Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Phát triển năng lực toán học của học sinh bằng phương pháp dạy học tích cực đối với chủ đề đạo hàm và ứng dụng trong trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

CHU THỊ HƯƠNG

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TOÁN HỌC CỦA HỌC SINH
BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỐI VỚI CHỦ ĐỀ
ĐẠO HÀM VÀ ỨNG DỤNG TRONG TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM TOÁN
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học
(Bộ môn Toán học)
Mã số: 60 14 10

HÀ NỘI – 2013
i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

CHU THỊ HƯƠNG

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TOÁN HỌC CỦA HỌC SINH
BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỐI VỚI CHỦ ĐỀ
ĐẠO HÀM VÀ ỨNG DỤNG TRONG TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(Bộ môn Toán học)


Mã số: 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM TOÁN

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH Vũ Đình Hòa

HÀ NỘI – 2013

ii


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo
trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình, tận tâm
giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hoàn thành luận văn tại trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia
Hà Nội dưới sự tận tình hướng dẫn khoa học của PGS.TSKH Vũ Đình Hòa.
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy, người đã giúp đỡ ,
chỉ bảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em nghiên cứu và hoàn chỉnh luận
văn.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo
và các em học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang đã giúp đỡ tác giả hoàn
thành luận văn này.
Lời cảm ơn chân thành của tác giả cũng xin được dành cho người thân,
gia đình và bạn bè, đặc biệt là lớp Cao học Toán K7 trường Đại học Giáo
dục – Đại học Quốc gia Hà Nội đã động viên tác giả trong suốt thời gian qua.
Tuy rằng đã rất cố gắng, song chắc hẳn luận văn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của các thầy cô
giáo, các nhà khoa học và các bạn bè đồng nghiệp để luận văn này được
hoàn chỉnh hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
Vĩnh Phúc, Ngày 02tháng.12năm..2013
Tác giả

Chu Thị Hương

iii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

1. BCH

Ban chấp hành

2. ĐC

Đối chứng

3. ĐS

Đáp số

4. ĐH – CĐ

Đại học – Cao đẳng


5. ĐK

Điều kiện

6.GTLN

Giá trị lớn nhất

7. GTNN

Giá trị nhỏ nhất

8. HD

Hướng dẫn

9. PPDH

Phương pháp dạy học

10. PP

Phương pháp

11. NX

Nhận xét

12. THPT


Trung học phổ thông

13. TN

Thực nghiệm

14. SGK

Sách giáo khoa

15. VD

Ví dụ

iv


MỤC LỤC
Lời cảm ơn ......................................................................................................... i
Danh mục chữ viết tắt ....................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................. iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1:CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN........................................... 5
1.1. Phương pháp dạy học tích cực là gì? ......................................................... 5
1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ............................................ 5
1.1.2. Vì sao phải dạy học tích cực? ................................................................. 7
1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực ................................................................ 8
1.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực .......................................... 10
1.2.1. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh .......... 10
1.2.2. Dạy học chú trọng bồi dưỡng, phát triển năng lực tự học cho học sinh11

1.2.3. Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác ..................... 11
1.2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò ............................... 12
1.3. Một số phương pháp dạy học tích cực cần thiết ở trường THPT ............ 13
1.3.1. Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề ........................................ 13
1.3.2. Phương pháp dạy học tự học ................................................................. 16
1.3.3. Phương pháp dạy học hợp tác nhóm ..................................................... 18
1.4. Dạy và học chủ đề Đạo hàm và ứng dụng của Đạo hàm ở THPT ........... 22
1.4.1. Chương trình học................................................................................... 22
1.4.2. Thực trạng dạy và học toán Đạo hàm và ứng dụng của đạo hàm ở
THPT ............................................................................................................... 24
Chương 2: PHÁT HUY NĂNG LỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH BẰNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIẢNG DẠY ĐẠO
HÀM VÀ ỨNG DỤNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG .......................................................................................................... 27
2.1. Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề ........................................... 27
v


2.1.1.Dẫn dắt học sinh tự thử nghiệm và rút ra kết luận khi giải Toán .......... 27
2.1.2. Dẫn dắt học sinh đào sâu bài toán, tổng quát bài toán .......................... 34
2.1.3. Tìm sai lầm của bài toán cho trước và đưa ra lời giải đúng.................. 48
2.2. Sử dụng phương pháp dạy học tự học...................................................... 59
2.2.1. Tự học bằng đọc sách giáo khoa: .......................................................... 59
2.2.2. Tự học bằng phiếu học tập .................................................................... 65
2.3.Phương pháp dạy học hợp tác nhóm. ........................................................ 69
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .................................................... 85
3.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm......................................................... 85
3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ........................................................... 85
3.3. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 86
3.3.1. Thời gian tiến hành thực nghiệm .......................................................... 86

