Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.29 KB, 24 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 HỌC TỐT THỂ LOẠI VĂN
MIÊU TẢ
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về Tiếng Việt và
những hiểu biết cơ bản về xã hội, tự nhiên, con người, văn hóa, văn học Việt Nam và
nước ngoài. Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe,
nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi,
thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Học
Tiếng Việt, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối thiểu cần thiết giúp
các em hoà nhập với cộng đồng cùng với sự phát triển của xã hội.
Tập làm văn là một phân môn thuộc môn Tiếng Việt, là môn học chính trong
chương trình lớp 4, bản thân tôi đang là giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, đón
nhận chương trình thay đổi kĩ năng sống vào phân môn Tập làm văn, môn Đạo đức
nên bản thân cần phải nỗ lực phấn đấu đảm nhiệm chức trách của mình đối với học
sinh. Cùng với môn Toán và một số môn khác, những kiến thức của môn Tiếng Việt
sẽ là những hành trang trên bước đường đưa các em đi khám phá, tìm hiểu, nghiên
cứu thế giới xung quanh và kho tàng tri thức vô tận của loài người. Trong đó phân
môn Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp của tất cả các phân môn thuộc
môn Tiếng Việt (Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện). Chính vì thế, việc
dạy và học Tập làm văn là vấn đề luôn cần có sự đổi mới. Không thể cứ áp dụng mãi
phương pháp học hôm qua vào hôm nay và mai sau.
Đổi mới việc dạy cũng thế, trong việc thừa kế cái cũ, cái vốn có đòi hỏi phải là
một sự sáng tạo. Với các phân môn khác của Tiếng Việt trong việc đổi mới nội dung
và phương pháp dạy học chỉ rõ quy trình các bước lên lớp rất cụ thể rõ ràng. Còn với
phân môn Tập làm văn, các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra quy trình chung nhất cho mỗi
loại bài, chủ yếu vẫn là sự sáng tạo của giáo viên khi lên lớp. Còn việc học thì sao?
Ngoài sách giáo khoa Tiếng Việt thì hiện nay có rất nhiều loại sách tham khảo cho học
1



sinh, giúp cho học sinh có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Song những cuốn sách
tham khảo của phân môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn mẫu hoàn chỉnh
nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi còn sao chép y
nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ của các em không
phong phú mà còn đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. Từ những lý do khách quan và
chủ quan trên để khắc phục những hạn chế trong việc dạy Tập làm văn ở Tiểu học,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài
“Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt thể loại văn miêu tả” với hi vọng góp
phần nâng cao trình độ của bản thân, nâng cao chất lượng dạy - học văn miêu tả ở lớp
4. Qua đây, tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của đồng nghiệp để đề tài
thực sự có giá trị trong dạy - học Tập làm văn lớp 4.
2. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Thông qua việc nghiên cứu lí luận và thực tiễn nhằm đưa ra một số giải pháp
giúp học sinh lớp 4A2 trường Tiểu học EaWy học tốt phân môn Tập làm văn - thể loại
văn miêu tả.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Học sinh lớp 4a2 nói riêng và học sinh khối 4 Trường Tiểu học EaWy nói chung.
4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu việc dạy và học môn Tập làm văn thuộc: thể loại văn miêu tả.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
- Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế Tiếng Việt 4.
- Tài liệu tham khảo nắm được nội dung, chương trình sách giáo khoa.
- Phương pháp dạy môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng.
b) Phương pháp điều tra:
2


Điều tra thực trạng dạy và học Tập làm văn – thể loại văn miêu tả của học sinh từ
đầu năm, từ đó phân loại học sinh để có biện pháp dạy phù hợp với từng đối tượng.

Lấy ý kiến của giáo viên bộ môn, các giáo viên khác và học sinh để thu thập thông tin
nghiên cứu.
c) Phương pháp đàm thoại:
Trực tiếp trò chuyện với giáo viên có kinh nghiệm, các nhà quản lý xin ý kiến, trao
đổi về những vấn đề có liên quan đến đề tài. Trò chuyện với phụ huynh, học sinh, đặc
biệt là những học sinh chưa có kĩ năng viết văn miêu tả để giúp đỡ các em tiến bộ.
d) Phương pháp quan sát:
Dự giờ và quan sát giờ dạy của giáo viên. Quan sát ý thức, thái độ học tập và khả
năng viết văn của học sinh.
e) Phương pháp nghiên cứu sản phẩm:
Tôi nghiên cứu các sản phẩm, các bài làm của học sinh như vở Tập làm văn, vở
Chính tả, vở Luyện từ và câu…
Ngoài ra, tôi còn tiến hành khảo sát chất lượng học sinh; Đúc rút kinh nghiệm
qua quá trình nghiên cứu.
f) Phương pháp thực nghiệm, kiểm chứng:
Kiểm nghiệm tính khoa học, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.

