Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận cao cấp chính trị: Xây dựng phẩm chất nhân cách, đạo đức đội ngũ cán bộ nói chung, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.98 KB, 27 trang )

Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phụ thuộc một cách
quyết định vào chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là một trong những yêu
cầu rất quan trọng trong mọi giai đoạn cách mạng.
Chất lượng người cán bộ lãnh đạo, quản lý được tạo thành bởi những
yếu tố: phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ trí tuệ, năng lực hoạt động thực
tiễn, phong cách, phẩm chất nhân cách… trong đó phẩm chất nhân cách giữ
vai trò quan trọng.
Lịch sử hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta đã xây dựng
được một đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo có phẩm chất, nhân
cách, đạo đức, có trí tuệ và tài năng, góp phần có ý nghĩa quyết định vào
thắng lợi trong cách mạng dân tộc, dân chủ và thời kỳ đầu trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Ngày nay, nước ta đang trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh trong bối cảnh thế giới và trong nước đang có nhiều
thuận lợi, thời cơ nhưng cũng không ít thách thức và nguy cơ.
Bên cạnh nhiều cán bộ nói chung, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý
nói riêng có phẩm chất, nhân cách, đạo đức và tài năng đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ mới, vẫn còn không ít cán bộ, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các
cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở còn có những biểu hiện tiêu cực rất
đáng lo ngại, trong đó tổ chức nghiêm trọng nhất nếu không kịp thời ngăn
chặn, đẩy lùi sẽ dẫn đến nguy cơ làm cho Đảng mất vai trò lãnh đạo là “tình
trạng tham nhũng, quan liêu, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên kể cả đảng viên là cán bộ
có chức, có quyền”.
Xuất phát từ tình hình nêu trên, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục xây dựng


phẩm chất nhân cách, đạo đức đội ngũ cán bộ nói chung, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn hiện nay.
Là một thành viên trong cấp ủy Đảng bộ xã An Thạnh Đông, huyện Cù
Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng, qua hai năm học tập tại Phân viện thành phố Hồ
Trang 1


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
Chí Minh, với kiến thức đã được nhà trường trang bị và với ít vốn sống tiễn
được tích lũy qua quá trình công tác, tôi chọn đề tài “Tìm hiểu một số phẩm
chất nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tình hình hiện
nay ở xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng” để làm tiểu
luận tốt nghiệp theo quy chế của phân viện; đồng thời lấy đó làm cơ sở lý luận
để vận dụng vào thực tiễn nhằm góp phần xây dựng phẩm chất nhân cách đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của xã ngang tầm nhiệm vụ mới.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu :
- Tiểu luận nhằm nghiên cứu thực chất mặt mạnh, mặt yếu kém về
phẩm chất nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở xã An Thạnh Đông
từ đó đề ra một số giải pháp chủ yếu, từng bước hoàn thiện phẩm chất nhân
cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của xã ngang tầm nhiệm vụ mới.
3. Đối tượng nghiên cứu :
Cán bộ lãnh đạo, quản lý xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung, tỉnh
Sóc Trăng.
4. Phương pháp nghiên cứu :
- Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh để phân tích phẩm chất nhân cách của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ
sở.
- Xuất phát từ thực trạng phẩm chất cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay,
từ đó nêu lên những yêu cần cần thiết và biện pháp để xây dựng, hoàn thiện

phẩm chất nhân cách của cán bộ lãnh đạo, quản lý của xã đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới hiện nay.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN CÁCH CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN
a. Phẩm chất
Trang 2


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
Theo từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1994, phẩm chất là cái làm nên
giá trị của người hay vật. Nói cách khác phẩm chất là giá trị và tính chất tốt
đẹp của con người.
b. Nhân cách
Theo từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1994, nhân cách là tư cách và
phẩm chất của con người.
Theo quan điểm tâm lý học, xã hội học, nhân cách là toàn bộ những đặc
điểm, phẩm chất, tâm lý của cá nhân quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội
của con người. Nói cách khác, nhân cách là toàn bộ những phẩm chất tâm lý
đã hình thành và phát triển từ trong các quan hệ xã hội.
c. Lãnh đạo, quản lý
Lãnh đạo là quá trình ảnh hướng đến cá nhân và tập thể, làm cho họ
phấn khởi nhiệt tình, tự nguyện thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ chung.
Giữa lãnh đạo và quản lý đều là những người đứng đầu một tổ chức, có
khả năng điều khiển mọi hoạt động tổ chức để hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Tuy nhiên, giữa lãnh đạo và quản lý cũng có những điểm khác nhau như
sau:

- Về mục tiêu:
Người quản lý coi mục đích, mục tiêu của tập thể là nghĩa vụ phải hoàn
thành nhiệm vụ do Nhà nước giao phó, không phải là nhiệm vụ do ý định, ý
muốn của người quản lý đề ra.
Còn lãnh đạo thì mục đích, mục tiêu cao hơn người quản lý ở chỗ coi
mục tiêu chung như chính bản thân mình, làm việc với niềm say mê, nhiệt
tình và có trách nhiệm cao.
Người quản lý chỉ cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, trong khi
lãnh đạo ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ mà phải có tầm nhìn xa, hiểu rộng,
luôn vươn tới cái thiện hơn.
Người lãnh đạo không dừng lại với cái hiện có mà luôn tìm tòi sáng tạo
để nâng cao hiệu quả công việc.
- Về chức năng:
Quản lý là lên kế hoạch tổ chức và kiểm tra việc thực hiện, còn lãnh
đạo là hướng cấp dưới hoàn thành mục tiêu bằng biện pháp giáo dục, động
viên và gây ảnh hưởng.
Trang 3


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
Quản lý là thực hiện mục tiêu thông qua những người khác, còn lãnh
đạo là động viên, thuyết phục, tạo điều kiện giúp đỡ, lôi kéo mọi người cùng
làm.
- Về quyền lực:
Quản lý chỉ có quyền lực về mặt quản lý, người quản lý do Nhà nước
ủy quyền có thể thay mặt Nhà nước chỉ huy, có quyền khen thưởng, kỷ luật.
Lãnh đạo, ngoài quyền lực pháp chế còn có những quyền lực khác, đó
là sức mạnh ảnh hưởng đến người khác, có thể nói quyền lực này có được từ
phẩm chất đạo đức của người lãnh đạo, được quần chúng tin yêu ủng hộ.
Tóm lại: Tuy có sự khác nhau về mục tiêu, chức năng, quyền lực nhưng

lãnh đạo và quản lý không đối lập nhau, bổ sung cho nhau. Người lãnh đạo
cần có tính cách, tư tưởng của người lãnh đạo biết quản lý con người thông
qua khối óc lẫn chinh phục con tim của con người; còn lãnh đạo cần làm tốt
quản lý, không quản lý tốt thì không thể lãnh đạo tốt, không lãnh đạo tốt thì
không thể quản lý tốt.