3.3.2. Nội dung và tổ chức thực nghiệm ......................................................... 86
3.4. Kết quả dạy thực nghiệm ....................................................................... 104
Đánh giá và phân tích kết quả thực nghiệm .................................................. 107
3.5.1. Nhận xét của giáo viên qua tiết dạy thực nghiệm ............................... 107
3.5.2. Ý kiến của học sinh về giờ dạy thực nghiệm ...................................... 107
3.3.3. Những đánh giá từ kết quả bài kiểm tra .............................................. 107
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.............................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110

vi


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo hàm và ứng dụng của Đạo hàm là một mảng kiến thức vô cùng
quan trọng trong toán học, nhờ có Đạo hàm mà rất nhiều những bài toán
khó đã được giải quyết một cách đơn giản, thông qua đạo hàm mà trong
vật lý có thể tính được gia tốc của một chuyển động phức tạp, trong hóa
học có thể đưa ra những thông số phản ứng chính xác,...Vậy có thể nói
Đạo hàm với ứng dụng của nó không chỉ quan trọng trong toán học mà nó
rất cần thiết cho cuộc sống và công việc của mỗi chúng ta. Khi chúng ta
học ở bậc phổ thông là nơi đầu tiên chúng ta làm quen với khái niệm Đạo
hàm và một số ứng dụng của đạo hàm, càng học lên cao công cụ Đạo hàm
càng trở nên quen thuộc với ta, hay nói cách khác những kiến thức này còn
rất cần thiết để học ở các cấp bậc cao hơn. Do đó việc giảng dạy ở phổ
thông sao cho học sinh chủ động, tích cực lĩnh hội phần kiến thức này là
thực sự cần thiết.
Như chúng ta đã biết do sự phát triển như vũ bão của khoa học và biến
đổi cách mạng trong đời sống của con người. Xây dựng nền kinh tế tri
thức, tiến tới xã hội tri thức, đang là chủ đề quan trọng trong các chương

trình phát triển của các quốc gia trên thế giới. Tri thức ngày nay đã trở
thành nhân tố hàng đầu của tăng trưởng kinh tế, là động lực thực sự của
phát triển kinh tế - xã hội.
Để giáo dục đảm trách được sứ mệnh là nền tảng của mọi phát triển xã
hội, như nhiều nhà nghiên cứu đã khuyến cáo, Việt Nam phải thay đổi căn
bản tư duy giáo dục truyền thống (cũ), mà sản phẩm đặc trưng của nó là
một nền giáo dục khép kín, khoa cử, tinh hoa dành cho số ít người, học
một lần đê làm cho cả đời... bằng tư duy giáo dục hiện đại, xây dựng một
nền giáo dục mở, hữu dụng, đại chúng, cho tất cả mọi người trong một môi
trường giáo dục thân thiện, cả nước là một xã hội học tập, tự học và học
suốt đời trở thành phẩm giá, lẽ sống và niềm vui của mọi người. Muốn
1


vậy, Việt Nam phải làm một cuộc cách mạng hay cuộc chấn hưng giáo dục
thực sự, toàn diện và triệt để.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ II BCH Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khoá VIII có đoạn viết: "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến
và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời
gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học…".
Trong điều 5 bộ luật Giáo dục ban hành năm 2005 có viết: “. Phương pháp
giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành,
lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” của nhà nước ta có Điều này đã có
tác động đến phong trào đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Và các phương pháp dạy học
tiên tiến trên thế giới dần dần được tìm hiểu và áp dụng ở nước ta. Hiện
nay hầu như toàn bộ giáo viên Trung học phổ thông cả nước đã biết đến

một số phương pháp dạy học tích cực, họ đã và đang áp dụng chúng vào
một số những bài giảng của mình. Bản thân tôilà một giáo viên Trung học
phổ thông cũng rất muốn học hỏi, tiếp cận và xây dựng cho mình những
giáo án, những tình huống dạy học mang phong cách của phương pháp dạy
học tích cực. Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài:
“Phát triển năng lực toán học của học sinh bằng phương pháp dạy
học tích cực đối với chủ đề Đạo hàm và ứng dụng trong Trường trung
học phổ thông”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đạo hàm và ứng dụng của Đạo hàm trước đây là kiến thức chỉ giảng
dạy ở lớp 12 của bậc trung học phổ thông, nhưng giờ trong sách giáo khoa
lớp 11 cũng đã được đưa vào.Đây là phần kiến thức rất hay và rất cần
thiết đối với học sinh vì luôn luôn xuất hiện ở các kỳ thi cao đẳng và đại
2


học. Tuy nhiên các sách tham khảo hiện nay chỉ chú trọng đến việc tạo cho
học sinh thói quen là ghi nhớ cách giải từ hệ thống bài tập. Giáo viên
thường chỉ thông báo kiến thức đến học sinh nên chưa thực sự lôi cuốn,
thu hút được sự thích thú của học sinh mà chỉ làm cho học sinh cố học để
thi cao đẳng và đại học, chưa phát huy được năng lực học tập tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh. Vài năm gần đây cũng đã có sự để ý thay đổi
phương pháp trong dạy học nhưng còn chưa rõ ràng và thường xuyên. Do
vậy cũng đã có một số công trình nghiên cứu gần gũi với đề tài này. Nhưng
chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu “Phát triển năng

lực toán học của học sinh bằng phương pháp dạy học tích cực đối với
chủ đề Đạo hàm và ứng dụng trong Trường trung học phổ thông”. Với
lý do đó tôi đã chọn đề tài này với mong muốn sẽ lôi cuốn được học sinh
trong việc giảng dạy Đạo hàm và ứng dụng của Đạo hàm.

