Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Rèn luyện kỹ năng đọc hiểu tác phẩm chữ người tử tù của nguyễn tuân cho học sinh lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.29 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRẦN THỊ HỒNG BẮC

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU
TÁC PHẨM CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA
NGUYỄN TUÂN CHO HỌC SINH LỚP 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2013

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRẦN THỊ HỒNG BẮC

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU
TÁC PHẨM CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA
NGUYỄN TUÂN CHO HỌC SINH LỚP 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Tuyết Hạnh



HÀ NỘI – 2013

ii


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian nghiên cứu miệt mài, nghiêm túc, cuốn luận văn của tôi
đã hoàn thành. Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự
quan tâm, giúp đỡ. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc
đến TS. Dương Tuyết Hạnh, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo,
động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo của trường Đại
học giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội - những người luôn tâm huyết với
công tác giảng dạy người thầy đã để lại những ấn tượng hết sức tốt đẹp trong
suốt 2 năm tôi học tập tại đây.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đang giảng dạy
tại trường THPT Tân Lập, Đan Phượng, Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình triển khai đề tài. Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn gia
đình, người thân và bạn bè đã dành cho tôi sự quan tâm khích lệ và chia sẻ
trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng luận văn khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và
các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn

Trần Thị Hồng Bắc


iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt

Viết đầy đủ

CNTT

Công nghệ thông tin

DH

Dạy học

DHTPVC

Dạy học tác phẩm văn chương

GV

Giáo viên

GS

Giáo sư

HS


Học sinh

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó giáo sư

PPDH

Phương pháp dạy học

SGV

Sách giáo viên

SGK

Sách giáo khoa

STK

Sách tham khảo

STT

Số thứ tự


TB

Trung bình

THPT

Trung học phổ thông

TPVC

Tác phẩm văn chương

TS

Tiến sĩ

iv


MỤC LỤC
Lời cảm ơn ........................................................................................................ i
Danh mục từ viết tắt trong luận văn ............................................................ iv
Mục lục ............................................................................................................. v
Danh mục các bảng ...................................................................................... viii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 7

6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 7
7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 8
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ................................................. 9
1.1. Những vấn đề chung về đọc - hiểu tác phẩm văn chương.................... 9
1.1.1. Quan niệm về đọc văn ............................................................................ 9
1.1.2. Quan niệm về hiểu văn ........................................................................ 11
1.1.3. Bản chất việc đọc - hiểu ....................................................................... 12
1.2. Nội dung đọc - hiểu tác phẩm văn chương .......................................... 14
1.2.1. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng cấu trúc ngôn từ tác phẩm ................ 15
1.2.2. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng hình tượng nghệ thuật của tác phẩm ... 17
1.2.3. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng cấu trúc tư tưởng, ý vị nhân sinh ..... 18
1.3. Kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm văn chương ............................................ 20
1.3.1. Kĩ năng đọc chính xác trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương ......... 20
1.3.2. Kĩ năng đọc phân tích trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương ......... 23
1.3.3. Kĩ năng đọc sáng tạo trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương ........... 25
1.3.4. Kĩ năng đọc tích lũy trong đọc - hiểu tác phẩm văn chương ............. 25

v


Chương 2: THỰC TRẠNG DẠY ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM VĂN
CHƯƠNG VÀ VIỆC ĐỊNH HƯỚNG, TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KĨ
NĂNG ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM “CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ” .................... 27
2.1. Thực trạng dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương ở THPT ................ 27
2.1.1. Tình hình vận dụng đọc - hiểu tác phẩm văn trong chương trình
THPT hiện nay ............................................................................................... 27
2.1.2. Thực trạng dạy đọc - hiểu “Chữ người tử tù” ở trường THPT Tân Lập . 28
2.2. Những nguyên tắc và biện pháp hướng dẫn đọc - hiểu tác phẩm
“Chữ người tử tù” trong SGK và SGV Ngữ văn 11 .................................. 32
2.2.1. Trong sách giáo khoa........................................................................... 32

2.2.2. Trong sách giáo viên ............................................................................ 33
2.3. Những nội dung và cách thức đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù”
trong sách tham khảo.................................................................................... 37
2.3.1. Tổ chức đối thoại trong dạy học “Chữ người tử tù”, luận văn của
thạc sĩ Trần Quốc Khả ................................................................................... 37
2.3.2. Đọc – hiểu văn bản “Chữ người tử tù” theo hướng dẫn của TS
Nguyễn Trọng Hoàn ...................................................................................... 50
2.4. Một vài nhận xét về cách hướng dẫn đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người
tử tù” trong SGK, SGV, sách tham khảo ................................................... 55
2.5. Cách thức định hướng, tổ chức rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm
“Chữ người tử tù” trong chương trình chuẩn lớp 11 ............................... 56
2.5.1. Cung cấp thêm tri thức đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” ...... 56
2.5.2. Định hướng, tổ chức cho học sinh đọc - hiểu hình tượng nhân vật . 61
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .................................................... 75
3.1. Mô tả thực nghiệm ................................................................................. 75
3.1.1. Mục đích thực nghiệm ......................................................................... 75
3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ..................................... 75
3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm ................................................................ 75
3.3. Tổ chức thực nghiệm ............................................................................. 94

vi


3.3.1. Giao nhiệm vụ thực nghiệm ................................................................ 94
3.3.2. Tiến hành thực nghiệm ....................................................................... 94
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm .............................................................. 95
3.4.1. Kết quả thực nghiệm ............................................................................ 95
3.4.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................ 95
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 100