II. PHẦN NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về
đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực tiếp
của mình. Văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính
sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ
thuật, là ngôn ngữ giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ.
3


Kết cấu bài văn miêu tả cũng tuân thủ kết cấu 3 phần:
+ Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người
miêu tả với đối tượng miêu tả.

+ Thân bài: Tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc
nhìn nhất định.
+ Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của
người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Như vậy, bài văn là một văn bản gồm ngôn từ, nội dung chứa trong ngôn từ
chính là văn. Văn và ngữ luôn sóng đôi với nhau: văn cần đến ngữ để biểu hiện, ngữ
cần đến văn để nói lên ý nghĩa. Văn là nghệ thuật của ngôn từ, văn là cái đẹp, có
người lại nói văn học là nhân học, văn học là tình cảm, đạo đức lý tưởng, là tình yêu
cuộc sống, yêu thiên nhiên và con người. Văn có được nhờ cảm xúc của tâm hồn, nó
làm cho tâm hồn con người thêm phong phú và sâu sắc.
Chương trình Tập làm văn lớp 4 gồm 68 tiết, trong đó văn miêu tả chiếm 38 tiết
gồm các mảng kiến thức sau:
- Thế nào là miêu tả?
- Quan sát để miêu tả cho sinh động.
- Trình tự miêu tả (Người, cảnh, đồ vật, con vật, cây cối ).
- Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả (Người, cảnh, đồ vật, con vật, cây cối)
Các kiến thức trên được cụ thể hóa thành hai loại bài. Đó là: loại bài hình thành
kiến thức và loại bài luyện tập thực hành.
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ

Chương trình phân môn tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài miêu tả, nhìn
chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài làm của các em
4


còn viết theo một lối mòn khuôn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và nghèo hình ảnh, đặc
biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa…
Tóm lại: Học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn Luyện từ và câu
nhưng khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi trên, kết hợp với việc
chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật, vốn từ lại nghèo nàn nên bài văn miêu tả

của các em còn khô khan, lủng củng, nghèo cảm xúc. Bài văn trở thành một bảng liệt
kê các chi tiết của đối tượng miêu tả.
Về học sinh: - Học sinh chưa có khả năng quan sát, chưa xác định rõ đối
tượng quan sát là gì? Là thế nào? Hay cách thức miêu tả, diễn đạt ra làm sao?
- Vốn từ của học sinh: Các em đọc sách tham khảo còn hạn chế dẫn đến vốn từ
nghèo nàn.
- Còn lúng túng trong cách viết câu văn, chủ yếu các em thường bắt chước.
- Đa số còn có thói quen hình thành bài văn theo cách trả lời câu hỏi.
- Chưa biết sắp xếp ý văn, thiếu hình ảnh so sánh, nhân hóa. Trình bày bố cục bài
văn còn lộn xộn, chưa đầy đủ.
Về giáo viên: - Chưa rèn được cho học sinh kĩ năng quan sát và diễn đạt lại bằng
ngôn ngữ mà những gì mà các em quan sát được.
- Chưa tạo điều kiện cho các em tiếp cận nhiều loại sách tham khảo, văn mẫu.
- Chưa phân loại được đối tượng, từ đó chưa xây dựng được phương pháp dạy học
cho từng đối tượng đó theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học.
Từ những nguyên nhân nói trên bản thân tôi thấy cần thiết phải có những biện
pháp sáng tạo trong dạy văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng viết văn cho
các em.
Qua bài khảo sát năng lực viết văn miêu tả của học sinh lớp 4A2, thời điểm đầu
học kì năm học 2017-2018 về chất lượng viết văn của các em như sau:
5


Lớp

4a2

Số HS

28


Bài văn có đủ cấu trúc, đủ nội dung, có ý hay.

4

Bài văn có đủ cấu trúc, đủ nội dung, chưa có ý sáng tạo.