3. Mục tiêu nghiên cứu
Phát triển được năng lực toán học cho học sinh thông qua việc giảng
dạy Đạo hàm và ứng dụng của Đạo hàm bằng cách sử dụng và kết hợp linh
hoạt một số phương pháp dạy học tích cực.
4. Phạm vi nghiên cứu
Toàn bộ phần kiến thức về Đạo hàm và ứng dụng của Đạo hàm
trongchương trình sách giáo khoa lớp 11 và 12 ban Cơ bản (Nhà xuất bản
Giáo dục – năm 2008).
5. Mẫu khảo sát
Hai lớp học sinh ban cơ bản của trường THPT Nguyễn Thị Giang –
Vĩnh Tường– Vĩnh Phúc (12A1, 12A2).
6. Vấn đề nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nào và sự dụng ra sao trong
việc giảng dạy Đạo hàm và ứng dụng của đạo hàm từ đó phát triển được
năng lực toán học của học sinh.
7. Giả thuyết nghiên cứu
3


Nhằm phát triển năng lực toán học của học sinh trong việc giảng dạy
Đạo hàm và ứng dụng của đạo hàm trong chương trình trung học phổ
thông thì giáo viên nên vận dụng và kết hợp thật linh hoạt một số phương
pháp dạy học tích cực sau:
- Phương pháp nêu vấn đề, phát hiện và giải quyết vấn đề.
- Phương pháp dạy học tự học.
- Phương pháp dạy học hợp tác nhóm.
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết
- Thực nghiệm các phương pháp đã nêu trong giả thuyết và phân tích,
đánh giá kết quả.
- Dùng phiếu điều tra để khảo sát việc dạy và học toán Đạo hàm và ứng

dụng của Đạo hàm ở trường trung học phổ thông.
- Phỏng vấn giáo viên về việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực
trong việc dạy toán nói chung và dạy Đạo hàm và ứng dụng của Đạo hàm
nói riêng cùng kết quả đạt được.
- Tìm hiểu và nghiên cứu sâu về các sách, báo, tài liệu về Đạo hàm và
ứng dụng của Đạo hàm cùng các phương pháp dạy học tích cực của học
sinh.
9. Luận cứ
9.1. Luận cứ lý thuyết
- Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề.
- Phương pháp dạy học tự học.
- Phương pháp dạy học hợp tác nhóm.
9.2. Luận cứ thực tiễn
Kết quả thực nghiệm về năng lực toán học của học sinh trong việc giải
bài tập về Đạo hàm và ứng dụng của Đạo hàm mà không sử dụng một số
phương pháp dạy học tích cực đã nêu ở trên.
10.Cấu trúc luận văn

4


Ngoài phần mở đầu , kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Phát triển năng lực toán học của học sinh bằng
phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy Đạo hàm và ứng dụng
của Đạo hàm trong chương trình trung học phổ thông.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

CHƯƠNG 1

CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Phương pháp dạy học tích cực là gì?
1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học
Trong những năm qua cùng với xu hướng chung của thế giới về giáo
dục và đạo tạo là : “ Các phương pháp dạy học phải đặt ở trung tâm người
học”. Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách xác đáng thông qua các
Văn kiện, Nghị quyết, cụ thể : Nghị quyết trung ương 4 khóa VII (1- 1993),
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII(12-1996), được thể chế hóa trong Luật
5


Giáo dục (12-1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và
Đạo tạo đặc biệt là chỉ thị số 15 (4- 1999). Để đổi mới phương pháp dạy học
được thành công thì phải đổi mới đồng bộ. Đây là vấn đề rất lớn và phức tạp,
xong trước mắt các nhà trường các địa phương đã và đang quan tâm thực hiện
đổi mới những vấn đề liên quan trực tiếp tới việc dạy và học của thầy và trò.
Đổi mới phương pháp dạy học gắn liền với việc phát huy tính tích cực
của học sinh, yếu tố quyết định chất lượng dạy học. Luật Giáo dục điều 24.2
đã ghi :“ Phương pháp giáo dục học sinh phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tâp cho học sinh”. Có thể nói cốt lõi của của đổi mới dạy và học là
hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Từ năm học 1999-2000 và các năm học tiếp theo, các trường khoa sư
phạm đã đạt được những kết quả nhất định trong việc thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học. Tuy vậy phải thừa nhận việc thực hiện cũng bộc lộ
những hạn chế, như chưa thực sự tích cực hóa hoạt động học tập, phát huy
tính chủ động và nhất là sự sáng tạo của học sinh, sinh viên. Các nhà khoa

học nhất là các nhà sư phạm từ lâu đã tâm đắc và tâm niệm một lời cảnh báo
mạnh mẽ của viện sĩ Kapitxa cho rằng vấn đề thông minh sáng tạo của tuổi trẻ
không kém phần quan trọng so với vấn đề vũ khí hạt nhân và chiến tranh hòa
bình. Mikhancop, Viện sĩ liên xô trước đây cũng đã nhắc nhở nhà trường rằng
: “ Điều quan trọng không phải là dạy cái gì mà là dạy như thế nào. Diện mạo
tinh thần của một đất nước ra sao tùy thuộc vào việc nhà trường giảng dạy
như thế nào”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ những năm 60 của thế kỷ 20 đã
nhiều lần căn dặn thầy giáo phải : “ Gõ vào trí thông minh”, của học sinh, là
cần “ ... đào tạo học sinh thành những thế hệ thông minh sáng tạo”. Phương
pháp dạy học tích cực phát triển từ rất lâu, tuy nhiên trước yêu cầu đổi mới
giáo dục nhằm đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người phát triển, năng
6