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 102

vii


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Bảng khảo sát lực học ban đầu của học sinh. ................................. 95
Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm ....................... 95
và lớp đối chứng. ............................................................................................. 95

viii


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà Nước ta luôn xác định
giáo dục có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Bởi vậy, trong suốt thời gian qua, các nhà quản lý giáo
dục không ngừng tìm cách đổi mới chương trình đào tạo cũng như phương
pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Và tại Đại hội Đảng X,
Đảng ta từng khẳng định “Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung phương pháp dạy
học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, phát huy tính sáng tạo của người
học, khả năng vận dụng thực hành của người học”. Như vậy, đổi mới phương
pháp dạy học phải lấy người học là trung tâm, bồi dưỡng cho người học năng
lực tự hành động, phát triển năng lực nội sinh của mình, phát triển tư duy độc
lập sáng tạo. Do đó việc xây dựng cho người học tư thế tự tin, chủ động tìm
kiếm, lựa chọn, xử lí tiếp cận thông tin.
1.2. Cùng với các môn học khác, môn Ngữ Văn có một vị trí rất quan
trọng trong giáo dục. Môn Ngữ Văn là môn học về khoa học xã hội và nhân
văn, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức về tiếng Việt, văn

học, làm văn… Song hiện nay môn học này lại không được học sinh coi
trọng. Thực trạng các giờ dạy văn còn đơn điệu, tẻ nhạt khiến học sinh không
hứng thú. Nguyên nhân của tình trạng trên thì rất nhiều, song cơ bản là giáo
viên vẫn sử dụng phương pháp truyền thống thiên về đọc chép, chưa phát huy
được vai trò tích cực của học sinh. Có thầy cô đã đưa phương pháp mới vào
quá trình dạy đọc - hiểu song chưa triển khai theo đúng bản chất của nó, còn
mang tính hình thức, chưa chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho
người học. Nhiều thầy cô khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu chỉ tập trung phân
tích hình tượng nhân vật, không coi trọng việc tiếp cận tầng cấu trúc ngôn từ
cũng như tầng ý vị nhân sinh.
Xuất phát từ mục đích trên, đọc - hiểu tác phẩm văn chương được xem
như một phương pháp dạy học tích cực góp phần đổi mới phương pháp dạy

1


học văn. Đó là quá trình chuyển từ trọng tâm giảng văn, học sinh thụ động
lĩnh hội kiến thức thông qua bài giảng của giáo viên sang trọng tâm đọc văn,
học sinh tự chiếm lĩnh giá trị của tác phẩm văn chương. Vì vậy việc rèn luyện
kĩ năng đọc - hiểu đóng vai trò không thể thiếu, là yếu tố cơ bản cho hoạt
động đọc hiểu tác phẩm văn chương.
1.3. Nguyễn Tuân là một trong 9 tác giả lớn được học trong chương
trình phổ thông, tác phẩm của ông được học xuyên suốt từ lớp 11 đến lớp 12.
Ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Tuân đã được đánh giá là một
nhà văn có một phong cách nghệ thuật “độc đáo”. Bởi vậy, ông luôn nhận
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Trong đó, truyện ngắn “Chữ người
tử tù” viết về đề tài “Vang bóng một thời”, là tác phẩm kết tinh tài năng của
Nguyễn Tuân thời kì sáng tác trước Cách mạng. Ngôn ngữ của truyện luôn
mang tính đa tầng nghĩa, đặc biệt, số lượng từ Hán Việt chiếm rất nhiều, các
từ này đều góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Hình tượng nhân

vật đều là sự kết tinh từ phẩm chất tài hoa của chính con người nhà văn, thể
hiện ý nghĩa vị nhân sinh sâu sắc. Chính vấn đề này đã khiến cho giáo viên,
học sinh rất khó khăn và lúng túng khi tiếp nhận tác phẩm. Nhiều thế hệ bạn
đọc đã cảm nhận cái hay của ngôn từ trong “Chữ người tử tù”, nhưng đa phần
hiểu một cách nông cạn, chưa nắm bắt được tư tưởng cũng như nghệ thuật
đặc sắc của tác phẩm.
Những hứng thú, hấp dẫn và những khó khăn trên đã thôi thúc chúng
tôi quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài “Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân cho học sinh lớp 11”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề đọc hiểu
Vào những thập niên 70 của thế kỉ XX, trong nhà trường các nước tiên
tiến trên thế giới, những nhà sư phạm bắt đầu quan tâm rất nhiều tới hoạt
động đọc trong việc dạy học văn chương. Nhất là các nước ở khu vực Âu Mĩ,
các nhà lí luận đã quan tâm và nghiên cứu rất sớm về lí thuyết đọc - hiểu, tiêu

2


biểu như K. Goodman (1970), A.Pugh (1978), P.Arson (1984), L.Baker,
A.Brown (1984), U. Frith (1985), M. Adams (1990), R. Jauss với “Hoạt động
học” và “Hiện tượng học và đọc”, R. Vemezki với “yêu cầu kĩ năng của việc
đọc”... Các công trình nghiên cứu trên dù có những cách lập luận khác nhau
nhưng đều tập trung lí giải về hoạt động đọc, từ đó đưa ra các kĩ năng đọc, coi
các kĩ năng đọc như một phương pháp để tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm,
giúp người học sẽ chủ động và tích cực hơn.
Trong những năm gần đây, có rất nhiều tác giả nghiên cứu về đọc hiểu như: Erich Schon với cuốn “Lịch sử việc đọc” hay Ursula Christman và
cuốn “Tâm lí học của việc đọc”... Ở các công trình này, các nhà nghiên cứu
không chỉ dừng lại ở việc cung cấp về việc đọc một cách bài bản mà còn tập
trung nhấn mạnh đến việc học đọc và dạy đọc sao cho hiệu quả.