1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN CÁCH
Về nhân cách, hiện nay có nhiều quan niệm với những góc cạnh khác
nhau, nhưng tựu trung có 3 quan niệm sau:
- Quan niệm coi nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản: nhận thức (bao
gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ); rung cảm (tình cảm và thái độ), ý chí
( phẩm chất, ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen).
- Quan niệm coi nhân cách gồm bốn cấu trúc nhỏ: xu hướng (thế giới
quan, lý tưởng, hứng thú, tâm thế); kinh nghiệm (tri thức, kỹ xảo, thói quen);
đặc điểm của các quá trình tâm lý (các phẩm chất trí tuệ, ý chí, đặc điểm của
cảm xúc, tình cảm), các thuộc tính sinh học quan trọng (khí chất, giới tính, lứa
tuổi và đặc điểm tâm lý).
- Quan niệm về các mặt đào tạo của nhân cách: đạo đức, thể, dũng… và
quan niệm về bốn thuộc tính phúc hợp của nhân cách là xu hướng, tính cách,
năng lực và khí chất.
Song, lý luận chung về nhân cách cần được hiểu là toàn bộ đời sống
tinh thần xã của con người, bao gồm “tầng” xã hội và “tầng” tâm lý của con
người. Khái niệm này cho phép ta hiểu được cái bản chất bên trong “người” ở
Trang 4


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
mỗi cá nhân, cái tư cách làm “người” của mỗi người, phân biệt giữa người
với các động vật khác. Bởi vì con người như Ănghen đã nói: là tổng hóa các
mối quan hệ, do đó con người rất phức tạp. Con người khác với những động

vật khác ở chỗ con người có ý thức. Con người không chỉ biết chấp hành
mệnh lệnh mà còn là chủ thể sáng tạo, tự chủ trong quá trình hoạt động, vì thế
chủ thể lãnh đạo, quản lý phải biết lôi cuốn, thu hút mọi người để họ tham gia
hoạt động một cách tự giác, tự chủ và sáng tạo nhằm mang lại hiệu quả cao.
Chính từ trong quá trình sống và hoạt động của con người sẽ cải tạo, biến đổi
và phát triển phẩm chất nhân cách tự nhiên của con người.
Nhân cách tuy là cái vốn có của một con người, của môt cá nhân, song
mỗi con người khi sinh ra chưa phải đã là một nhân cách, mà nhân cách chính
là con người xét về mặt bản chất xã hội, hoạt động xã hội và giá trị xã hội về
những hành vi của người đó.
Nhân cách còn có nghĩa là kiểu cách sống của con người, là bộ mặt tinh
thần của con người, con người có ý thức nên nó có khả năng điều khiển, điều
chỉnh hành vi của mình, nó thể hiện được cái “tôi” của con người, khẳng định
con người đó có giá trị và tính chất tốt đẹp riêng biệt của nó. Nhân cách còn là
toàn bộ những đặc điểm ổn định của cá nhân tạo nên giá trị xã hội của cá nhân
đó mà tổng thể của nó bao gồm cái chung và cái riêng của con người; cái
chung là xã hội, dân tộc, lịch sử, văn hóa… nó hòa quyện vào con người biến
thành cái riêng của mỗi con người tạo nên vai trò, sắc thái riêng của mỗi cá
nhân.
Nhân cách không sinh ra và lớn lên với con người, nhân cách chỉ hình
thành và phát triển bởi cơ chế điều chỉnh từ bên ngoài, cá nhân tự điều chỉnh
thông qua con đường giáo dục, giao lưu và dư luận tập thể, dư luận xã hội
trong quá trình hoạt động, quan hệ xã hội. Nhân cách không mất đi theo sự
mất đi của con người cụ thể mà nó được người khác đang sống trong xã hội
kế thừa, chọn lọc, duy trì và phát triển.
1.3. NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
Toàn bộ những hành vi, cách thức ứng xử hay cái được xem là nhân
cách nó được hình thành và biến đổi tùy thuộc vào điều kiện xã hội trong từng
thời kỳ. Vì vậy, nhân cách của người cán bô lãnh đạo quản lý cũng tùy thuộc
bởi những khuôn mẫu quy định hành vi, cách ứng xử. Và, quy định bộ mặt xã

hội của người cán bộ lãnh đạo quản lý cũng không cố định mà luôn biến đổi

Trang 5


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
bởi nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo
dục….
Nói như vậy không có nghĩa là nhân cách người cán bộ lãnh đạo quản
lý luôn biến đổi bất kỳ, không theo một khuôn mẫu nhất định nào, vì những
yếu tố chung nhất tạo nên nét đặc thù, riêng biệt của người cán bộ lãnh đạo
quản lý cơ bản là ổn định; những yếu tố này của nhân cách đóng vai trò chỉ
huy để phân biệt với nhân cách xã hội khác với tư cách là một hệ thống những
đặc điểm tâm lý, hành vi xác định của con người chung chung. Điều đó có
nghĩa là bất kỳ người cán bộ lãnh đạo quản lý nào, dù trong chế độ xã hội
nào, ở bất kỳ thời kỳ nào của lịch sử, với tư cách là thành viên của nhóm
người đóng vai trò lãnh đạo, chỉ huy đều phải có một cấu trúc tâm lý xã hội
phổ biến bao gồm những yếu tố cơ bản ổn định, xác định cần thiết, phải có
một xu hướng tâm lý quy định cho tính cách hoạt động, thái độ của người
lãnh đạo quản lý đối với mọi người xung quanh, đối với cấp trên, cấp dưới và
đối với chính bản thân mình. Đó là đặc điểm mang màu sắc đạo đức mà xã
hội đòi hỏi phải có mới đảm nhận được vai trò lãnh đạo quản lý.
Từ những lý luận trên, người lãnh đạo quản lý tất yếu đòi hỏi phải vừa
là một nhà chính trị, một nhà tổ chức, một nhà sư phạm, đồng thời là một nhà
chuyên môn, am hiểu được lĩnh vực mình hoạt động, có đa chức năng để thỏa
mãn tương ứng với vai trò mình đảm nhận nó bao gồm hai mặt cơ bản, đó là
“phẩm chất nhân cách” và “năng lực” hay còn gọi là “đức” và “tài”. Đây là
hai đặc trưng cơ bản nhất đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý, hai đặc trưng
đó không thể tách rời một cách riêng biệt mà nó luôn hòa quyện, bổ sung, hỗ
trợ cho nhau trong quá trình hoạt động.

1.4. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ
PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN

a/. Đạo đức, một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Chủ tịch
Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ
cách mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. Người không để lại những
tác phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức nằm
trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô động, hàm súc
theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam. Bản
thân Người lại thực hiện trước nhất và nhiều nhất những tư tưởng ấy, nhiều
Trang 6


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
hơn cả những điều Người đã nói, đã viết về đạo đức. Người vừa là một nhà
đạo đức lớn, lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã
được không những nhân dân trong nước mà cả thế giới thừa nhận.
Tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện qua
những tác phẩm của Người về đạo đức, mà quan trọng hơn là thông qua chính
hành vi được thể hiện trong toàn bộ hoạt động thực tiễn của Người, thông qua
mẫu mực đạo đức của Người đã để lại cho Đảng, cho dân tộc và nhân loại. Sự
thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, động cơ và hiệu quả, giữa lý luận và
thực tiễn đã trở thành một đặc trưng nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc
trưng này đã làm cho Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt với rất nhiều nhà tư
tưởng, nhiều lãnh tụ khác từ trước đến nay.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là
văn minh”, thì mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình.
Người cũng thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho
trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Nếu xét đến

cùng thì văn minh tức là trí tuệ, trong đó chủ yếu là sự hiểu biết đúng đắn về
chủ nghĩa Mác – Lênin, những tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn Việt
Nam và thế giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những
hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn. Còn đạo đức
chính là những phẩm chất nhân cách đòi hỏi con người cần phải có để tham
gia vào việc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để cống hiến
được nhiều nhất cho cuộc đấu tranh đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng,
cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông của suối. Đạo đức là nền tảng, là
gốc, là ngọn nguồn bởi vì muốn là cách mạng thì trước hết con người phải có
cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao
động, với cả dân tộc mình. Cái tâm, cái đức ấy lại phải thể hiện trong các mối
quan hệ xã hội hàng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với
mọi người chung quanh mình. Phải có tâm, có đức mới giữ vững được chủ
nghĩa Mác – Lênin và đưa được chủ nghĩa Mác – Lênin vào cuộc sống.
Chính vì vậy, cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết của
cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm đến việc
giáo dục đạo đức cho mọi người. Tùy theo từng thời kỳ cách mạng, Người đề
ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người phấn đấu rèn luyện nhằm
hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề, khó khăn, phức tạp hơn, từ đó mà
giành thắng lợi to lớn hơn cho sự nghiệp cách mạng.
Trang 7