động và sáng tạo thì các phương pháp này ngày càng được các cấp quản lý
giáo dục đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên việc đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay chủ yếu chống kiểu: “ thầy giảng, trò ghi”. Làm như thế là rất cứng
nhắc, hiệu quả dạy học bị hạn chế, bới chúng ta biết không phải trong từng
bài giảng người dạy phải luôn theo phương pháp gợi mở trao đổi hai chiều với
người học, dẫn dắt họ để cho họ tham gia phát hiện, tìm ra kiến thức mới. Vì
chương trình của chúng ta vốn dĩ eo hẹp về thời gian, hay việc quá lạm dụng
phương tiện dạy học hiện đại như Over head, powerpoint, ... Vấn đề quan
trọng “ Không phải là đưa chân lý đến cho học sinh mà là làm thế nào để lúc
nào học sinh cũng có thể biết đến cách tìm đến chân lý”.( J.J.Rousseau). Vì
vậy việc học “độc thoại hay gợi mở, quy nạp hay suy diễn thì tùy vấn đề và
đối tượng” (Hoàng Tụy) mà thực hiện.
Như vậy việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ
thông thực chất là: Về phía Giáo viên phải định hướng được rằng: người thầy
không còn là người truyền đạt kiến thức một chiều nữa mà trở thành người tổ
chức, hướng dẫn học sinh thu nhận kiến thức một cách chủ động, tích cực, hỗ

trợ học sinh giải đáp những thắc mắc khi cần thiết. Phải làm sao phát huy
được tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh, giúp học sinh có kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn một cách linh hoạt, tác động đến tình cảm
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh từ đó bồi dưỡng phương
pháp tự học cho học cho học sinh.
Cũng vì những điều trên chúng ta thấy rằng quan điểm về phương pháp
dạy học tích cực hay nhiều tài liệu còn gọi là phương pháp dạy học hiện đại
không phải là một phương pháp dạy học cụ thể mà là khái niệm rộng bao hàm
nhiều phương pháp, hình thức tổ chức, kĩ thuật khác nhau.
1.1.2. Vì sao phải dạy học tích cực?
Ngay từ những năm 60, vấn đề phát huy năng lực học tập của học sinh
đã được đặt ra đối với Giáo dục Việt Nam. Trong thời điểm này các trường sư
phạm đã nâng cao khẩu hiệu: “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào
7


tạo”. Ở cuộc cải cách giáo dục lần hai năm 1980, phát huy năng lực học tập
đã là một trong các phương hướng cải cách nhằm đào tạo những người lao
động sáng tạo, làm chủ đất nước. Từ đó, trong nhà trường xuất hiện những
giờ học đạt kết quả cao theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động, tự lực
chiếm hữu lấy những tri thức mới. Tuy vậy, phương thức lên lớp ở trường học
và phương thức đào tạo Giáo viên ở các trường sư phạm phổ biến vẫn là cách
dạy thông báo tri thức “đọc – chép” hay còn gọi là phương pháp truyền thụ
một chiều. Phương pháp dạy học truyền thống này dẫn đến hậu quả là người
học bị thụ động, mất đi tính chủ động, tư duy sáng tạo trong quá trình học tập,
thiếu thực hành thực tế,...
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự thách thức của
quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải có nguồn nhân lực, người lao
động có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng với nhu cầu của xã hội trong thời
kỳ mới.

Để có được nguồn nhân lực nói trên, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới
Giáo dục, trong đó có đổi mới nội dung Giáo dục, đổi mới mục tiêu Giáo dục,
đổi mới phương pháp dạy và học theo định hướng Giáo dục đã nêu trên.
1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực
Cho đến nay, ở nước ta vẫn còn có những ý kiến khác nhau về phương
pháp dạy – học và cũng không phải đã hết ý kiến về việc có nên áp dụng
phương pháp dạy- học tích cực hay không? Khái quát lại có ba loại ý kiến như
sau:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, trong điều kiện hiện nay, do hạn chế về thời
gian, hạn chế về nhận thức(Thầy giỏi về chuyên môn sẽ dạy giỏi; cái mà thầy
dạy chỉ là nội dung; mục tiêu học tập chủ yếu là kiến thức); hạn chế về điều
kiện cơ sở vật chất- kỹ thuật và chưa có cơ chế chính sách tạo động lực... nên
thuyết giảng vẫn là phương pháp của các phương pháp. Thuyết giảng- phương
pháp thầy truyền thụ, giảng giải để trò nghe rõ, ghi đầy đủ, khi thi có tư liệu
trả bài theo thầy, vẫn là phương pháp cơ bản nhất.
8


- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, chỉ nên áp dụng phương pháp dạy học mới
trong điều kiện cho phép, chưa phải lúc tiến hành cuộc cách mạng về phương
pháp. Do quá quen với phương pháp truyền thống, nên không dễ gì thay đổi
được. Bởi vậy chỉ cần cải tiến chính phương pháp thuyết giảng là đủ.
- Loại ý kiến thứ ba cho rằng, trong thời đại công nghệ thông tin, toàn cầu
hoá, lượng tri thức mà nhân loại sáng tạo ra mỗi ngày một tăng theo cấp số
nhân và càng chuyên sâu, nếu không có phương pháp tư duy mới sẽ không có
khả năng tiếp nhận chưa nói gì sáng tạo ra tri thức mới. Hơn nữa kỹ thuật trợ
giảng ngày càng hiện đại, người thầy, nói đúng hơn sự nghiệp Giáo dục và
Đào tạo không thể đứng ngoài với xu thế chung. Để thích ứng với yêu cầu của
thời đại (thực ra từ thời cổ đại đã có), đòi hỏi cần phải đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của cả thầy và