Ở nước ta, trong những năm gần đây vấn đề này cũng được khá nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Đầu tiên phải nói đến cuốn sách của GS.TS. Lê
Phương Nga “Dạy học tập đọc ở tiểu học” (Nhà xuất bản Giáo Dục,
11/2001), trong tài liệu này tác giả mới chỉ dành một số trang bàn về đọc hiểu
mang tính khái quát nhất.
Tiếp theo đó, vào năm 2002 chuyên luận Dạy học đọc hiểu ở tiểu học
của PGS.TS. Nguyễn Thị Hạnh đã được công bố. Trong chuyên luận này, tác
giả đã trung thành với định nghĩa “Đọc hiểu là một bộ phận của nội dung dạy
học tiếng Việt với tư cách là môn học tiếng mẹ đẻ trong trường tiểu học”. Bên
cạnh đó, tác giả cũng chú ý nhấn mạnh và coi trọng sự tác động của văn bản
vào người đọc: “Phân tích theo lí thuyết giao tiếp chúng ta sẽ thấy bản chất
của đọc hiểu là gì? Đây là hoạt động giao tiếp ở đó người đọc lĩnh hội lời nói
đã được viết thành văn bản nhằm làm thay đổi những hiểu biết tình cảm hoặc
hành vi của chính mình ”. Đây có thể coi là một công trình có những đóng
góp cụ thể và bổ ích cho việc dạy học tiếng Việt, đặc biệt có những đóng góp
lớn trong việc đi sâu vào nghiên cứu đọc hiểu tầng cấu trúc ngôn từ của tác
phẩm văn chương.

3


Và nói về tầm quan trọng của vấn đề đọc hiểu tác phẩm văn chương
trong nhà phổ thông, GS. TS. Trần Đình Sử có thể coi là người khởi xướng.
Trong tài liệu bồi dưỡng cho GV, với bài viết: “Đọc - hiểu văn bản, một khâu
đột phá trong nội dung và phương pháp dạy Văn hiện nay”. Ở đây, tác giả đã
chỉ ra vai trò của người giáo viên dạy văn là phải: “dạy cho người học cách
hiểu văn, mà cơ sở của nó là đọc hiểu”. Từ đó GS nêu ra yêu cầu của việc đọc
văn không chỉ dừng lại ở việc đọc chữ, đọc diễn cảm mà phải “Qua một văn
bản biết đâu là nơi quy tụ thông tin, đâu là câu then chốt biểu hiện tư tưởng
của tác giả… Nhà trường phải đào tạo mỗi học sinh thành một người đọc

đích thực, đọc chủ động sáng tạo”. Như vậy, GS đã nhận định rất rõ ràng về
vấn đề đọc hiểu như một nền tảng cho việc vận dụng đọc hiểu vào quá trình
tiếp nhận văn bản.
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn, một nhà nghiên cứu đầy tâm huyết về vấn
đề đọc hiểu cũng đã có rất nhiều chuyên luận đóng góp cho đề tài đọc hiểu
như: “Một số vấn đề đọc hiểu thơ trữ tình và tác phẩm văn chương nghị luận”
“Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 7” - Nxb Giáo dục 2005, “Đọc hiểu văn bản Ngữ
văn 9” – Nxb Giáo dục 2007… Nhìn chung theo quan điểm của tác giả thì:
“Việc đọc gắn liền với tài năng, phong cách tác giả; gắn liền với vấn đề loại
thể, chú giải văn bản và mở rộng các lớp nghĩa từ văn bản… để từ đó người
đọc vượt lên những kinh nghiệm, vươn tới những chân trời rộng lớn và mới lạ
của tri thức nhân loại ”. Như vậy, đọc được coi là khâu khởi đầu cho những
năng lực khác, đặc biệt là năng lực nhận biết, phân loại và tri giác các văn bản.
Đặc biệt, các công trình nghiên cứu của GS. TS. Nguyễn Thanh Hùng –
người không những đặt nền móng đầu tiên cho vấn đề đọc hiểu mà còn là
người nghiên cứu kĩ lưỡng và đầy đủ hơn cả về vấn đề này ở Việt Nam. Từ
tiểu luận khoa học đầu tay mang tên: “Dạy đọc - hiểu là nền tảng văn hóa cho
người đọc” trình bày tại Hội thảo khoa học chương trình và SGK thí điểm - tổ
chức tháng 9/2000 tại Hà Nội, tác giả đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đọc hiểu: “Đọc được xem như năng lực văn hóa có ý nghĩa cơ bản đối với sự phát

4


triển nhân cách bởi vì phần lớn những tri thức hiện đại được truyền thụ qua
việc đọc của học sinh. Trên cơ sở đó sự phát triển kĩ năng đọc của học sinh
trong nhà trường phổ thông là nhiệm vụ cơ bản của giáo viên Ngữ văn….”.
Như vậy, GS đã chỉ rõ rằng: “Hình thành năng lực đọc tác phẩm cho học sinh
không thể không dựa vào những kết quả nghiên cứu sự hiểu biết về đặc điểm
ngôn ngữ văn học và thể loại”.
Gần đây nhất, kế thừa và phát triển những thành tựu của lí thuyết đọc –

hiểu, PGS. TS Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn “Kĩ năng đọc hiểu văn”
(2011) - Nxb Đại học Sư phạm đã nghiên cứu rất tỉ mỉ về các kĩ năng đọc –
hiểu. Trong cuốn sách này, tác giả còn kiến giải sâu hơn về hoạt động đọc
văn, đưa ra các về mô hình đọc - hiểu theo từng loại thể, chỉ rõ được nội dung
và bản chất của việc đọc – hiểu. Từ đó đưa ra những kĩ năng đọc hiểu – hiểu
văn cơ bản nhất nhằm giúp người giáo viên dựa trên đó để rèn luyện hay nâng
cao kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm cho người học sao cho phù hợp.
Nhìn chung, các tác giả nói trên đều thể hiện rõ ràng quan điểm của
mình về vấn đề đọc hiểu văn bản Ngữ văn, đánh giá rất cao vai trò của đọc hiểu đối với việc dạy văn trong nhà trường phổ thông hiện nay. Tuy nhiên, các
bài viết trên mới chỉ dừng lại ở những lý thuyết chung về vấn đề đọc hiểu mà
chưa tập trung vào việc rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu theo từng thể loại văn học.
Đó chính là những gợi ý thiết thực để chúng tôi triển khai đề tài của mình.
2.2. Lịch sử nghiên cứu việc giảng dạy tác phẩm “Chữ người tử tù” của
Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là một cây bút lớn của nền văn học Việt Nam. Sau năm
mươi năm cầm bút, với bản lĩnh sáng tạo của một người nghệ sĩ tài hoa, với
một cá tính nghệ thuật độc đáo, ông để lại cho đời một di sản quý báu gồm
trên hai mươi tác phẩm văn xuôi thể hiện rõ bản sắc riêng vừa gai góc vừa tài
hoa, có sức hút khó cưỡng nổi với bất cứ ai đi tìm cái đẹp... Và một trong số
tác phẩm gây được sự quan tâm của giới nghiên cứu văn học chính là tác