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
“Đường Kách Mệnh” xuất bản năm 1927 là cuốn sách đầu tiên dùng để
bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học thuyết
Mác – Lênin và con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, đi theo lối cách
mạng mới của Nguyễn Ái Quốc xác định. Nhưng mở đầu cuốn sách lại là bài
nó về tư cách môt người cách mạng. Chắc chắn chúng ta không thể tìm thấy

một trường hợp nào truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin giống như vậy. Phải
chăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một quan điểm lớn: phải có cái đức
để đi đến cái trí. Vì khi đã có cái trí, thì cái đức chính là cái đảm bảo cho
người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp
nhận, đã đi theo.
Quan điểm lấy đức làm nền tảng, làm gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc nhưng
đức và tài , hồng và chuyên phải kết hợp, phẩm chất nhân cách và năng lực
phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Như Người đã phân tích,
người nào có đức mà không có tài thì cũng chẳng khác gì ông bụt ngồi trong
chùa, không làm hại ai, nhưng chẳng có ích gì. Ngược lại, nếu có tài mà
không có đức, thì cũng chẳng khác gì một anh làm kinh doanh giỏi, đem lại
nhiều lãi, nhưng lãng phí, tham ô, ăn cắp của công, thì như vậy chỉ có hại cho
dân, cho nước, cho sự nghiệp bản thân và sớm muộn cũng đỗ vỡ.
Thực vậy, đức và tài là hai mặt đặc trưng cơ bản không thể thiếu được ở
người cán bộ lãnh đạo, quản lý, nó phải gắn bó mật thiết với nhau.
Đạo đức cách mạng trong nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cả
một hệ thống tư tưởng rất phong phú và chặt chẽ, nội dung sâu rộng và toàn
diện được tóm tắt trong 5 điều: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm và được Người
giải thích rõ:
- Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào, sẵn
sàng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà
không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền. Những người đã
không ham, không e, không sợ gì là việc phải, họ đều làm được.
- Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có
việc gì phải dấu đoàn thể, ngoài lợi ích của đoàn thể không có lợi ích riêng
phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc thì dù bất cứ việc to, nhỏ đều ra sức làm
cẩn thận, thấy việc phải thì làm, thấy việc trái thì nói, không sợ người khác
phê bình mình, mà mình phê bình người khác cũng phải chân thành trên tinh
thần giúp đỡ.

Trang 8


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
- Trí là không có việc đi trái làm mù quáng cho nên đầu óc trong sạch,
sáng suốt. Dể hiểu lý, dễ tìm phương hướng, biết xem người, biết xét việc. Vì
vậy mà biết làm việc gì có lợi, tránh làm việc có hại cho đoàn thể.
- Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết
điểm có gan sửa chữa, cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại
vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần có gan hy sinh cả tính mạng
cho đoàn thể, cho tổ quốc, không rụt rè, không nhút nhát.
- Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng, không ham người khác tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính
đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham: ham học, ham làm, ham tiến
bộ.
5 điều trên được xem là sức mạnh, là cái gốc, là chuẩn mực về phẩm
chất nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Trong quyển “Sửa đổi lối làm việc” xuất bản năm 1947, khi nói về lựa
chọn cán bộ, Người đã nêu một số phẩm chất, nhân cách của người cán bộ
lãnh đạo, quản lý đó là:
- Những người tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong
lúc đấu tranh.
- Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng.
Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin
cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
- Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn
cảnh khó khăn.
Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải là người lãnh
đạo.
Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: khi thất bại không hoang mang, khi

thắng lợi không kêu ngạo, khi thi hành các Nghị quyết, kiên quyết, gan góc
không sợ khó khăn.
- Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
Đó là những khuôn khổ lựa chọn cán bộ, chúng ta phải theo cho đúng.
Cùng với việc nêu lên những phẩm chất, nhân cách, đạo đức của người
cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong “Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ” đề này 1/
3/1947, tức 18 tháng sau ngày Việt Nam tuyên bố độc lập và giữa lúc cuộc
kháng chiến ở Bắc Bộ nổ ra non hai tháng rưởi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ
Trang 9


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
8 khuyết điểm mà cán bộ cần khắc phục sửa chữa: Địa phương chủ nghĩa; óc
bè phái; óc quân phiệt; óc hẹp hòi; ham chuộng hình thức; làm việc với bàn
giấy; vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm; ích kỷ, hủ hóa.
Nhân kỷ niệm 113 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trần
Bạch Đằng – Nhà nghiên cứu, có viết bài với tựa đề “Sức mạnh của một bức
thư” đăng trên báo Sài Gòn, số ra ngày chủ nhật 18/ 05/ 2003, nói về bức thư
của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau:
Có thể nói đây là những suy nghĩ đàu tiên của lãnh tụ về hiểm họa suy
thoái của một Đảng vô sản cầm quyền. Mặc dù thời gian cầm quyền còn ngắn
nhưng kinh nghiệm già dặn cùng sự quan sát, tiếp xúc thực tế đã cho phép
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một loạt nguyên tắc định hướng lâu dài mà tận
hôm nay vẫn còn giá trị thời sự.
Người lên án “chủ nghĩa địa phương” như “chỉ chăm chú lợi ích của
địa phương mình mà không nhìn đến lợi ích toàn bộ…. Làm việc ở bộ phận
nào chỉ biết bênh vực, vun đắp cho bộ phận ấy…”, lên án “óc bè phái” với
nhận xét vừa sát vừa súc tích “ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng
nghe, tài không có cũng dùng. Ai không hẩu với mình thì dù có tài cũng dìm
họ xuống, họ phải mấy cũng không nghe”.