trò- phương pháp dạy học tích cực.
Vậy, phương pháp dạy học tích cực là gì, thực chất của phương pháp
này là thế nào? Làm thế nào để áp dụng hiệu quả phương pháp dạy- học tích
cực, nhất là áp dụng vào dạy- học các môn khoa học Mác- Lênin?
Khi nói về phương pháp dạy - học, người ta thường sử dụng những
thuật ngữ khác nhau: Phương pháp dạy- học mới; phương pháp dạy- học lấy
người học làm trung tâm; phương pháp dạy học hiện đại; phương pháp dạyhọc tích cực...Mặc dù sắc thái của các thuật ngữ có khác nhau, theo chúng tôi,
tất cả đều có chung một bản chất. Khi nói phương pháp dạy học mới, người ta
thường muốn nhấn mạnh tới phương pháp dạy học khác với phương pháp
truyền thống; khi nói phương pháp dạy- học hiện đại, người ta vừa muốn nhấn
mạnh phương pháp dạy- học mới vừa muốn nhấn mạnh việc sử dụng các
phương tiện hiện đại...Theo chúng tôi, nên sử dụng thuật ngữ dạy học tích cực
là phù hợp hơn cả, vừa nêu được thực chất vấn đề, thể hiện cả vai trò của chủ
thể, vai trò của phương tiện vừa dung dị, tránh khuếch trương, hiểu sai thực
chất.
Có thể quan niệm, phương pháp dạy- học tích cực là:
9


- Là sự khơi dậy, phát huy tính chủ động, tích cực của cả thầy và trò nhằm
trau dồi tư duy sáng tạo và rèn trí thông minh trong quá trình chinh phục chân
lý.
- Là sự dạy và học mà trong đó thầy là người tổ chức, định hướng, tạo điều
kiện ; trò là người thực hiện và thi công.
- Là sự dạy và học nhằm đạt được cả ba mục tiêu: Kiến thức, kỹ năng và
thái độ, trên cơ sở đánh giá, kiểm tra cả quá trình học tập và của từng môn
học.
- Là sự dạy và học mà trong đó có sử dụng hiệu quả những phương tiện kỹ
thuật hiện đại.
Một cách thật khái quát, có thể xem, phương pháp dạy học tích cực là

phương pháp khơi dạy, phát huy tính chủ động, sáng tạo và tích cực của cả
người dạy và người học, trong đó lấy người học làm trung tâm trên cơ sở
phát huy vai trò định hướng, tổ chức của người thầy, vai trò thực hiện,thi
công của trò và sức mạnh của các phương tiện kỹ thuật hiện đại nhằm chinh
phục chân lý trên cả ba phương diện: kiến thức, kỹ năng, thái độ.
1.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
1.2.1. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh
Trong phương pháp tích cực, người học, đối tượng của hoạt động dạy,
đồng thời là chủ thể của hoạt động học, được cuốn hút vào các hoạt động học
tập do Giáo viên tổ chức và chỉ đạo. Thông qua đó, tự lực khám phá những
điều mình chưa biết chứ không phải là thụ động tiếp thu những trí thức đã
được Giáo viên sắp đặt ra theo cách suy nghĩ của mình. Từ đó, vừa nắm được
kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp tìm ra kiến thức, kĩ năng
đó, không rập theo khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy tiềm năng
sáng tạo.
Dạy theo cách này thì Giáo viên không chỉ đơn giản là truyền đạt tri
thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình hành động của cộng đồng.

10


1.2.2. Dạy học chú trọng bồi dưỡng, phát triển năng lực tự học cho học
sinh
Chúng ta đều biết rằng xã hội không ngừng biến đổi và ngày càng phát
triển. Cuộc sống luôn đòi hỏi con người phải mở rộng sự hiểu biết. Không có
một trường học nào có thể cung cấp cho con người ta tất cả tri thức để có thể
làm việc suốt đời. Để thực hiện một hoạt động đạt hiệu quả, không phải lúc
nào cũng chỉ có tái hiện tri thức có sẵn, sử dụng những kỹ năng sẵn có, mà
còn cần những tri thức mới, kĩ năng mới, nên cần phải biết tự học. Qúa trình
sống và quá trình hoạt động của con người là quá trình con người dần dần

bước lên những bậc thang mới của sự hiểu biết. Bước đi này dễ hay khó, cao
hay thấp phụ thuộc vào khả năng tự học của mỗi người. Khả năng này có thể
và cần được rèn luyện ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông.
Muốn vậy, quá trình dạy học phải bao hàm cả dạy tự học, phải biến quá trình
dạy học thành quá trình tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu học. Trong phương pháp học thì cốt nõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học
thì sẽ tạo cho họ có được lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có của mỗi
người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay, người ta
nhấn mạnh hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển
biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học
ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ngay trong trường phổ thông,
không phải tự học ở nhà mà cả tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của
Giáo viên.
1.2.3. Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác
Nếu trình độ kiến thức tư duy học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì
khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường
độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế
11