5


phẩm “Chữ người tử tù”. Song hầu hết những nghiên cứu về tác phẩm này chỉ
dừng lại ở phạm vi nhỏ hẹp như:
Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Cúc “Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học tác phẩm Nguyễn Tuân ở trường phổ thông”, trong công
trình này tác giả đã khảo sát trên 4 tác phẩm của Nguyễn Tuân là truyện ngắn
“Chữ người tử tù”, tùy bút “Người lái đò sông Đà”, “Tờ hoa” và tác phẩm phê

bình văn học “Thời và thơ Tú Xương”. Với luận văn này tác giả mới chỉ tập
trung nghiên cứu đọc hiểu chung ở 4 truyện ngắn của Nguyễn Tuân.
Hay trong luận văn thạc sĩ của Trần Quốc Khả với đề tài: “Tổ chức đối
thoại trong dạy học “Chữ người tử tù”, tác giả nêu khái quát về nội dung và
bản chất của phương pháp dạy học đối thoại. Từ đó vận dụng phương pháp
này vào đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” nhằm phát huy vài trò chủ
động sáng tạo cho người học.
Gần đây nhất là luận văn: “Trường nghĩa miêu tả ánh sáng trong một
số tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thạch Lam” của tác giả Trần
Hữu Sáng đã đưa ra cách tiếp cận tác phẩm dưới góc độ trường nghĩa ánh
sáng trong sự so sánh với tác phẩm khác. Với công trình này, tác giả chỉ tập
trung khai thác một phần của yếu tố nghệ thuật như là một con đường giải mã
thông tin trong tác phẩm. Vì vậy độ sâu của tác phẩm chưa được khám phá cụ
thể và đầy đủ.
Qua công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả trên đều chưa có cái
nhìn toàn diện, mà chủ yếu chỉ dừng lại ở một vấn đề nhỏ của tác phẩm. Hơn
nữa, chưa có tác giả nào đề cập một cách toàn diện đến việc rèn luyện kĩ năng
đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” cho học sinh lớp 11.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh hiểu được cái hay
của tác phẩm “Chữ người tử tù” từ tầng cấu trúc ngôn từ đến tầng cấu trúc
hình tượng nghệ thuật cũng như tầng cấu trúc vị nhân sinh thông qua các kĩ
năng đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo và kĩ năng đọc tích lũy.

6


- Bước đầu học sinh biết cách rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn chương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là rèn luyện kĩ năng đọc
hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân cho HS lớp 11.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Theo phân phối chương trình thời gian giảng dạy
tác phẩm “Chữ người tử tù” chỉ có 90 phút nên trong phạm vi đề tài này
chúng tôi chỉ xin được tập trung ở việc định hướng tổ chức cho học sinh đọc hiểu ở tầng cấu trúc ngôn từ, tầng cấu trúc hình tượng nghệ thuật và tầng cấu
trúc tư tưởng, ý vị nhân sinh trong tác phẩm “Chữ người tử tù” qua kĩ năng
đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo và đọc tích lũy.
- Phạm vi khảo sát, ứng dụng: chỉ khảo sát học sinh và giáo viên lớp 11
tại trường THPT Tân Lập – Đan Phượng – Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân loại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Đóng góp về lý luận
Góp phần xây dựng cơ sở lý luận khái niệm, nội dung, bản chất và kĩ
năng của đọc - hiểu trong dạy học tác phẩm văn chương nói chung. Từ đó vận
dụng để định hướng, tổ chức cho học sinh lớp 11 đọc - hiểu truyện ngắn “Chữ
người tử tù” của Nguyễn Tuân.
6.2. Đóng góp vào thực tiễn

7


Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn
Tuân cho học sinh lớp 11.

Khắc phục những cách đọc - hiểu tác phẩm văn chương chưa đúng,
chưa khai thác hết chiều sâu của tác phẩm văn chương; góp phần nâng cao
chất lượng giờ học tác phẩm văn chương; đưa đến những cách hiểu sâu sắc và
thống nhất, hợp lí về truyện ngắn “Chữ người tử tù”.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương chính:
- Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài.
- Chương 2: Thực trạng dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương và việc
định hướng, tổ chức nâng cao kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù”.
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những vấn đề chung về đọc - hiểu tác phẩm văn chương
1.1.1. Quan niệm về đọc văn
Hoạt động đọc từ xa xưa đã tích lũy vô vàn những dạng thức đọc, kiểu
đọc, dạng đọc, phương pháp đọc, kĩ năng đọc, kĩ thuật đọc khác nhau. Song
cho đến nay lịch sử nghiên cứu vẫn chưa có những tiêu chí cụ thể để phân loại
một cách rạch ròi ranh giới khoa học giữa chúng. Vậy đọc là gì? Và câu trả
lời cũng rất phong phú. Có người cho rằng: “Đọc là phát âm các chữ cái và
tổng hợp chúng thành từ ngữ” “Đọc là hiểu những gì trên trang giấy” [ 17,
Tr.15]. Người khác lại nêu ra: “Đọc là quá trình phức tạp bao gồm sự kết hợp
của các khả năng cảm nhận, tâm lí ngôn ngữ và nhận thức” (Adam, 1990).
Còn với GS. TS Nguyễn Thanh Hùng – một người giành cả cuộc đời
mình để nghiên cứu vấn đề đọc - khẳng định: “Đọc là một hành động của con
người nhằm mục đích hình thành và nắm vững ý nghĩa từ văn bản trong quá