Người phê phán “óc quân phiệt, quan liêu” như “khi phụ trách ở một
vùng nào thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạch họe…. Cái
đầu “ông tướng, bà tướng” ấy đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho
cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân”.
Về “óc hẹp hòi”, Người nói: “Chúng ta phải nhớ rằng: người tài ai
cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa
chỗ dở…. Tư tưởng hẹp hòi thì hành động cũng hẹp hòi, thì nhiều thù ít bạn.
Người mà hẹp hòi ít kẻ giúp. Đoàn thể mà hẹp hòi không thể phát triển”. Chữ
“đoàn thể” Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng ở đây chỉ Đảng Cộng sản bấy giờ,
Đảng đã tuyên bố tự giải tán về danh nghĩa công khai. Với vài nhận xét, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khái quát căn bệnh nguy hiểm của kẻ cầm quyền. Hẹp
hòi tức tự cô lập, tức tự tôn tự đại, tức xem mình như một thế lực “siêu đẳng”.
Hẹp hòi và bè phái là hai triệu chứng của một căn bệnh mà hậu quả đã biến
Đảng thành một tầng lớp quyền bính, biệt lập, càng lâu dài đối lập với lợi ích
của đông đảo nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án bệnh “ham chuộng hình thức”: việc gì
cũng không xét đến kết quả thiết thực, cẩn kíp, chỉ nhằm về hình thức bề
ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai….
Trang 10


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
Đối với lối “làm việc trên bàn giấy”, Người viết: Thích làm việc bằng
giấy tờ thật nhiều. Ngồi một chỗ chỉ tay năm ngón, không chịu xuống địa
phương kiểm tra công tác và để chỉ vạch những kế hoạch thi hành Chỉ thị,
Nghị quyết…. Những Nghị quyết cấp trên gửi xuống cho địa phương có thực
hiện được hay không, các đồng chí cũng không biết đến.
Đối với “bệnh vô kỷ luật”: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Nhiều nơi các
đồng chí bị phạm lỗi nhưng không bị trừng phạt xứng đáng, có đồng chí bị hạ
tầng công tác nơi này, đi nơi khác ở nguyên cấp cũ hay chỉ bị hạ tầng công

tác theo hình thức nhưng vẫn ở cấp bộ cũ làm việc. Có đồng chí đáng phải
trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang chỉ phê bình, cảnh cáo qua loa cho
xong chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho nhau, lừa dối cấp trên, giấu
giếm đoàn thể. Đến nay, chúng ta thấy tính phường hội của đảng cầm quyền
chưa giảm, đôi mặt còn nghiêm trọng hơn so với thực tế mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh bắt gặp. Trên môt ý nghĩa nào đó, đảng viên, nhất là cán bộ cấp cao,
như một hạng công dân dặc biệt và, chúng ta biết, khi xã hội có vài ba trăm
ngàn “công dân đặc biệt” thì xã hội không thể phát triển bình thường. Chủ
tịch Hồ Chí Minh dặn thêm: nếu kỷ luật lỏng lẻo, những phần tử phản đông
sẽ có cơ hôi chui vào hàng ngũ ta để phá hoại. Bao nhiêu điều xảy ra trước
mắt chúng ta gây tổn thất cho nền kinh tế, nền an ninh quốc gia dưới cái vỏ
bảo vệ, vì lợi ích của chế độ, mặc dù sai sót quá rõ ràng, vẫn được che chở, xí
xóa không có sức phá hoại nào ghê gớm hơn với lá mặt lá trái này.
Về bệnh “ích kỷ, hủ hóa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc: Có những đồng
chí còn giữ óc địa vị, cố tranh cho được ủy viên này, chủ tịch kia. Có những
đồng chí lo ăn ngon, mặc đẹp, lo chiếm của công làm của tư, lợi dụng địa vị
và công tác của mìh mà buôn bán phát tài, lo việc riêng hơn việc công. Đạo
đức cách mạng thế nào, dư luận che bai thế nào cũng mặc.
Chắc chắn bệnh “ích kỷ, hủ hóa”này sẽ tăng cấp số trong vài chục năm
nay, nhất là từ sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, ở một lượng cán bộ,
đảng viên không nhỏ. Óc địa vị được quyền lực và quyền lợi tăng đọ nồng,
giành và giữ ghế không hề hổ thẹn, khư khư ngồi lì mặc thiếu tài kém đức. Cứ
mỗi kỳ bầu cử trong nội bộ Đảng hay trong cơ quan Nhà nước, đoàn thể, tệ
hại phơi bày trơ trẽn: vu khống, chụp mũ, nịnh nọt, mị dân…. đó là sự sa đọa
về luân lý mà đông đảo quần chúng và đảng viên Cộng sản vốn chính trực hết
sức khinh bỉ. Nhưng, vẫn có kẻ mặt dày, cố “chịu đấm ăn xôi” miễn được
“bao nhân sự” ghé mắt, miễn phỉnh phờ được cử tri. Tiền trường và hậu
trường rộn ràng. Ta hiểu, bối cảnh ấy chỉ thích nghi với những kẻ ăn bám,
suốt đời làm nghề nhìn gió để trỏ cò - nói thẳng, lớp hạ đẳng của xã hội.
Trang 11



Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng khái niệm “ích kỷ, hủ hóa”. Người viết:
có những đồng chí hay có tính khiêu ngạo, tự mãn, cho mình là cựu chính trị
phạm, là người của Mặt trận (nên hiểu: Mặt trận Việt Minh, tức tổ chức cách
mạng thay mặt cho Đảng lúc Đảng chưa ra công khai – ghi chú của TBĐ) thì
giỏi hơn ai hết, ai cũng không bằng mình. Vẫn biết nhà pha đế quốc là nơi
huấn luyện, vẫn biết Việt Minh là một đoàn thể gồm những người yêu nước.
Nhưng hẳn rằng ngoài Việt Minh còn biết bao nhiêu người hay, người giỏi
mà Việt Minh chưa tổ chức được. Vả lại nếu chính trị phạm, nếu người của
Mặt trận là giỏi hơn ai hết thì những người không có hân hạnh ở tù, những
người chưa vào Măt trận đó là vô tài vô dụng cả sao?
Mỗi đồng chí ta phải có thái độ khiêm tốn, càng cựu càng giỏi, càng
phải khiêm tốn, phải có lòng cầu tiến bộ, phải nhớ câu nói của ông thầy
chúng ta (tức Lênin – TBĐ ghi chú): Phải học, học thêm, học mãi. Tự mãn,
tự túc là co mình lại, không cho mình tiến bộ thêm.
Vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong bức thư vừa được trích
dẫn trên hóa thân trong cách cư xử với những người dân vùng bị giặc chiếm
lâu dài và với những trí thức đào tạo ở các trường phương Tây, từng làm việc
với chế độ cũ và cả đối với trí thức nói chung. Nó ẩn giấu đằng sau cái gọi là
“xét lý lịch” – xét quá khứ chứ không xét hiện tại. Nó làm mất lòng dân, phí
phạm tài năng, gây nhiều nỗi oan khiên thắt ruột. Nó cũng là chiếc áo giáp
che chắn cho sự dốt nát, tinh kiêu ngạo và nó đồng lõa với bệnh bè phái.
Kết thúc bức thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Vẫn biết các đồng chí nói
chung có nhiều ưu điểm như: nhẫn nại, chịu khó, tháo vát, nhiều sáng kiến.
Đó là những tính rất quý báu. Nó làm căn bản cho những tính tốt khác phát
triển. Nhưng trong thời kỳ khó khăn nặng nề này, chỉ có những ưu điểm đó
thôi cũng chưa đủ. Các đồng chí cần phải đem căn bản tốt đó mà kiên quyết
khắc phục những khuyết điểm.

Sức chứa của một bức thư đã bao quát bao nhiêu bài toán và vượt cả
không gian, thời gian.
Càng đọc kỹ lại bức thư Bác viết vào cuối thập kỷ bốn mươi thế kỷ
trước, chúng ta sửng sốt: Hình như Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bức thư đó
không chỉ cho các đồng chí một địa phương mà cả nước và gửi cho chúng ta,
vào đầu thế kỷ XXI.