10

Bài văn có đủ cấu trúc, nội dung còn sơ sài, lộn xộn.

12

Bài văn chưa đúng cấu trúc, nội dung còn thiếu.

2

DƯỚI ĐÂY LÀ BÀI VĂN CỦA HỌC SINH

III. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA GIẢI PHÁP:
1. Mục tiêu của giải pháp:
6


Nắm bắt tình hình thực tế về việc tiếp thu vận dụng vào viết văn của học sinh
để tìm hiểu những khó khăn, hạn chế mà các em đang gặp phải. Từ đó bản thân đã
xây dựng một số giải pháp để giúp các em xác định được đề bài, nắm rõ cấu trúc, đủ
nội dung của một bài văn miêu tả và nâng cao chất lượng viết văn của các em.
2. Các giải pháp đã áp dụng:
Giải pháp 1. Phân loại đối tượng - xác định phương pháp dạy học:

Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám phá,
tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em quan sát, cách
tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát sự
vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các em có cách
cảm, cách nghĩ sâu sắc khi miêu tả. Ở tuổi học sinh Tiểu học từ hình thức đến tâm
hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một quá trình. Do đó những tri thức để các em
tiếp thu được phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Trí tưởng tượng càng
phong phú bao nhiêu thì việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu. Vậy để học
sinh biết khám phá đối tượng một cách chính xác thì bản thân tôi cần: Yêu cầu và
hướng dẫn các em tìm hiểu yêu cầu của đề bài thông qua hệ thống câu hỏi: Đề bài
thuộc loại gì? Kiểu bài gì? Đối tượng miêu tả? cách miêu tả? Khi quan sát ta cần
những giác quan nào? Trong quá trình phân tích đề tôi gạch chân những từ ngữ quan
trọng.
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài phải giàu
cảm xúc, tạo nên cái "hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy bản thân phải luôn luôn
nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ xúc
động và luôn hướng tới cái thiện.
Giải pháp 2. Cung cấp vốn từ, cách dùng từ đặt câu, sử dụng các biện pháp:
- Bản thân tôi cung cấp vốn từ cho học sinh thông qua tiết đọc thư viện hàng
tuần theo chủ đề chủ điểm ở sách giáo khoa, tức là học chủ điểm nào thì hướng dẫn
các em tìm đọc những câu chuyện theo chủ điểm đó. Trong quá trình học sinh đọc thì
7


tôi thường xuyên di chuyển để kiểm tra xem các em đọc có đúng với nội dung yêu cầu
hay không? Sau khi học sinh đọc xong tôi yêu cầu học sinh chia sẻ nội dung câu
chuyện hay bài văn miêu tả thông qua một số câu hỏi:
Em có thích câu chuyện em vừa đọc không? Tại sao?
Trong câu chuyện này em thích nhân vật nào nhất? Vì sao?
Trong câu chuyện em thấy điều gì thú vị nhất?...

Trong bài văn này em thích hình ảnh nào nhất?...
Hướng dẫn học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp, cách tác giả quan sát, cảm nhận;
cách sử dụng các biện pháp nhân hóa, so sánh trong bài văn. Từ đó yêu cầu học sinh
chép lại những câu văn hay vào sổ tay của mình để tăng vốn từ cho bản thân giúp các
em vận dụng vào trong văn nói và văn viết.
ĐÂY LÀ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG TRONG TIẾT ĐỌC THƯ VIỆN

8


- Giúp học sinh tích lũy vốn từ qua các môn học: tôi nêu câu hỏi yêu cầu học sinh trả
lời, học sinh khác nhận xét câu trả lời của bạn đã đủ các bộ phận câu hay chưa, học
sinh sẽ bổ sung câu trả lời của bạn. Khi giao tiếp với bạn bè hay với mọi người cũng
giúp các em thói quen trả lời câu hỏi đầy đủ các bộ phận. Bên cạnh đó qua các tiết
Luyện từ và câu tôi cũng giúp các em hiểu rõ nghĩa của từ, qua đó cho các em tìm
những từ ngữ cùng nghĩa hoặc trái nghĩa. Tôi cho học sinh thực hành đặt câu với
những từ đã tìm được…
Ví dụ: Khi học về câu kể Ai là gì ? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu câu
này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đặt câu kể Ai là gì? để giới
thiệu hoặc nêu nhận định về một con người, một vật:
Chích bông là con chim rất đáng yêu…
Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không một
phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là chữ viết. Vì vậy
muốn có bài văn hấp dẫn thì tôi chú ý rèn kỹ năng viết cho học sinh trong các giờ
chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp và trình bày rõ ràng,
sạch sẽ.
Nếu như tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, chính tả rèn kỹ năng viết
cho học sinh thì phân môn kể chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói khác là kỹ năng
sản sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình cảm, giúp
9