thành một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng phương pháp ở trình độ càng cao
thì sự phân hóa càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin
trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa học tập theo nhu cầu và khả
năng của mỗi học sinh.
Tuy nhiên trong học tập, không phải mọi tri thức kĩ năng, thái độ được
hình thành bằng những hoạt động độc lập cá thể. Lớp học là môi trường giao
tiếp thầy trò, trò với trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên

con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong
học tập, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định, hay bác bỏ.Qua đó
người học nâng mình lên một trình độ mới, bài học vận dụng được vốn hiểu
biết và kinh nghiệm của mỗi học sinh và của cả lớp chứ không phải chỉ dựa
trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của thầy giáo.
1.2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều
kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trước đây,
mọi người vẫn thường hay có quan niệm Giáo viên có độc quyền đánh giá học
sinh .Nhưng trong phương pháp tích cực, Giáo viên phải hướng dẫn học sinh
tự đánh giá để điều chỉnh cách học. Liên quan đến điều này, Giáo viên cần tạo
thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và
điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc
sống mà mỗi thầy cô cũng như nhà trường phải trang bị cho học sinh. Với
phương pháp này, Giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các
hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học
tập, chủ động đạt mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của
chương trình. Ở trên lớp, với phương pháp tích cực này thì học sinh hoạt động
là chính. Song khi soạn giáo án Giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian
rất nhiều so với kiểu dạy học thụ động, mới có thể thực hiện bài lên lớp với

12


vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt
động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh.
1.3. Một số phương pháp dạy học tích cực cần thiết ở trường THPT
1.3.1. Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề
Như chúng ta đã biết triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng: mâu

thuẫn là động lực thúc đẩy quá trình phát triển. Một vấn đề gợi ra cho học
sinh chính là một mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ nhận thức với tri thức và
kinh nghiệm có sẵn.
Theo các nhà tâm lý học, con người chỉ bắt đầu tư duy tích cực khi này
sinh nhu cầu tư duy, tức là khi đứng trước một khó khăn về mặt nhận thức cần
khắc phục, một tình huống gợi vấn đề: “ Tư duy sáng tạo luôn luôn bắt đầu
bằng một tình huống gợi vấn đề” ( Rubinstein).
Theo giáo dục học thì dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề phù hợp
với nguyên tắc tính tự giác và tích cực, vì nó khêu gợi được hoạt động học tập
mà chủ thể được hướng đích, gợi động cơ trong quá trình phát hiện và giải
quyết vấn đề. Hơn nữa, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề cũng biểu hiện
sự thống nhất giữa kiến tạo tri thức, phát triển năng lực trí tuệ và bồi dưỡng
phẩm chất. Những tri thức mới đối với học sinh được kiến tạo nhờ quá trình
phát hiện và giải quyết vấn đề. Tác dụng phát triển năng lực trí tuệ kiểu dạy
học này là ở chỗ học sinh được học cách khám phá, tức là rèn luyện cho họ
cách thức phát hiện, tiếp cận và giải quyết vấn đề một cách khoa học. Đồng
thời phương pháp này cũng bồi dưỡng cho người học những đức tính cần thiết
của người lao động sáng tạo như tính chủ động, tích cực, tính kiên trì vượt
khó, tính kế hoạch và thói quen tự kiểm tra.
Do vậy dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là một trong những
phương pháp được áp dụng nhiều trong dạy toán ở trung học phổ thông. Nó là
một trong những phương pháp làm giảm lối học thụ động và sách vở của học
sinh, khuyến khích học sinh tham gia xây dựng kiến thức bài học mới, tăng

13


cường tính động sáng tạo trọng học tập. Vậy thế nào là phương pháp dạy học
phát hiện và giải quyết vấn đề ?
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đê là kiểu dạy học mà người thầy

tổ chức cho trò học tập trong hoạt động và bằng hoạt động do thầy tạo ra
những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện ra vấn đề, nhưng
vấn đề này có liên hệ với nhứng tri thức đã biết, khiến cho học sinh thấy triển
vọng tự giải đáp được nếu tích cực suy nghĩ. Thông qua đó mà kiến tạo tri
thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục tiêu học tập khác. Nếu theo
cách hiểu như trên thì ta cần làm rõ hai ý: vấn đề là gì ? và tình huống gợi vấn
đề là gì ?
Ở đây chúng ta chỉ cần bàn đến vấn đề trong dạy học toán. “ Vấn đề”
trong dạy học toán là những câu hỏi, bài tập, các yêu cầu hành động, các bài
toán thực tế do GV biên soạn nhằm đạt mục tiêu giảng dạy đề ra. Các câu hỏi,
bài tập đó học sinh phải chưa thực hiện được vì chưa có quy tắc và phương
pháp mang tính thuật toán để giải quyết.
Tình huống gợi vấn đề làm một tình huống gợi ra cho học sinh những
khó khăn về mặt lí luận hay thực tế mà học thấy cần thiết và có khả năng vượt
qua, nhưng không phải ngay tức khắc mà nhờ một thuật giải mà phải trải qua
một quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoặc điều
chỉnh kiến thức sẵn có. Như vậy một tình huống gợi vấn đề phải thỏa mãn các
điều kiện sau:
- Tồn tại một vấn đề, tức tình huống bộc lộ mâu thuẫn giữa thực tế với trình
độ nhận thức, chủ thể phải ý thức được một khó khăn trong tư duy hoặc hành
động mà vốn hiểu biết sẵn có chưa đủ để vượt qua.
- Gợi nhu cầu nhận thức, tức tình huống đó phải bộc lộ được những khiếm
khuyết về kiến thức và kĩ năng của học sinh để họ càm thấy cần thiết phải bổ
sung, hoàn thiện tri thức.
- Khơi gợi niềm tin ở khả năng bản thân. Một tình huống tuy có vấn đề và
nhu cầu nhận thức ở học sinh nhưng nếu họ cảm thấy vấn đề quá khó không
14