trình nhận thức của việc đọc để mở rộng cảm giác và xúc cảm bằng sự nếm
trải của người đọc. Với ý nghĩa đó, kinh nghiệm đọc sẽ được hình thành nhờ
nắm vững các đơn vị hữu cơ trong việc đọc văn bản nói chung trước khi đọc
hiểu tác phẩm văn chương ” [15, Tr. 18]. Bên cạnh đó, GS Nguyễn Thanh
Hùng đã lí giải khá sâu sắc và rất khoa học về vấn đề đọc văn: “Đọc văn
chương là đọc cái chủ quan của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình
cảm, suy nghĩ của mình vào trang sách. Hoạt động đó không chỉ là tái tạo âm
thanh từ chữ viết mà còn là quá trình thức tỉnh cảm xúc, quá trình tri giác
nhuần thấm tín hiệu để giải mã ngôn từ, mã nghệ thuật, mã văn hóa đồng thời
với việc huy động vốn sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc, để lựa chọn giá
trị tư tưởng thẩm mĩ và ý nghĩa vốn có của tác phẩm. Đọc là đón đầu những
gì mình đang đọc qua để kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả để tác
phẩm được tái tạo trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng ” [15, Tr. 29].

9


Trong cuốn “Phương pháp dạy học văn” Tập 1, Nxb Đại học Sư phạm
– 2004, các tác giả đã khẳng định rằng: “Đọc văn để tiếp nhận, lĩnh hội, đọc
văn để hiểu và cảm nhận văn, có ấn tượng và định hình biểu tượng về tác
phẩm văn. Người đọc văn phải làm sống lại hình tượng nghệ thuật từ văn bản
tác phẩm rồi chuyển hình tượng đó vào trong đầu trở thành biểu tượng, ấn
tượng của mình ” [20, Tr. 429].
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn quan niệm: Đọc là một hoạt động nhận
thức nhằm hiểu nghĩa thông qua quá trình chủ thể người đọc làm việc với văn
bản. Trước văn bản người đọc vận dụng những kiến thức đã có cùng với
những gợi ý (trực tiếp và gián tiếp, hiển ngôn và hàm ngôn) trong bài đọc để
hiểu ý nghĩa tác phẩm.
Dù có rất nhiều những cách lí giải riêng về quan niệm đọc văn. Song
nhìn chung các quan niệm của các nghiên cứu trên đều tập vào các vấn đề

chung của đọc như sau:
Đọc là một hoạt động nhằm lĩnh hội và hiểu được các tầng ý nghĩa của
văn bản ( từ tầng ngôn từ đến tầng nghệ thuật cũng như tầng ý nghĩa vị nhân
sinh của văn bản đó). Quá trình lĩnh hội đó phải dựa vào khả năng chủ động,
tích cực và sáng tạo của chủ thể đọc khi khám phá tác phẩm.
Đọc chính là quá trình thấu hiểu và cảm thông cũng như đối thoại với các
nhà văn. Thông qua đó, người đọc sẽ vận dụng một cách sáng tạo những kiến
thức có trong tác phẩm vào trong cuộc sống của mình. Từ đó nâng tầm hiểu biết
của mình về xã hội, hình thành và phát huy những năng lực của bản thân.
Nhìn chung, có thể thấy đọc là một hoạt động có ý thức văn hóa và
mang tính giáo dục sâu sắc. Khái niệm đọc xuất hiện từ lâu và được nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, cho đến nay nó đã nhanh chóng
phổ biến và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong hoạt động nhận thức
của con người. Đọc chính là sự thể hiện những nhận thức của con người
thông qua ngôn từ để giao tiếp và phát triển cá thể cùng xã hội.

10


1.1.2. Quan niệm về hiểu văn
“Hiểu” nói chung theo quan niệm của Kinh thánh là: “lặn sâu vào thế
giới bí ẩn bên trong”, còn theo triết học Nga hiện đại thì: “hiểu là đưa ra một
cách thức để nhận thức sự vật ”, nhìn chung đều có hàm nghĩa “hiểu” là giải
quyết mối quan hệ phức tạp bên trong của sự vật, đối tượng khác. “Hiểu” có
nhiều mức độ. Cơ bản nhất là phải hiểu được ý nghĩa của các kí hiệu, hiểu
trên bề mặt, hiểu nghĩa đen, hiểu hiển ngôn; tiếp đến là phải hiểu được ý
nghĩa, tính ám chỉ trong từng con chữ; và cuối cùng là hiểu sâu sắc, hiểu vượt
ra ngoài văn bản trong sự liên hệ với cuộc sống, với tương lai.
Theo GS.TS Nguyễn Thanh Hùng thì: “Hiểu văn bản nói chung là nắm
vững nội dung tư tưởng của người viết, chủ sở hữu của văn bản ấy trong quá