Trang 12


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
b/. Từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn quan tâm xây dựng phẩm chất,
nhân cách, đạo đức đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ về mọi mặt mà nòng cốt là cán bộ lãnh đạo, quản lý có
đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cách mạng Tháng tám
năm 1945 thành công , hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ thắng lợi không thể không nói tới nhân tố có ý nghĩa quyết định là vấn đề
cán bộ.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đánh giá: “trải qua
đấu tranh cách mạng lâu dài và hơn bốn năm tiến hành công cuộc đổi mới,
số đông đảng viên mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ Trung ương đến
cơ sở đã thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng trước mọi thử thách, nhất là
những biến động hết sức phức tạp của tình hình thế giới, đã kiên định và
quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trình đô nhận thức lý luận
và thực tiễn của nhiều cán bộ, đảng viên đã được nâng lên” (Báo cáo xây
dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng, NXB Sự Thật, Hà Nội 1991, trang 7-8).
Những năm qua kể từ Đại hội VII, những mặt tích cực đó của đội ngũ
đảng viên, cán bộ tiếp tục bổ sung, phát huy tác dụng và trở thành nhân tố
quan trọng góp vào những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực chính trị, kinh

tế, xã hội và đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Tuy nhiên, đánh giá một cách nghiêm
túc những khuyết điểm, tồn tại của đội ngũ cán bộ, đảng viên, Đại hội VIII và
Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí,
kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức và lối sống. Một số thoái hóa
về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu”(văn
kiện Đại hội VIII, CTQG, ST, Hà Nội 1996, trang 137). Đại hội IX nhấn
mạnh: Một bộ phận cán bộ đảng viên lại là đảng viên là cán bộ có chức có
quyền suy thoái về đạo đức, lối sống, ảnh hưởng tới bản thân của Đảng, làm
sa sút lòng tin của nhân dân, làm tổn thương mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân, hạ thấp sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, Đại hội
đặc biệt lưu ý tính chất nghiêm trọng của tình trạng tham nhũng và suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, gây bất bình và giảm sút lòng tin trong nhân dân.
Ngày nay, nước ta đang trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
Trang 13


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
bằng, dân chủ, văn minh; từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối
cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi, thời cơ cũng như khó khăn,
thách thức, nguy cơ đan xen nhau, thậm chí có những nguy cơ không lường
trước được. Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta
là nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, đẩy lùi nguy cơ, nêu cao tinh thần
cách mạng tiến công, vươn lên mạnh mẽ, vững vàng trước mọi khó khăn, đưa
đất nước phát triển vững vàng trong thời kỳ mới.
Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiện
nay, Đảng đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ, lãnh đạo,

quản lý chủ chốt các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở phải:
- Có phẩm chất cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức
trách nhiệm và tinh thần đổi mới.
- Có kiến thức và năng lực thực tiễn thực hiện đổi mới, có tinh thần học
tập để không ngừng nâng cao trình độ.
- Trung thực và thẳng thắng.
- Có lối sống lành mạnh, có khả năng đoàn kết, có phong cách dân chủ,
có ý thức tổ chức, kỷ luật, nó đi đôi với làm, được nhân dân tín nhiệm.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và của Đảng ta là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho việc xây
dựng phẩm chất nhân cách cán bộ nói chung và của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

Trang 14


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ XÃ AN THẠNH ĐÔNG
2-1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI XÃ AN
THẠNH ĐÔNG, HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG
Cùng một lúc thành lập huyện Cù Lao Dung, An Thạnh Đông được
tách ra từ xã An Thanh Nhì (cũ) để thành lập xã mới – xã An Thạnh Đông.
Diện tích tự nhiên của xã là 4.195,84 ha (có 1.678,67 ha diện tích đất
sản xuất nông nghiệp). Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ.
Toàn xã có 9.280 dân, sống trong 2.038 hộ, trong đó 42 hộ/ 200 khẩu dân tộc
khơ me. Tôn giáo tín ngưỡng chủ yếu là thờ cúng ông bà. Địa bàn xã rộng,
đặc thù của xã là cù lao sông nước, rất thuận lợi giao thông thủy.

Là một xã mới thành lập, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém,
thời tiết diễn biến bất thường, giá cả mặt hàng nông sản không ổn định, đời
sống một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, các tệ nạn xã hội giảm chưa
đáng kể…. Trình độ chung của cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế, lại nữa
vừa chia tách là 3 xã, nên cán bộ vừa yếu lại vừa thiếu. Những yếu kém, tồn
tại nói trên là một thách thức không nhỏ đối với Đảng bộ.
Nhưng với truyền thống cách mạng của địa phương, Đảng bộ và nhân
dân đã ra sức khắc phục khó khăn, tự lực, tự cường vượt qua khó khăn, thử
thách đã đạt được những thành tích trên nhiều mặt rất quan trọng:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện
và tiềm năng kinh tế của xã, tạo thuận lợi cho kinh tế xã hội phát triển đúng
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nâng tổng số
thu nhập bình quân đầu người 4.422.000 đồng, tăng 1.400.000 đồng so với
nhiệm kỳ 1998 – 2000. Đã tổ chức được 7 hợp tác xã nông nghiệp với 712 hộ,
đạt 34,93% số hộ sản xuất nông nghiệp. Đời sống vật chất của nhân dân từng
bước được cải thiện và nâng cao.
- Tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ – cơ sở hạ tầng phát triển khá.
- Văn hóa – xã hội – giáo dục, y tế có nhiều chuyển biến tích cực.
- Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
2-2. Tình hình tổ chức bộ máy xã An Thạnh Đông
Trang 15


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
Về tổ chức Đảng:
Đảng bộ xã An Thạnh Đông hiện có 96 đảng viên, sinh hoạt tại 11 Chi
bộ trực thuộc. Ban chấp hành Đảng ủy có 13 đồng chí.
Đảng bộ, Chi bộ đã làm đúng vai trò hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn
diện các mặt công tác ở cơ sở, nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và

các đoàn thể nhân dân, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong
hệ thống chính trị hướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân và thực hiện tốt ở cơ sở,
khơi dậy được trí tụê và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao trình độ
dân sinh, dân trí, dân chủ ở cơ sở.
Hầu hết đảng viên trong Đảng bộ nêu cao vài trò tiên phong gương
mẫu, vững vàng, gắn bó với nhân dân, thực sự tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ
nhất ở cơ sở. Đảng viên hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh phấn
đấu làm kinh tế giỏi, đi đầu trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
mới, ra sức làm giàu chính đáng và lôi cuốn, vận động nhân dân cùng làm
giàu, không cam chịu đói nghèo.
Công tác phát triển đảng viên mới được Đảng bộ quan tâm thường
xuyên. Nhiệm kỳ 2002 – 2005 Đảng bộ đã phát triển được 8 đảng viên mới.
Đổi mới việc ra Nghị quyết của Đảng bộ, Chi bộ của cấp ủy Đảng. Đối
với những vấn đề lớn có quan hệ tới cuộc sống và quyền lợi của nhân dân đều
có sự phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở đề ra chủ trương và giải pháp
có tính định hướng và phân công, giao trách nhiệm cho các tổ chức đề ra biện
pháp và tổ chức thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Những chủ trương công tác thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền,
Mặt trận, đoàn thể thì chính quyền, Mặt trận đoàn thể chủ động đề xuất, cấp
ủy ban và có ý kiến về những nội dung quan trọng. Cấp ủy không can thiệp
sâu vào công việc của chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa cấp ủy với Ủy
ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, Mặt trận và đoàn thể. Lãnh đạo chính
quyền xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đảng bộ, Chi bộ và cấp ủy Đảng luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
ở cơ sở, từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ cơ sở trên cơ sở đảm bảo tiêu
chuẩn.