thể vượt qua với khả năng của họ thì họ cũng không sẵn sàng tham gia giải

quyết vấn đề. Vậy tình huống cần phải khơi dậy ở học cảm nghĩ, niềm tin
rằng chưa đưa ra được lời giải nhưng nếu cố gắng suy nghĩ và bằng kiến thức
sẵn có của bản thân thì họ se giải quyết được vấn đề.
Như vậy GV muốn đạt được mục tiêu giảng dạy theo phương pháp dạy
học phát hiện và giải quyết vấn đề thì điều quan trọng là phải tạo ra được tình
huống gợi vấn đề. Muốn làm được điều này cần phải bám trắc vào nội dung
mục tiêu của bài dạy với những yêu cầu sau đây:
- Tính đến yếu tố thời gian, môi trường và các phương tiện.
- Tình huống đưa ra phải đảm bảo chính xác về mặt khoa học, trong sáng.
- Nội dung, khối lượng kiến thức đưa ra phải phù hợp với mục tiêu dạy học,
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
Từ đó xin đưa ra một cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học)
theo phương pháp nêu và giải quyết vấn đề thường như sau:
- Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức
 Tạo tình huống có vấn đề;
 Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;
 Phát hiện vấn đề cần giải quyết.
- Giải quyết vấn đề đặt ra
 Đề xuất cách giải quyết;
 Lập kế hoạch giải quyết;
 Thực hiện kế hoạch giải quyết.
- Kết luận:
 Thảo luận kết quả và đánh giá;
 Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;
 Phát biểu kết luận;
 Đề xuất vấn đề mới.
Có thể phân biệt bốn mức trình độ nêu và giải quyết vấn đề:

15



Mức 1: Giáo viên nêu vấn đề và cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện
cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của Giáo viên. Giáo viên đánh giá kết
quả làm việc của học sinh.
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề.
Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của Giáo viên khi
cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát
hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải
pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng
đánh giá.
Mức 4 : Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình
hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự
đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
Trong dạy học theo phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, học sinh
vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó,
phát triển tư duy tích cực, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với
đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
1.3.2. Phương pháp dạy học tự học
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sự
bùng nổ thông tin của xã hội hiện đại thì việc dạy phương pháp tự học là thực
sự cần thiết, mỗi người cần phải biết tự học suốt đời, biết rèn luyện khả năng
tìm tòi, khám phá và sáng tạo tri thức mới không ngừng. Chính vì thế, việc
dạy học cho học sinh cách tự học ngay khi các em còn đang ngồi trên ghế nhà
trường phổ thông là vấn đề quan trọng trong Giáo dục thời đại hiện nay; bởi
tự học là một hoạt động có ý thức luôn luôn tự nạp năng lượng trí tuệ cho bản
thân. Theo Bùi Văn NGhị [13,tr.17-20]: Rèn luyện phương pháp học tập cho
học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một
mục tiêu dạy học.


16


Như đã nói ở trên, trong tất cả các phương pháp học thì phương pháp tự
học là quan trọng nhất. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên
cứu khoa học. Một yếu tố quan trọng đảm bảo thành công trong học tập và
nghiên cứu khoa học là khả năng phát hiện kịp thời và giải quyết những vấn
đề nảy sinh trong thực tiễn. Nếu rèn luyện cho học sinh có được phương pháp,
kỹ năng, thói quen tự học, biết vận dụng linh hoạt những cái đã biết vào các
tình huống mới nảy sinh, biết tự ra vấn đề và giải quyết những vấn đề gặp
phải thì sẽ tạo ra lòng ham học hỏi, từ đó giúp các em thích ứng với nhu cầu
đặt ra của xã hội.
Ta biết rằng nhà trường phổ thông không thể cung cấp cho con người
một vốn liếng tri thức suốt cả cuộc đời, tuy nhiên ở đó có thể cung cấp một
nhân lõi các tri thức cơ bản. Trường phổ thông là nơi tạo hứng thú, phát triển
nhận thức và cung cấp cho học sinh những kỹ năng cần thiết cho việc tự học.
Theo các nhà tâm lý học: con người chỉ tư duy tích cực khi có nhu cầu,
hoạt động nhận thức chỉ có kết quả cao khi chủ thể ham thích, tự giác và tích
cực; sẽ đem lại hiệu quả cao hơn nếu quá trình đào tạo trở thành quá trình tự
đào tạo, quá trình giáo dục trở thành quá trình tự giáo dục. Thực tế cho thấy
nếu học sinh chỉ học một cách thụ động, nhồi nhét kiến thức thì sẽ dẫn tới
không suy nghĩ sâu sắc và dẫn tới hậu quả là tri thức nhanh bị lãng quên.
Quá trình tự học là quá trình xuất phát từ nhu cầu nhận thức, chủ thể
dựa vào các phương tiện nhận thức, tự nhận thức, tiếp thu được tri thức. Một
thức tế mà ai cũng nhận thấy đó là sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ
thông tin, đã thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực và mọi người đều nhận ra là
cần phải học tin học, từ đó nảy sinh nhu cầu tự học tin học.
Trong lĩnh vực Toán học, việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh
phổ thông lại là một vấn đề có tính then chốt; bởi vì, tư duy toán học ngoài
tính chính xác, nó còn có khả năng thúc đẩy trí tưởng tượng và đầu óc lãng