học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh học tập cách
miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện.
Tóm lại các phân môn của môn Tiếng Việt tuy mỗi phân môn có nội dung
riêng, phương pháp riêng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập mà luôn bổ sung cho
nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những phân môn khác. Với
phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những phân môn khác,
muốn học tốt Tập làm văn học sinh cần học tốt các phân môn còn lại.
Muốn viết được một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn
từ ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp, Chính
vì vậy tôi luôn chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập đọc, luyện từ và câu và
cả trong khi dạy các môn khác hay trong những buổi nói chuyện trong các tiết sinh
hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo các chủ đề, chủ điểm, khi có một từ
hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi làm văn có thể
sử dụng một cách dễ dàng.
Bản thân tôi đã tiến hành dạy cho các em theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước
đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử
dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm
thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.
* Khi làm một bài văn miêu tả về con mèo chúng ta cần miêu tả:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng ngọc.
Tôi hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu của bạn? Học sinh có thể nhận xét: bạn
đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một cái măng ngọc.
Tôi cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái đuôi của chú
mèo sao cho sinh động hơn:
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu nhìn
và nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
10



- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân thon
dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.
Như vậy cùng là miêu tả về cái đuôi của chú mèo nhưng những câu văn sử
dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ gợi tả, gợi cảm như các câu trên
thì hiệu quả khác hẳn, ta thấy miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm
và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.
Giải pháp 3. Xác định thể loại văn miêu tả.
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mĩ, dù miêu tả bất kỳ đối tượng
nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là sự sao chép,
chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận
xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái
riêng biệt của mỗi người.
Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn với
cái chân thật". Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng
tạo của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết "bịa" một
cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, tôi uốn nắn để học sinh tránh thái
độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng, thói già trước tuổi.
Mặt khác tôi còn giúp các em nắm được: trong văn miêu tả, ngôn ngữ sử dụng
phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh, đây là một
trong những miêu tả trong sinh học, địa lý… và các thể loại văn khác.
Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường mình cần
đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn lọc từ ngữ, sẽ
gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất lượng bài làm của các
em sẽ tốt hơn.
Giải pháp 4. Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn bố cục bài văn

11



Ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả con vật, đó là bài: Cấu tạo bài văn
miêu tả con vật. Tôi đã hướng dẫn các em tìm hiểu kĩ cách miêu tả con mèo Hung.
Cho học sinh đọc bài văn, phân đoạn cho bài văn, nêu nội dung chính của từng đoạn
và cuối cùng cho học rút ra nhận xét về cấu tạo của bài văn miêu tả con vật: gồm 4
đoạn:

Đoạn 1: giới thiệu con mèo Hung.
Đoạn 2: Tả bao quát; chi tiết từng bộ phận của con mèo.
Đoạn 3: Tả hoạt động và thói quen sinh hoạt của con mèo.
Đoạn 4: Cảm nghĩ của tác giả đối với con mèo.
Qua đó giúp các em năms được cấu tạo của bài văn, từ đó học sinh rất thuận lợi

trong việc lập dàn ý cho một bài văn miêu tả con vật.
ĐÂY LÀ MỘT DÀN Ý BÀI VĂN TẢ CON MÈO CỦA MỘT HỌC SINH

12


Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường thu hút
người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về vấn đề mà người
trình bày. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh xây dựng một đoạn văn mở bài và
kết bài là rất cần thiết.
* Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là: mở bài
trực tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo
cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với khả
năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần nói tới,
có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu hát,…nhưng phải bám sát vào yêu cầu
của đề, không lan man, xa đề, không rườm rà. Bản thân tôi cho học sinh làm việc
nhóm đôi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các bạn nhận xét.
Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài: ''Hè vừa rồi, về quê chơi em đi