trình thực hiện chức năng giao tiếp của mình”. Nói một cách khái quát là:
“Hiểu một văn bản là biết rõ và hiểu đúng, nắm vững nội dung cụ thể của văn
bản và vận dụng được những tư tưởng chứa đựng trong văn bản” [ 15, Tr 23].
Đề cập đến vấn đề hiểu văn bản, các nhà nghiên cứu đều thống nhất
việc hiểu có nhiều cấp độ, từ đơn giản đến sâu sắc. Nhưng một điều đặc biệt
là đối với văn bản văn học thì người đọc không chỉ hiểu được giá trị tư tưởng,
tình cảm mà tác giả gửi gắm qua tác phẩm mà còn hiểu cái hay, cái đẹp đằng
sau ngôn ngữ.
Nhìn chung bản chất tâm lí của sự hiểu là biến cái của người khác
thành cái vừa của mình – vừa của người khác. Hiểu bao giờ cũng là tự hiểu,
nghĩa là biến cái được hiểu thành kiến thức, quan điểm, niềm tin của mình.
Có thể thấy biên độ của hiểu đã được đẩy ra mọi mức độ nhận biết cho tới
mức độ cao nhất là đánh giá, vận dụng.
Vậy việc đọc - hiểu tác phẩm văn chương cũng phải đảm bảo việc biết
rõ và hiểu đúng, phải nắm vững và vận dụng được tư tưởng thẩm mĩ và thái
độ đánh giá của nhà văn đối với hiện thực được phản ánh để người đọc, đọc
hiểu các tác phẩm văn chương cùng thể loại, cùng khuynh hướng văn học hay
cùng quan điểm nghệ thuật.

11


1.1.3. Bản chất việc đọc - hiểu
Đọc - hiểu là một thuật ngữ kép dùng chỉ chỉ một hoạt động có mục
đích cụ thể của con người. Đó là hoạt động tự lĩnh hội tri thức bằng hoạt động
trí tuệ. Đọc hiểu vừa là năng lực, vừa là kĩ năng cần rèn luyện của con người.
Bàn về đọc hiểu, trong cuốn trong chuyên luận: “Đọc hiểu tác phẩm văn
chương trong nhà trường” - Nxb Giáo dục năm 2008, GS. TS Nguyễn Thanh
Hùng đã đặt đọc hiểu tác phẩm văn chương trong mối quan hệ với mục đích:
“Đọc để hiểu giá trị đích thực của tác phẩm”. Một lần nữa tác giả lại khẳng

định: “Đọc – hiểu là một khái niệm khoa học chỉ ra mức độ cao nhất của hoạt
động học; đọc – hiểu đồng thời cũng chỉ ra năng lực văn của người đọc”
[14].
Tác giả Phạm Thu Hương trong cuốn “Đọc hiểu và chiến thuật đọc
hiểu trong nhà trường phổ thông” đã trích dẫn ý kiến của sPGS. TS Nguyễn
Thái Hòa về đọc – hiểu như sau: “Đọc – hiểu là một kĩ năng tích hợp không
chỉ riêng trong học Tiếng Việt, Văn mà còn quan trọng trong học tập và nhận
thức nói chung. Một cách khái quát, đọc – hiểu dù đơn giản hay phức tạp đều
là hành vi ngôn ngữ, sử dụng một loạt thủ pháp và thao tác cơ bản bằng cơ
quan thị giác, thính giác để tiếp nhận, phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung
thông tin, cấu trúc văn bản ” [17, Tr. 18].
Tuy nhiên, dù đứng ở góc độ nào, khái quát - triết học hay cụ thể - thao
tác – định hướng thực hành đều cho thấy bản chất của đọc hiểu văn chương là
một quá trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những
giá trị của tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc trưng văn bản. Đọc văn chương
với bất kì hình thức nào cũng là một dạng thức lao động mang tính chủ động
và tích cực.
Trước hết đọc hiểu là một hoạt động đọc. Ban đầu đọc như một hoạt
động cơ bắp diễn ra với luồng mắt theo dõi nhìn lướt trên dòng chữ, trang
viết, là sự điều tiết của cơ quan phát âm, là toàn bộ cơ thể được hoạt động như
tay cầm sách, chân nâng đỡ sức mạnh phát âm. Lúc này đọc đồng nghĩa với

12


khả năng ghi nhớ chữ viết, kí tự… Đây chính là cấp độ đọc thấp nhất của đọc,
đọc mới dừng ở mức tái hiện thông thường.
Tiếp đến cho thấy mục đích chính của đọc là để hiểu những ý tưởng,
những thông điệp trong tài liệu. Không hiểu, việc đọc sẽ trở nên trống rỗng và
vô nghĩa giống như chúng ta nhìn mà không thấy vậy. Hay nói như Durkin thì

“cốt lõi của của việc đọc là sự hiểu”. Cho nên đọc tiếp theo phải gắn liền với
hiểu, người đọc phải tiếp nhận thông tin, phân tích, giải mã, nhận xét, bình giá
nội dung thông tin và cả người phát ra thông tin. Ở đây, người đọc sẽ khám
phá ra nghĩa của các từ, tức “nhận ra kí hiệu và nghĩa của kí hiệu”, hiểu được
các từ đó liên kết với nhau như thế nào nhằm chuyển tải bức thông điệp gì, và
chúng có tác động như thế nào đến tình cảm, nhận thức cũng như hành vi của
người đọc. Đọc hiểu văn bản thực chất là quá trình người đọc kiến tạo ý nghĩa
của văn bản đó thông qua hệ thống các hoạt động, hành động, thao tác nhất
định. Đây là một hoạt động không đơn giản diễn ra trong một thời gian ngắn
mà nó xuyên suốt trong cả một quá trình. Hay nói như GS Trần Đình Sử:
“Đọc là tìm ra ý nghĩa trong một thông điệp được tổ chức bằng hệ thống kí
hiệu. Nhưng ý nghĩa là một vấn đề rất khó của khoa học nhân văn hiện đại…
Theo thói quen ta tạm dùng một từ ý nghĩa… Nghĩa được biểu hiện trong văn
bản, gắn với nội dung của văn bản ấy. Còn nghĩa là nội dung văn bản trong
cách cảm nhận của người đọc ” [26, Tr 20].
Như vậy ý nghĩa trong văn bản được hiểu rất linh hoạt và đa dạng, nó
phụ thuộc vào khả năng nhận thức của từng trình độ của người đọc trong
những thời điểm xác định khác nhau. Và ý nghĩa trong văn bản cũng không
phải là cái có sẵn trong văn bản đó mà người đọc dễ dàng tìm ra được.Để
khám phá được ý nghĩa của văn bản người đọc phải tư duy một cách tối đa.
Từ đó các tầng nghĩa và ý của văn bản cũng sẽ được người đọc dần dần chỉ
ra. Tất cả các lớp nghĩa như nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa đơn trị, đa trị, nghĩa
văn cảnh…đều người đọc giải mã. Thậm chí ngay cả những tầng ý vị nhân
sinh đằng sau khoảng trống của ngôn ngữ, người đọc cũng phải vận dụng các