mạng không kém gì văn chương nghệ thuật, đồng thời còn là công cụ để học
tốt các môn học khác. Nói về tầm quan trọng của toán học với việc phát triển
17


tư duy và cuộc sống của con người, hơn 2500 trước, Pitago- nhà Triết học
kiêm Toán học cổ đại Hy Lạp đã dự báo: “ các con số sẽ điều khiển thế giới”.
Vì vậy việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh phổ thông không chỉ có ý
nghĩa trước mắt mà còn có tính quyết định về việc cải tạo chất lượng tư duy
cho thế hệ trẻ nước nhà hôm nay và mai sau.
Thời gian học sinh học tập ở trường là khá ít, chủ yếu là các em phải tự
học tập ở nhà, ở ngoài xã hội. Các em phải tự ôn tập lại kiến thức ở mức độ
sâu hơn, phải tự đọc sách tham khảo để bổ sung kiến thức. Do đó việc Giáo
viên phải hướng dẫn cho các em việc tự học là thực sự cần thiết. Để rèn luyện
phương pháp tự học cho học sinh thì cần phải có những hoạt động sau:
- Xác định rõ mục tiêu: Đọc một nội dung nào đó để nắm được những vấn đề
gì? Trả lời được những câu hỏi như thế nào?
- Hoạt động làm mẫu: Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách đọc, cách
suy luận, cách ghi chép một vấn đề nào đó trên lớp cho học sinh theo dõi.
- Rèn các kỹ năng: Tổng kết bài toán, đào sâu suy nghĩ, ghi chép vấn đề quan
trọng sau khi đọc...
1.3.3. Phương pháp dạy học hợp tác nhóm
Từ xa xưa trong dân gian ta đã có câu “ học thầy không tày học bạn”,
nói lên vai trò của việc học hợp tác. Không có ai học một cách hoàn toàn đơn
độc, mà phải học trong sự giao lưu, tương tác giữa kiến thức và những mối
quan hệ xã hội.
Tại Mĩ, trong ba thập niên cuối thế kỉ XIX, Francis Parker đã nhấn
mạnh rằng trẻ em có bản chất là những người hợp tác. Ông tin rằng niềm vui
lớn nhất, sau đó mới đến sự phát hiện ra “ chân lý”, cùng nhau chia sẻ sự thật
với các bạn trong lớp và cái thúc đẩy mạnh mẽ việc học tập cũng như các

dạng hoạt động khác là tinh thần giúp đỡ lẫn nhau. Quan điểm của ông đã giữ
vị trí nổi trội trọng Giáo dục Mĩ cho đến hết thế kỉ XIX. Kế tục Parker, John
Dewey- nhà giáo dục thực dụng Mĩ, luôn nhấn mạnh vai trò của Giáo dục
như là một phương tiện dạy học cho con người cách sống hợp tác trong một
18


chế độ dân chủ và ông được coi là người đầu tiên khởi sướng quan điểm hợp
tác. Sau đó có rất nhiều nhà Giáo dục đã có những công trình nghiên cứu về
học hợp tác. Trong đó có nhà nghiên cứu nổi tiếng William Glasser đã tuyên
bố rằng mục tiêu chính của nhà trường là giáo dục học sinh trở thành những
người biết hợp tác với người khác.
Theo quan điểm hợp tác thì không phải mọi tri thức, kĩ năng thái độ
đều được hình thành bằng những hoạt động thuần túy cá nhân. Lớp học là môi
trường giao tiếp giữa thầy và trò, trò và trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa
các cá nhân trên con đường đi tới những tri thức mới. Trong kiểu dạy học
thông báo đồng loạt, thông tin đi từ thầy đến trò, quan hệ giao tiếp chủ yếu là
thầy và trò. Trong kiểu dạy học hợp tác vẫn có giao tiếp thầy và trò, nhưng
nổi lên mối quan hệ giao tiếp giữa trò và trò. Thông qua sự hợp tác tìm tòi,
nghiên cứu, thảo luận, tranh luận tập thể, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ,
được điều chỉnh, khẳng định hay bác bỏ, các thành viên trong nhóm chia sẻ
suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết bản thân, cùng nhau xây dựng
nhận thức, thái độ mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có
thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học
hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không
phải là sự tiếp nhận thụ động. Theo cách này các em dễ hiểu, dễ nhớ hơn vì
được tham gia trao đổi, trình bày vấn đề nêu ra, cảm thấy hào hứng khi trong
sự thành công chung của tập thể có phần đóng góp của mình; các em còn học
được ở bạn tri thức, kí năng và còn được rèn luyện phong cách sống hoà nhập.
Vậy phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm là gì?

Việc vận dụng quan điểm dạy học hợp tác này vào trong dạy học được
gọi là phương pháp dạy học hợp tác. Ở đây tôi đề cập đến phương pháp dạy
học hợp tác theo nhóm trên cơ sở quan điểm trên. Có thể định nghĩa như sau:
''Dạy học hợp tác theo nhóm là phương pháp dạy học trong đó Giáo viên sắp
xếp học sinh thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp

19


×