được ngoại cho một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên đặc biệt nhất của gia đình
em, nay đã nặng được khoảng 1,5 kg."
- Tôi nêu câu hỏi: Đây là cách vào bài nào? ( trực tiếp)
- Tôi nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn:" Bấy lâu
nay nhà em đã không có một bóng dáng con chuột nào dám bén mảng tới vì có một
chú lính gác cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật
hiền dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em."
Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở
bài một cách hợp lý nhất.
* Đoạn thân bài: gồm hai đoạn:
a. Thứ nhất là đoạn tả bao quát
b. Thứ hai là tả chi tiết từng bộ phận
Ví dụ: Tả con mèo.
a. Tả bao quát hình dáng bên ngoài
13


b. Tả chi tiết từng bộ phận
c. Tả hoạt động và thói quen sinh hoạt.
* Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại
rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều tình cảm của người viết nhất với
đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình
làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm
kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn
người đọc. Vì vậy tôi luôn dẫn dắt, gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài có mở
rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở, sau đó
cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết bài hay.
"Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm lặng của dòng
đời. Cô giáo em nói thế. Đi học về đứng ngắm nhìn ba cây gạo, em thấy lòng bồi hồi
xao xuyến. Cây gạo là hồn quê, là tình quê vơi đầy."

Giải pháp 5. Phần củng cố bài trong các tiết tập làm văn.
Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết học nhưng lại là
lúc bản thân tôi phải tóm tắt toàn bộ nội dung kiến thức của bài và mở ra hướng kiến
thức mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý ở phần củng cố bài hấp dẫn, thu hút được
sự chú ý của các em.
Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nhận mọi sự vật ở nhiều khía cạnh, góc
độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em nên ở phần củng cố bài,
tôi không đưa ra những bài văn mẫu hoàn chỉnh làm các em bắt chước, sao chép, dễ
tạo cho các em cách làm văn sáo rỗng, na ná như nhau mà nên đưa ra những đoạn văn
miêu tả những tác giả khác nhau. Cùng trong một tiết học, có thể đưa ra nhiều đoạn
văn miêu tả toàn diện, phong phú hơn và từ đó các em sẽ biết chắt lọc, tìm tòi những
chi tiết đặc sắc, học tập được các câu, các từ hay, cách diễn đạt hợp lý cho bài làm của
mình.

14


Các đoạn văn đưa ra cũng không nên quá dài hay quá ngắn vì nếu dài quá học
sinh sẽ khó tiếp thu, ngắn quá sẽ không đảm bảo nội dung. Đặc biệt đoạn văn phải
được diễn đạt mạch lạc đúng cấu trúc ngữ pháp, lời văn giản dị, câu văn giàu hình ảnh
và phải mang tính mẫu mực cả về nội dung và hình thức.
Khi đưa ra các đoạn văn mẫu tôi luôn phân tích, đánh giá để học sinh thấy được
cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận rõ nội dung miêu tả, sự khác
biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong hành văn.
Ví dụ: Đọc cho học sinh nghe đoạn văn "Những cánh bướm trên bờ sông":
"Ngoài giờ học, chúng tôi tha thẩn ở bờ sông bắt bướm. Chao ôi, những con bướm đủ
màu sắc, đủ hình dáng. Con xanh biếc pha đen như nhung, bay nhanh loang loáng.
Con vàng sẫm nhiều hình mặt nguyệt, ven cánh có răng cưa, lượn lờ đờ như trôi
trong nắng. Con bướm quạ to bằng hai bàn tay người lớn, màu nâu xỉn, có hình đôi
mắt tròn, vẻ dữ tợn. Bướm trắng bay theo đàn líu ríu như hoa nắng. Loại bướm nhỏ

đen kịt, là là theo chiều gió hệt như tàn than của những đám đốt hương…"
Phân tích: Đoạn văn ngắn gọn nhưng đã miêu tả khá sinh động vô số loài
bướm. Hình ảnh những chú bướm hiện lên qua con mắt của mấy cậu học trò vốn say
mê với thiên nhiên. Một từ tha thẩn miêu tả các cậu ra bờ sông bắt bướm, một từ chao
ôi diễn tả cảm xúc mạnh mẽ trong lòng các cậu đến bật thành tiếng kêu chứng tỏ sự
kinh ngạc và lòng say mê của các cậu học trò đến tột độ, tạo nền cho bài miêu tả, tạo
nền cho hình ảnh những cánh bướm xuất hiện. Liên tiếp sau đó, mỗi câu văn được tác
giả dùng để nói tới một con bướm. Mỗi con bướm lại tả bằng các tính từ, các hình ảnh
so sánh gợi tả vẻ đẹp đầy hấp dẫn: Đen như nhung, loang loáng, vàng sẫm, lượn lờ đờ
như trôi trong nắng, líu ríu như hoa nắng…Tác giả đã khéo chọn những hình ảnh mới
mẻ, độc đáo để so sánh làm nổi bật dáng bay của từng loại bướm. Nó làm nên vẻ đẹp
hấp dẫn riêng của đoạn văn miêu tả này.