13


kĩ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, liên tưởng, ghi nhớ, suy luận để thấu
hiểu. Khi này mức độ đọc không chỉ là một hoạt động cơ bắp thông thường

mà đã có sự tham gia của tư duy, nhận thức và năng lực của người đọc.
Điều cuối cùng mà các nhà nghiên cứu về đọc hiểu quan tâm đó chính
là khả năng giám sát việc hiểu của bản thân người đọc hay chính là khả năng
vận dụng kiến thức của người đọc sau khi đọc văn bản đó. Bởi đọc hiểu
không hề là một quá trình đơn thuần chỉ dừng lại ở việc chuyển các kí hiệu
chữ viết thành hệ thống tín hiệu âm thanh. Nó là một quá trình nhận thức vô
cùng phức tạp. Ngoài ra đọc hiểu cũng không phải là một công việc phó mặc
hoàn toàn cho sự may rủi, được chăng hay chớ. Và một trong những yếu tố
thể hiện được sự tích cực, chủ động và sáng tạo của người đọc chính là ở sự
vận dụng việc hiểu của bản thân người đọc trong quá trình đọc hiểu văn bản.
Khả năng tự giám sát cũng như sự vận dụng sự hiểu của người đọc, nói
một cách đơn giản chính là việc người đọc tự nhận diện chân dung của bản
thân trong quá trình đọc hiểu văn bản. Đó chính là biểu hiện của sự tự giác và
khả năng phát triển cao của phẩm chất một bạn đọc tích cực. Qua sự phân
tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá, người đọc từ chỗ hiểu đúng đi đến hiểu sâu
để rồi có những suy nghĩ, tự nhận thức về điều ngộ nhận, sai lầm, hời hợt của
bản thân mình. Lúc này việc đọc không còn đơn giản là một kĩ năng nhận
thức thông thường mà trở thành kĩ năng siêu nhận thức. Và người đọc trở
thành người đồng sáng tạo với người viết ra văn bản.
Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm văn học cho học
sinh chính là khâu trung tâm của việc đổi mới phương pháp dạy học văn trong
nhà trường, và nó thể hiện rõ nhất bản chất: “Học sinh là bạn đọc sáng tạo
trong quá trình dạy học văn” mà GS. Phan Trọng Luận đã đề xuất trong rất
nhiều những công trình nghiên cứu của mình.
1.2. Nội dung đọc - hiểu tác phẩm văn chương
Căn cứ vào khái niệm cũng như bản chất cuả đọc hiểu, ta thấy rõ được
nội dung của đọc - hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường. Người giáo viên

14



phải từng bước giúp học sinh khám phá ra từng lớp nghĩa của tác phẩm, “bắt
đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa
của câu, hiểu mạch văn, bố cục và nắm được ý chính cũng như chủ đề của tác
phẩm” rồi đến “hiểu đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của
tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Hoạt động đọc hiểu không những có khả
năng tích hợp văn học và tiếng Việt mà còn có khả năng khơi gợi và khai thác
những tri thức thuộc các lĩnh vực khoa học và văn hóa khác” [ 19, Tr. 28].
Như vậy, thì nội dung đọc - hiểu mới mới đi đúng hướng theo bản chất của
nó, đồng thời cũng tích cực hơn so với khái niệm tìm hiểu, phân tích trong các
giáo án truyền thống.
Trăn trở với vấn đề này, GS. TS Nguyễn Thanh Hùng cũng đã trình bày
khá cụ thể về nội dung đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong công trình mang
tên “Kĩ năng đọc hiểu văn” Nxb Đại học Sư phạm – 2011. Theo tác giả thì
một tác phẩm văn chương tồn tại ba loại cấu trúc. Đầu tiên là tầng cấu trúc
ngôn ngữ, kế tiếp là tầng cấu trúc hình tượng, sau cùng là tầng cấu trúc ý
nghĩa. Và khi đọc - hiểu tác phẩm là phải khám phá, lí giải được cả ba tầng
cấu trúc trên.
1.2.1. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng cấu trúc ngôn từ tác phẩm
Ngôn từ là yếu tố đầu tiên của văn bản văn học và là chất liệu là
phương tiện biểu hiện đặc trưng của văn học. Nội dung và ý nghĩa của TPVC
được ẩn giấu trong lớp vỏ ngôn ngữ. Không có ngôn ngữ không thể có tác
phẩm văn chương bởi chính ngôn ngữ đã cụ thể hóa, vật chất hóa sự biểu hiện
tính cách nhân vật tư tưởng, tình cảm, ước mơ của tác giả, “Ngôn ngữ là chất
liệu của văn học”. Các chi tiết các sự việc, các hình tượng, các nhân vật … và
các thành tố khác đều được cấu tạo nên nhờ lớp ngôn từ. Không có ngôn từ ta
không có căn cứ cụ thể để tìm hiểu, để thưởng thức văn bản.Vậy bước đầu
tiên khi đọc hiểu văn bản văn học là phải đi sâu khai thác lớp ngôn từ để tìm
hiểu, khám phá. Và đọc - hiểu tầng cấu trúc ngôn từ là điều quan trọng nhất
để thông qua lớp hiển ngôn mà phân giải lớp hàm ngôn.