Trang 16



Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
Tăng cường công tác kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra Đảng việc chấp hành
điều lệ Đảng, chấp hành Nghị quyết của Đảng bộ, của cấp ủy, kiểm tra tư cách
đảng viên.
Về tổ chức chính quyền:
Chính quyền xã bảo đảm được chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, xã hội,
an ninh quốc phòng ở cơ sở; thực hiện việc quản lý hành chính Nhà nước trên
địa bàn theo thẩm quyền được giao; hướng dẫn giám sát các hoạt động tự
quản của dân, tạo thuận lợi cho dân và các cơ sở sản xuất, kinh theo đúng
pháp luật.
Sắp xếp các chức danh theo Nghị quyết 09 của Chính phủ cơ bản ổn
định theo hướng tinh, gọn. Phân công, phân cấp rành mạch cả nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm; sắp xếp quản lý cán bộ, quản lý đất đai, bảo vệ thủy
nông, quản lý hô tịch, quản lý các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách và vốn
huy động trong dân, quản lý cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hóa phục vụ
nhân dân trong xã.
Từng bước hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ sở, sửa đổi những quy định
không phù hợp, để đưa việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở vào nề nếp
thường xuyên.
- Hội đồng nhân dân xã hiện có 24 thành viên. Bảo đảm việc bầu các
chức danh Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đúng quy định. Hội đồng
nhân dân quyết định mục tiêu kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng tại cơ sở;
giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên
thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài sản công, kể
cả quỹ do nhân dân đóng góp.
Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn trong các kỳ họp Hội đồng, còn được phân công tham gia các hoạt động

thường xuyên, gắn bó với dân như tổ chức giám sát của Hội đồng nhân dân,
của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, Ban thanh tra nhân dân, tổ hòa giải,
các tổ chức tự quản của dân.
Về tổ chức Mặt trận và các đoàn thể nhân dân:
Mặt trận và đoàn thể đổi mới nội dung và phương thức hoạt động sát
hợp với nhu cầu và lợi ích của hội viên, đoàn viên, trên cơ sở đó tập hợp được
rộng rãi và nâng cao tính tự giác của hội viên, đoàn viên xây dựng tổ chức;
Trang 17


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động
nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng.
Mặt trận và các đoàn thể đã thúc đẩy việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở, phản ánh ý kiến của quần chúng về xây dựng Đảng và chính quyền,
phát giác những hành vi tham nhũng, lãng phí, vi phạm dân chủ, tham gia hòa
giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, bày tỏ thái độ đối với những khiếu
kiện của dân để góp phần giải quyết vấn đề từ gốc.
Từng bước đa dạng hóa hình thức tập hợp quần chúng, coi trọng và mở
rộng các tổ chức và hoạt động tự quản của nhân dân dưới nhiều hình thức.

2-3. THỰC TRẠNG VỀ PHẨM CHẤT, NHÂN CÁCH ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ XÃ AN THẠNH ĐÔNG
a. Vai trò của cán bộ, đặc biệt cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở.
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ vững mạnh và
đồng bộ, bao gồm cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh, cán
bộ tham mưu, chuyên gia trên các lĩnh vực cả cán bộ đương chức và đội ngũ
cán bộ kế cận vững mạnh, đủ tiêu chuẩn về các mặt.
Cán bộ ở mỗi cấp, mỗi ngành nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý đều có

vai trò quan trọng, nhưng có vị trí khác nhau, ý nghĩa khác nhau. Vai trò của
cán bộ cơ sở nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng do những yếu tố
sau đây quy định:
- Sự nghệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải phát huy vai trò,
sức mạnh, trí sáng tạo và tinh thần làm chủ của quần chúng. Tất cả những
điều đó cũng như đời sống, tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân trực
tiếp gắn với sự lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cơ sở. Cơ sở xã, phường,
thị trấn là nơi nhân dân cư trú và sinh sống.
- Tổ chức cơ sở xã, phường,… là hình ảnh xã hội thu hẹp. Mọi mặt của
đời sống xã hội đều diễn biến ra hàng ngày ở cơ sở. Cán bộ nói chung và cán
Trang 18


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở hàng ngày tiếp tục với dân, có vai trò rất quan
trọng trong việc vận đông tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương, biến
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của địa phương
thành hiện thực trong đời sống của quần chúng và trở thành hành động cách
mạng tự giác của quần chúng ở cơ sở. Đội ngũ cán bộ kể cả cán bộ lãnh đạo,
quản lý còn là lực lượng nòng cốt bảo đảm tăng cường đoàn kết toàn dân,
phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng, trí tuệ và sự sáng
tạo của nhân dân, tạo nên những thành tựu đổi mới và phát triển kinh tế, xã
hội, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và thành thị. Vai trò và uy tín của Đảng
được thể hiện thông qua đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt ở cơ sở. thực tế cho thấy, ở nơi nào, lúc nào có đội ngũ cán bộ cơ sở
có đức, có tài – nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt thì ở đó, lúc đó
phong trào phát triển nhiều mặt, và ngược lại thì thành tựu cách mạng sẽ bị
hạn chế. Đảng ta khẳng định: “đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích
quan tọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách

có ý nghĩa cách mạng” (văn kiện Đại hội VI, ST, Hà Nội 1987, trang 132).
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VI) xác định : “Trước mắt… cần tập trung
xây dựng những hạt nhân lãnh đạo, những cán bộ chủ chốt các cấp, các
ngành nhất là ở Trung ương và cơ sở” (văn kiện Đại hội VI, ST, Hà Nội
1987, trang 42). Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng tại Đại hội
lần thứ VII nêu rõ: “Mục tiêu của công tác cán bộ là xây dựng đội ngũ cán bộ
đồng bộ và có chất lượng mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt của các
ngành, các cấp và cơ sở” (Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ, Đại hội
VII, ST, Hà Nội 1991, trang 82). Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp
hành Trung ương khóa IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” nhấn mạnh: xây dựng đội ngũ cán bộ
cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân biết phát
huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân….
b. Thực trạng về phẩm chất nhân cáhc đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
của xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng
Quá trình thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp
và các lĩnh vực khác đã tác động mạnh mẽ đến cơ sở, nhất là ở xã. Bước
chuyển ấy vừa có sự đóng góp của đội ngũ cán bộ ở cơ sở, nhưng đồng thời
cũng vừa tác động mạnh mẽ đến phẩm chất nhân cách của đội ngũ cán bộ, đặc
biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Xin được phép nêu khái quát một số
Trang 19


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
nét về phẩm chất nhân cách của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của xã An
Thạnh Đông như sau:

Những mặt mạnh, mặt tích cực:
- Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý của xã giữ được phẩm chất nhân

cách, đạo đức, được quần chúng tin yêu, tín nhiệm. Hầu hết có khả năng đảm
đương tốt nhiệm vụ.
- Mặc dù còn nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống gia đình và nhiều khó
khăn khác trong hoạt động thực tiễn nhưng đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý vẫn
nhiệt tình, tận tuỵ với công việc, khắc phục khó khăn, giữ gìn đạo đức, lối
sống lành mạnh.
- Nhiều đồng chí có bước trưởng thành, chủ động, năng động tháo gở
khó khăn, đưa sản xuất phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, góp phần
làm cho tình hình kinh tế, xã hội của xã chuyển biến tích cực.
- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý xã hầu hết trưởng thành từ thực tiễn
sản xuất công tác, gắn bó với sản xuất và đời sống của nhân dân địa phương.
- Trình độ học vấn, kiến thức quản lý kinh tế, xã hội, quản lý Nhà
nước… khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ… được nâng lên một bước.
- Phong cách lãnh đạo có đổi mới theo hướng sát dân, sát cơ sở, dân
chủ, tập thể.
Tóm lại: Những mặt mạnh và tích cực về phẩm chất nhân cách, đạo đức
của cán bộ lãnh đạo, quản lý của xã có tác dụng thiết thực làm trong sạch và
nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở xã.
Những yếu kém, tồn tại:
- Trình độ về nhiều mặt của cán bộ lãnh đạo, quản lý của xã còn hạn
chế chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn. Nói chung, đội ngũ cán bộ này chưa được bồi dưỡng nhiều
về chức trách, nghiệp vụ công tác thuộc chức danh mà cán bộ đó được giao.
- Còn nhiều mặt yếu kém, thậm chí bất cập trong công tác lãnh đạo,
quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng, nhất là trong việc xử lý
những tình huống xảy ra, đảm bảo đúng quan điểm đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và được việc, được lòng dân.
Trang 20



Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
- Phong cách làm việc một số cán bộ lãnh đạo, quản lý theo kinh
nghiệm, tùy tiện, sự vụ, còn biểu hiện nặng về hành chính, quan liêu, công
chức chưa thật sâu sát, gắn bó với quần chúng, với thực tiễn sản xuất và đời
sống của nhân dân.
2-4. Một số nội dung cần thiết và biện pháp chủ yếu xây dựng phẩm
chất, nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở xã hiện nay
Một số nội dung cần thiết
* Phẩm chất chính trị - tư tưởng:
Đây là phẩm chất chính trị của người lãnh đạo, quản lý ở bất cứ cấp
nào. Không có nó thì không thể làm người lãnh đạo hoặc kém cõi cũng không
xứng danh lãnh đạo, vì:
Phẩm chất chính trị là sự nhạy bén và sáng suốt về nhận thức đường lối
chính trị, là tính chủ động, tích cực và tinh thần trách nhiệm cao đối với
nhiệm vụ được giao, đối với sự nghiệp cách mạng, có lòng tin vững chắc vào
sự lãnh đạo của Đảng, có lập trường kiên định trong đấu tranh bảo vệ và thực
hiện đường lối chủ trương của Đảng, luôn trung thành với Đảng. Đây là nền
tảng để người lãnh đạo quản lý, nhận thức và dự đoán được những khuynh
hướng mới nhất trong các phạm vi hoạt động của mình; đồng thời cũng là tiền
đề kích thích lòng hăng say cách mạng của bản thân người lãnh đạo, quản lý.
* Phẩm chất đạo đức:
Phẩm chất đạo đức của người lãnh đạo, quản lý được khái quát lại là:
“quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, ra sức làm việc cho
Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng, thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng;
đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng
của cá nhân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân; vì Đảng, vì dân mà đấu
tranh quên mình, gương mẫu trong công việc; ra sức học tập chủ nghĩa MácLênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải
tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
“Đạo đức cách mạng là vô tận trong hoàn cảnh nào cũng phải kiên
quyết đấu tranh chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu,

không chịu khuất phục, không chiụ cúi đầu. Có như thế mới thắng được địch
và thực hiện được nhiệm vụ cách mạng”.
Phẩm chất đạo đức còn là dù bất cứ công việc gì, ở bất cứ cương vị nào
đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung
của giai cấp, của công nhân, nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội; là
Trang 21


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
đoàn kết hữu nghị và hợp tác tương trợ, góp phần làm cho xã hội phát triển,
có tinh thần đoàn kết với công nhân và nhân dân lao động các nước trên thế
giới trong đấu tranh cách mạng.
Đạo đức cách mạng còn được thể hiện là lời nói đi đôi với việc làm,
hướng dẫn người khác và phải làm mực thướt cho mọi người bắt chước.
* Nhân cách:
Nhân cách cũng thuộc phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý. Nó thể
hiện ở lối sống, sự hiểu biết tâm lý con người, hiểu tâm tư nguyện vọng của
mọi người, biết phê phán những xấu xa, tiêu cực xã hội.
* Uy tín:
Uy tín của người lãnh đạo, quản lý thuộc về nhân cách của người lãnh
đạo, quản lý. Bởi vì khi người lãnh đạo, quản lý có uy tín nghĩa là người ấy
đạt nhiều tiêu chuẩn về tư cách: được mọi người tin yêu, mến phục. Uy tín
của người lãnh đạo, quản lý được hình thành trên cơ sở phẩm chất và tài năng
của người đó: là kết quả của các gương mặt gương mẫu, có lối sống giản dị,
trong sạch, lành mạnh; biết tận tuỵ hi sinh vì tập thể, có tầm hiểu biết rộng lớn
về chính trị, nhận thức và vốn sống, có tinh thần trách nhiệm cao, lời nói đi
đôi với việc làm; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có năng lực tổ
chức, tập hợp mọi người, có quan điểm quần chúng, biết hòa mình với quần
chúng.
* Năng lực:

Là tổng hợp những thuộc tính của cá nhân đáp ứng được những yêu cầu
của một hoạt động nhất định và đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả.
Người có năng lực về một hoạt động nhất định thường biểu hiện rõ ở
chỗ nhanh chóng thành thạo công việc và hình thành bản lĩnh nghề nghiệp.
Đặc trưng của năng lực là sự lĩnh hội và vận dụng vào hoạt động thực tiễn.
Song một người không có năng lực nhưng do nổ lực học tập, rèn luyện, biết
đúc kết từ hoạt động thực tiễn trong một thời gian nhất định vẫn có thể đạt tới
một sự thành nhất định, hình thành được bản lĩnh công việc, có bản lĩnh nghề
nghiệp chưa hẳn là người có năng lực trong hoạt động đó.
Năng lực ở đây bao gồm: năng lực phổ biến, năng lực đặc biệt, năng
lực chuyên môn.
Năng lực phổ biến:

Trang 22


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
Là năng lực mà cá nhân nào cũng có khi làm bất kỳ việc gì như: năng
lực nhận thức, năng lực lựa chọn, năng lực định hướng hành động… tuy
nhiên, năng lực này ở người lãnh đạo phải khác mọi người ở chỗ phải nhận
thức trong góc độ cảnh giác, tư duy và nhạy cảm; nhất là nhạy cảm về chính
trị; phải nắm bắt được thay đổi của tình huống ngay là nhạy cảm về con
người, chỉ cần qua diễn biến là đã nhận biết được ngay.
Người lãnh đạo quản lý phải có năng lực tư duy:
Sâu: Suy nghĩ sâu sắc; qua bề mặt, hiện tượng, ngẫu nhiên… nắm bắt
được căn cơ, cốt lõi, thực chất của vấn đề; một hiện tượng phải biết đâu là
nguyên nhân chủ yếu.
Rộng: Khả năng bao quát được về khía cạnh, về bình diện…, người
lãnh đạo, quản lý phải có tư duy rộng để khi đưa ra thực hiện một việc gì,
phải lường trước những hậu quả đi kèm với những hiệu quả đạt được.