15


Việc đưa ra đoạn văn mẫu cùng với lời phân tích rõ ràng như vậy sẽ giúp học
sinh hình dung ra đối tượng miêu tả một cách cụ thể, sinh động hơn, giúp học sinh
vận dụng cách dùng từ đặt câu vào bài viết của mình.
Giải pháp 6. Thực hiện tiết trả bài
Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến việc
nghiêm túc đều thực hiện theo một quy trình nhất định, bắt đầu từ việc lập kế hoạch
đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó. Khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã
làm so với kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm
so với kết quả, không bỏ qua bất cứ khâu nào trong các khâu trên, nhất là các khâu
kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra đánh giá thì mới có thể biết được những ưu, khuyết
điểm trong công việc đã thực hiện, để điều chỉnh cho những việc tiếp theo.
Dạy tập làm văn cũng không nằm ngoài quy trình chung đó. Mỗi loại bài
thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực hành ấy
cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc. Từ đó có tác

dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài
chính là thực hiện khâu cuối cùng “kiểm tra, đánh giá”. Nhằm mục đích giúp học sinh
hiểu được những nhận xét chung của giáo viên và kết quả bài viết của cả lớp để liên
hệ với bài làm của mình giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn đạt, chính
tả, bố cục bài của mình và của các bạn. Từ đó học sinh có thể học hỏi những câu văn,
đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài không thể làm qua loa đại
khái, càng không thể bớt xén thời lượng.
Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài soạn đã
hướng dẫn, tôi thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm chán. Sau nhận xét
chung, tôi chữa lỗi cho học sinh theo từng loại lỗi thống kê khi chấm bài và nêu các
câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước. Sau đó, trả bài và có thể tổ chức cho học
sinh thảo luận theo nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình,
đọc cho nhau nghe các câu hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học sinh sẽ
16


thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết
lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp học
sinh tránh được những lỗi không đáng có trong thực hành viết văn và trong cả giao
tiếp hàng ngày.
Giải pháp 7. Chuẩn bị kế hoạch bài học
Trong bất kỳ hoạt động nào việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng, chuẩn bị
cũng chính là kế hoạch cho công việc mình định làm, đó là việc làm đầu tiên, tất yếu
của mỗi hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của người giáo viên. Bài
soạn chính là bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là kế hoạch bài học.
Bản thân đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc chuẩn bị kế hoạch bài
học trước khi lên lớp, kế hoạch ấy có thể được ghi chép lại cẩn thận trong giáo án,
cũng có thể là tự suy nghĩ sắp xếp trong trí óc miễn là nó phải được thực hiện một
cách nghiêm túc và hết sức tự giác. Có kế hoạch bài giảng chu đáo tức là tôi đã chuẩn
bị tốt mọi nội dung thực hiện trên lớp, từ tiết lý thuyết đến các tiết thực hành xây

dựng đoạn văn và tiết trả bài, từ phần kiểm tra bài cũ đến phần củng cố bài học. Như
vậy tôi đã thể thực hiện được các biện pháp trên một cách dễ dàng và chất lượng dạy
học chắc chắn sẽ được nâng cao.
Qua nghiên cứu thực tế tôi có thể mạnh dạn đưa ra các giai đoạn của việc soạn
giáo án một bài cụ thể như sau:
Giai đoạn 1: Xác định mục tiêu bài học
Giai đoạn 2: Chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học
Giai đoạn 3:Lựa chọn phương pháp dạy học
Giai đoạn 4: Thiết kế các hoạt động dạy học
Dạy văn miêu tả lớp 4 là một việc làm khó, nhất là nếu chúng ta đơn độc thực
hiện lại càng khó hơn nên rất cần sự đóng góp trí tuệ của tập thể, của bạn bè đồng

