng mục đích cũng là khó khăn cho ngân hàng.
Thứ tư: Về phía ngân hàng, trước những khó khăn và sự cạnh tranh
khốc liệt của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập của nền kinh tế thế
giới, nhiều ngân hàng đánh giá nguy cơ rủi ro trong hoạt động tín dụng với
của DNNVV là lớn, chính vì vậy việc mở rộng tín dụng cần có sự thận
trọng là hết sức cần thiết.
Thứ năm: Vốn đối ứng của doanh nghiệp thấp, hoạt động kinh doanh

chủ yếu bằng vốn vay nên nguy cơ rủi ro cao, ngân hàng thường không
mặn mà với doanh nghiệp có vốn tự có ít.
Thứ sáu: Tình trạng hình sự hoá các quan hệ dân sự, dẫn đến nhiều
cán bộ tín dụng, nhiều ngân hàng (đặc biệt ở hệ thống các NHTM Nhà
nước) không dám mạo hiểm đầu tư cho vay khi thấy không an toàn, bởi nếu
xảy ra rủi ro thì rất nhiều khả năng sẽ bị liên đới. Mà rủi ro trong hoạt động
tín dụng luôn tiềm ẩn, với nhiều nguyên nhân bất khả kháng (nguyên nhân
khách quan) không thể tránh được.
- 29 -


1.3.2

Những nhân tố cơ bản ảnh hƣởng đến quan hệ tín dụng

ngân hàng với DNNVV.
Hoạt động tín dụng cho doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng
có nhiều nhân tố tác động, tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của từng ngân
hàng, từng doanh nghiệp và từng khoản vay.
Thứ nhất: Nhóm nhân tố thuộc về Nhà nƣớc:
Trong thực trạng DNNVV Việt Nam hiện nay, nhóm nhân tố này có
tác động rất lớn đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Với vai trò quản lý Nhà
nước về kinh tế, Nhà nước tác động khuyến khích hoặc điều chỉnh hoạt
động tín dụng ngân hàng cho doanh nghiệp thông qua:
Chính sách về tài chính như công cụ thuế, tín dụng Nhà nước: Bằng
công cụ tài chính về thuế Nhà nước có thể tạo cơ hội để doanh nghiệp có
thể vay vốn ngân hàng thông qua việc giảm thuế thu nhập, thực hiện hoàn
thuế với doanh nghiệp đầu tư tài sản cố định nhưng chưa tạo ra doanh thu.
Trong thời gian qua Nhà nước đã xây dựng chính sách giảm, miễn thuế với
doanh nghiệp, tuy nhiên do áp dụng mức thuế khác nhau và chưa tạo thuận

lợi cho phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước phát triển.
Tín dụng Nhà nước: Là một trong những biện pháp hỗ trợ vốn trực
tiếp của Nhà nước cho doanh nghiệp, nguồn vốn này có ưu điểm là lãi suất
thấp, thời gian vay dài tới 15 năm đã tạo điều kiện giảm bớt khó khăn tài
chính cho doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện để ngân hàng đầu tư cho
vay các đối tượng này.
Chính sách tiền tệ như lãi suất tái chiết khấu, tỷ giá, hoạt động trên thị
trường mở. Thông qua các công cụ trên, NHNN có thể điều chỉnh tăng tín
dụng hoặc giảm tín dụng của ngân hàng với nền kinh tế nói chung và với
DNNVV nói riêng.

- 30 -


×