15


Tuy nhiên ngôn từ ở văn bản văn học là ngôn từ nghệ thuật, có hình
tượng, có tính thẩm mĩ, có sắc thái riêng theo phong cách riêng của mỗi nhà
văn. Ngôn từ được hiện diện trong câu, trong hình ảnh, trong giọng điệu của
văn bản. Có ngôn từ tài hoa của Nguyễn Tuân; ngôn từ trong sáng, tinh tế của
Thạch Lam; có ngôn từ chân chất, đầy màu sắc Nam Bộ của Sơn Nam…
Không có ngôn từ nào là không mang dấu ấn của tác giả.
Thật vậy ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc tạo ra nghĩa và ý
của TPVC. Thông qua đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, nhà văn đã thổi
vào đó linh hồn của tác phẩm. Người sáng tác thông qua ngôn ngữ để bộc lộ
quan điểm, tình cảm, tư tưởng, khát vọng, ước mơ về con người và cuộc sống
còn người đọc lại thông qua ngôn ngữ, thông qua hiện thực phản ánh trong
tác phẩm mà hiểu được vấn đề mà nhà văn thể hiện.
Vì vậy, muốn đọc - hiểu tầng cấu trúc ngôn từ của tác phẩm văn
chương, trước hết phải tìm cách nắm vững đầy đủ và sâu sắc mối quan hệ vật
chất kí hiệu nền tảng như từ, nhóm từ, câu, đoạn, chương, phần của tác phẩm.
Mặt khác, người đọc phải theo dõi sát sao mối quan hệ sống động của ngôn từ
tác phẩm qua thao tác thay thế và kết hợp mà nhà văn và người đọc phải hiểu
ở cái lí, cái chân thật trong nhận thức đời sống, trong tình cảm, thái độ của
con người, trong những khoảnh khắc tiêu biểu, điển hình của con người.
Có thể nói hiểu tầng cấu trúc ngôn từ là hiểu nội dung quan trọng được
kể lại trong sự lựa chọn, đánh giá của nhà văn. Tầng cấu trúc ngôn từ cho
phép người đọc hiểu được khung cảnh xã hội của tác phẩm với sự kiện, con
người, không gian, thời gian trong những biến cố chính.
Và yêu cầu đối với việc nắm vững cấu trúc ngôn từ là phải hiểu chính
xác của ngôn ngữ và phương thức trình bày nghệ thuật của nhà văn. Hiểu
nghĩa cụ thể của phạm vi đề tài, chủ đề và sự triển khai chúng, đồng thời hiểu

được cái hay, cái đẹp của cách dùng từ, tạo câu, hình thành nhịp điệu và giọng
điệu của ngôn ngữ tác phẩm.

16


1.2.2. Đọc - hiểu giá trị ý nghĩa tầng hình tượng nghệ thuật của tác phẩm
Nắm vững cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm là nắm hình thức tái hiện
cuộc sống. Thông qua cấu trúc ngôn ngữ ta đến với cấu trúc hình tượng nghệ
thuật của tác phẩm. Đây là cấu trúc mà qua đó nhà văn biểu hiện tình cảm,
thẩm mĩ của mình. Hình tượng nghệ thuật làm nên tính chỉnh thể nghệ thuật
của TPVC, nó tập trung thể hiện các giá trị nhân học và thẩm mĩ của nghệ
thuật. Vì vậy hiểu tầng cấu trúc này người đọc có điều kiện thâm nhập vào sự
sáng tạo nghệ thuật mới mẻ trong tác phẩm một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất.
Tuy nhiên hình tượng nghệ thuật cũng rất đa tầng, đa nghĩa và biến hóa
trong vận động biểu đạt ý nghĩa như ngôn từ văn học.Về mặt đối tượng nhận
biết, hình tượng nghệ thuật không chỉ là nhân vật văn học mà là toàn bộ chỉnh
thể tác phẩm. Hình tượng nghệ thuật là hình thể phản ánh thực tại có hiệu quả
thẩm mĩ. Hình tượng nghệ thuật được sáng tạo trong TPVC nhờ vào những
chi tiết, cốt truyện, nhân vật, hoàn cảnh, tâm trạng…. Và hình tượng nghệ
thuật này cũng được chia làm nhiều loại như: hình tượng trung tâm, hình
tượng tính cách, hình tượng cảm nghĩ, hình tượng tác giả… Bởi vậy hình
tượng nghệ thuật không đứng yên mà luôn di động trong mối quan hệ với
những yếu tố khác của tác phẩm khiến hình tượng trở nên sống động, cụ thể
và đầy đặn hơn nhờ vào tính khái quát hóa nghệ thuật của nó.
Chính vì những lẽ trên cho thấy hình tượng còn là một quan hệ xã hội thẩm mĩ vô cùng phức tạp. Trước hết là quan hệ giữa các yếu tố và chỉnh thể
của bức tranh đời sống được tái hiện qua hình tượng. Tiếp đến là quan hệ giữa
thế giới nghệ thuật với thực tại mà nó phản ánh. Về phương diện này, hình
tượng không chỉ tái hiện đời sống mà còn cải biến nó để tạo ra một thế giới
mới, chưa từng có trong hiện thực. Đó là quan hệ giữa tác giả với hình tượng,

với cuộc sống trong tác phẩm. Một mặt hình tượng là hình thức, là kí hiệu của
một tư tưởng, tình cảm, một nội dung nhất định, là sản phẩm sáng tạo của
nghệ sĩ. Mặt khác hình tượng là một khách thể tinh thần có cuộc sống riêng,
không phụ thuộc vào ý muốn. Để đọc - hiểu tầng cấu trúc hình tượng nghệ

17


×