17


nghiệp. Vì vậy, chúng ta cần nghiêm túc trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp về chuyên
môn nghiệp vụ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn.
Mỗi buổi có thể trao đổi về một chủ đề, về một tiết tập làm văn nào đó, có thể
cả tổ xây dựng mỗi tiết một giáo án mẫu sau đó về nhà mỗi người sẽ tuỳ thuộc vào đối
tượng học sinh lớp mình mà cụ thể hoá thành kế hoạch của riêng mình. Như vậy sẽ
phát huy được sức mạnh của tập thể và mỗi chúng ta cũng học hỏi được từ đồng
nghiệp rất nhiều.
Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức phát
triển của học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm hồn
mình vào bài dạy, thầy trò phải cùng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một dòng
cảm xúc, cùng hoà chung tình cảm để cùng tìm hiểu về cảm nhận với niềm say mê,
thích thú. Muốn vậy tôi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi lên lớp. Chuẩn bị đầy
đủ về tâm thế, về nội dung, phương pháp, đồ dùng, phương tiện dạy học, mục tiêu, ý
nghĩa giáo dục, khả năng, trình độ của học sinh. Phải tìm tòi, nghiên cứu để có được
những câu hỏi gợi mở phù hợp với trình độ học sinh, chuẩn bị cả những từ, những câu

văn thích hợp để sửa sai hoặc để làm mẫu cho học sinh. Nó đòi hỏi giáo viên phải nỗ
lực sáng tạo trong suốt quá trình dạy học. Chỉ có nghiên cứu sáng tạo mới cho tôi có
được những giờ dạy văn miêu tả mới mẻ, hiệu quả cao. Nếu không có những sáng tạo
mới trong dạy tập làm văn nhất là văn miêu tả thì giờ dạy văn miêu tả chỉ là sự kiệt kê
các chi tiết của đối tượng miêu tả, giờ học sẽ gượng ép, gò bó, thiếu tâm hồn văn học.
3. Mối quan hệ của các giải pháp:
Phân môn tập làm văn là một phân môn rất quan trọng, là một phân môn tổng hợp
các kĩ năng của môn Tiếng Việt. Để làm tốt một bài tập làm văn đòi hỏi học sinh phải
hoàn thiện được bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết; phải tổng hợp được các kiến thức
của môn Tiếng Việt. Các kĩ năng và kiến thức đó hàng ngày được hoàn thiện và nâng
cao dần. Trong quá trình truyền đạt tri thức cho các em thì vấn đề về thói quen học tập
cũng vô cùng quan trọng. Việc các em có chất lượng viết văn tốt chắc chắn các em sẽ
18


có kết quả học tập tốt. Vì vậy việc nói, viết văn diễn ra thường xuyên và liên tục
xuyên suốt trong cuộc sống hàng ngày để nâng cao ngôn ngữ cũng như sự sáng tạo
cho các em.
IV. KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp 4A2 trường
Tiểu học EaWy, kết quả cụ thể như sau:
CHẤT LƯỢNG CUỐI NĂM HỌC 2017 - 2018
Lớp

Số

Bài văn có Bài văn có đủ Bài văn có đủ Bài văn chưa

HS


đủ cấu trúc, cấu trúc, đủ nội cấu

trúc,

nội đúng

cấu

đủ nội dung, dung, chưa có ý dung còn sơ sài, trúc, nội dung
có ý hay.
4a2

24

sáng tạo.

lộn xộn.

còn thiếu.

SL

SL

SL

SL

5


11

7

1

Qua kết quả trên, tôi thấy bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết
viết văn miêu tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các
biện pháp nghệ thuật như: Nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ…bài làm sinh
động, cảm xúc chân thật. Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết
của đối tượng miêu tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn mẫu, không có bài
làm na ná như nhau. Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi song trong giảng dạy Tập làm
văn thì kết quả như vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các biện pháp trên mới chỉ
được áp dụng khi dạy văn miêu tả lớp 4, nếu có thể thực hiện từ khi dạy Tập làm văn
miêu tả ở lớp 2, 3 thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ khả quan hơn
rất nhiều.
Từ đó tôi đã mạnh dạn vận dụng vào giảng dạy lớp 4 năm học này và thấy các
em cũng đã nắm bắt vận dụng rất tốt. Đến thời điểm hiện nay các em đã viết được bài
văn cơ bản theo chuẩn đề ra.
CHẤT LƯỢNG ĐẾN THỜI ĐIỂM HIỆN NAY NĂM HỌC 2018 – 2019
19


Lớp

4a2

Số HS

26


Bài văn có đủ cấu trúc, đủ nội dung, có ý hay.

7

Bài văn có đủ cấu trúc, đủ nội dung, chưa có ý sáng tạo.

11

Bài văn có đủ cấu trúc, nội dung còn sơ sài, lộn xộn.

6

Bài văn chưa đúng cấu trúc, nội dung còn thiếu.

2

DƯỚI ĐÂY LÀ BÀI VĂN CỦA HỌC SINH

PHẦN 3: KẾT LUẬN – KiẾN NGHỊ
20


1. Kết luận :
Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn người
giáo viên cần:
- Tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và nắm
chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần giúp các em hiểu rõ các đặc điểm ấy
ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
- Vì Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân môn

thuộc môn Tiếng việt nên muốn dạy tập làm văn có chất lượng cần thiết phải dạy tốt
các phân môn còn lại.
- Cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, để khi thực hiện kế hoạch bài học trên
lớp giáo viên cần đọc cho học sinh nghe các câu văn, câu thơ có sử dụng các biện
pháp nghệ thuật, cung cấp cho cac em những đoạn văn mẫu…giúp các em mở rộng
vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết và từ đó học tập vận dụng vào bài làm của mình.
- Cần coi tiết trả bài như một khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp theo.
Trả bài là tiết học mà tôi dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học sinh, giúp học sinh
điều chỉnh những sai sót mắc phải trong bài viết để bài viết sau sẽ hoàn chỉnh hơn,
hấp dẫn hơn.
2. Kiến nghị, đề xuất
Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi mới
chương trình sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực trong công
cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc nâng cao chất lượng dạy học là
một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược phát triển giáo dục từ nay đến
2020. Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đó là đội ngũ giáo
viên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên phải không ngừng học hỏi, sáng
tạo trong giảng dạy, đem hết khả năng và niềm đam mê, lòng nhiệt tình cho công tác
thì mới có được những kết quả như mong muốn. Với việc dạy tập làm văn, nhất là văn
21


miêu tả 4 thì việc làm này càng cần thiết hơn bởi việc dạy tập làm văn là rất khó, học
sinh lớp 4 tuy đã gần cuối cấp tiểu học nhưng việc làm văn cũng mới dừng ở mức độ
"tập", nội dung chương trình lại hoàn toàn mới với học sinh.
Tôi mạn phép đưa ra một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo như sau:
- Các cấp lãnh đạo cần thường xuyên quan tâm hơn nữa tới giáo viên và học
sinh; Cần có thêm tài liệu tham khảo, có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên và học
sinh để bổ sung phương pháp dạy, đáp ứng nhu cầu dạy – học.
- Cần quan tâm hơn nữa đối với giáo viên tiểu học, thường xuyên bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên; Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt
chuyên môn để giáo viên có thể học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Vì vậy, bản thân kính
mong được Hội đồng khoa học và bạn đọc trao đổi, đóng góp những ý kiến để sáng
kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn, mang lại hiệu quả tốt nhất để góp phần đổi
mới phương pháp dạy học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người viết

Hồ Thị Thu Hiền

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
22


………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
23


STT

TÊN TÀI LIỆU

TÁC GIẢ

Sách Tiếng Việt 4 (tập 1 + Tâp 2)
1


Sách giáo viên Tiếng Việt 4

Bộ Giáo dục và Đào tạo

Sách thiết kế Tiếng Việt 4
2

Chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 4

3

Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông
Để có một giờ dạy nhẹ nhàng hơn, tự

4

nhiên hơn, chất lượng hơn và hiệu quả
hơn

5
6
7

Bài tập nâng cao Từ và Câu lớp 4
Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các
môn học lớp 4
Tập làm văn 4

Bộ giáo dục và Đào tạo
Đỗ Ngọc Thống (Chủ

biên), Phạm Minh Diệu
Nguyễn Hữu Du - Sở Giáo
dục và Đào tạo Vũng Tàu
Nhà xuất bản Đại học sư
phạm
Nhà xuất bản Giáo dục
Đặng Mạnh Thường

24



×