Mềm: Cách suy nghĩ phải linh hoạt, mềm dẻo; có khả năng biết thay
đổi những quan niệm, nếp nghĩ không còn phù hợp để kích ứng với tình hình
mới.
Còn năng lực định hướng nhằm biết xác định mục tiêu, người lãnh đạo
quản lý phải có định hướng nhất quán và rõ ràng.
-Năng lực chuyên môn:
Là năng lực chỉ cần cho một công việc cụ thể mà cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực đó phải có như: kỹ sư, bác sĩ, thầy giáo…
Người lãnh đạo, quản lý phải có năng lực này để hiểu biết sâu, rộng về
những tri thức có liên quan đến nội dung hoạt động của đơn vị mình, co kinh
về thực tiễn công tác để tạo nền cho hoạt động quản lý, không thể lãnh đạo
người khác mà mình không biết chút gì về công việc của họ.
-Năng lực đặc biệt:
Năng lực này có thể có ở một số cá nhân náy nhưng không có ở một số
cá nhân khác, cần cho một số công việc này nhưng không cần cho công việc
khác như: nghệ thuật trong giao tiếp, sáng tạo, sáng kiến…
Có năng lực đặc biệt nhằm biết cách tổ chức một cách khoa học để tập
hợp, lôi kéo, thuyết phục tổ chức thực hiện tốt mục tiêu, có khả năng đặt mỗi
người vào đúng chỗ. Có khả năng nhạy cảm với các tình huống phát sinh,
phân tích và đánh giá đúng tình huống. Phải có khả năng quyết đoán và xử lý
Trang 23


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
đúng các tình huống phát sinh, trong quản lý rất cần cho sự quyết đoán nhưng
tuyệt đối không được độc đoán.
Người lãnh đạo quản lý phải có khả năng tổ chức, duy trì và phát triển
các mối quan hệ cần thiết khách quan cho sự phát triển của hệ thống quản lý.
Trong giao tiếp thì bộc lộ để người khác hiểu mình và biết đặt mình vào
hoàn cảnh người khác để hiểu họ.

Có năng lực đặc biệt để có khả năng gây ảnh hưởng, tác động làm cho
người khác thay đổi quan niệm lệch lạc thông qua phương pháp sư phạm.
Có năng lực đặc biệt để tạo ra bầu không khí vui tươi, cởi mở.
Ngoài ra cũng cần có khả năng hài hước để phát hiện một cách nhanh
chóng các mâu thuẫn, các tréo ngoe và biết cách cười phê phán, uốn nắn nó:
vì chức năng của lãnh đạo là uốn nắn, điều chỉnh những sai trái, lệch lạc, mà
phê bình dưới dạng chính luận sẽ khó tiếp thu hơn cách nói hài hước dễ chấp
nhận.
* Phong cách:
Người lãnh đạo quản lý không chỉ cần có phẩm chất nhân cách, năng
lực, uy tín mà còn phải có phong cách làm việc khoa học mới có thể đáp ứng
được yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Nói đến phong cách làm việc là nói đến phương pháp, biện pháp, tác
phong tiêu biểu; phong cách không chỉ thể hiện qua thái độ, cử chỉ bên ngoài
mà phản ánh bản chất, là gương phản chiếu soi rọi bên trong tư tưởng của
người cán bộ lãnh đạo.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, người lãnh đạo quản lý khi đánh
giá, xem xét, giải quyết một số vấn đề gì phải đứng trên quan điểm nguyên tắc
của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, phải đặt lợi ích của Đảng, của
nhân dân lên trên hết.
Phải đấu tranh dũng cảm, kiên quyết để bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải,
kịp thời ngăn chặn, phê phán những hiện tượng sai trái, không dung túng bao
tính năng động, sáng tạo, nhạy cảm với cái mới.
Người cán bộ lãnh đạo còn cần phải đúc kết rút kinh nghiệm, tổng kết
kinh nghiệm sau khi phân tích có tình có lý trên cơ sở khoa học khi làm xong
công việc, để làm “khuôn phép” cho những công việc khác.
Người cán bộ lãnh đạo cũng cần phải xây dựng cho mình một tác
phong công nghiệp: chính xác, nhanh nhẹn, gọn gàng, làm việc có chương
Trang 24



Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT
trình, kế hoạch cụ thể, biết sắp xếp thời gian hợp lý, phân công, phân nhiệm
hợp với trình độ, khả năng. Cần tạo bầu không khí làm việc đoàn kết, thống
nhất, tin tưởng lẫn nhau nhưng cũng hướng cho từng cá nhân rèn luyện được
phong cách: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và có tính quyết đoán
cao (tính quyết đoán ở đây không phải là quyết đoán một cách liều lĩnh mà
phải dựa trên trí tuệ).
Có phong cách làm việc khoa học, người lãnh đạo quản lý sẽ kết hợp
chặt chẽ nhiệt tình của người cán bộ lãnh đạo với tính trung thực khách quan
và sẽ hành động theo quy luật góp phần đem lại hiệu quả thiết thực hơn.
Phong cách làm việc khoa học còn thể hiện trong cách làm việc dân chủ
tập thể với tinh thần trách nhiệm cao và tính quyết đoán. Người lãnh đạo quản
lý phải luôn gắn với tổ chức, có ý thức tập thể, tôn trọng và lắng nghe ý kiến
của tập thể để khai thác mọi trí tuệ sáng tạo và sự năng động nhiệt tình của
mọi thành viên.
2-5. Những biện pháp chủ yếu:
Phải rèn luyện thế giới quan “xã hội chủ nghĩa” hoàn chỉnh và triệt để
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là yếu tố nền tảng,
quan trọng nhất để hình thành và hoàn thiện nhân cách người lãnh đạo quản
lý, có như thế thì người cán bộ lãnh đạo mới nhận thức mục tiêu lý tưởng, từ
đó họ mới trở thành người chiến sĩ cách mạng tự giác, luôn củng cố niềm tin,
xác định phương hướng hành động, trung thành với lợi ích của giai cấp, dân
tộc. Như thế mới có nhiệt tình, say mê công việc, luôn nghiên cứu, tìm tòi con
đường, biện pháp, phương án tối ưu để hoàn thành mục tiêu với hiệu quả cao
nhất.
Đối với bản thân, phải nêu cao tinh thần tự rèn luyện, tu dưỡng về đạo
đức và lối sống, có ý thức tổ chức, luôn tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể,
không để chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội trỗi dậy.
Phải bồi dưỡng, rèn luyện trình độ, kiến thức nhất định để đáp ứng

ngang tầm với nhiệm vụ mới, vì:
Tri thức là cơ sở quan trọng để hình thành phẩm chất nhân cách, đạo
đức và phong cách làm việc khoa học, là chìa khoá vạn năng mở được tất cả
các nền khoa học công nghệ mới, với trình độ dân trí phát triển ngày càng cao
của nhân dân. Cách làm việc dân chủ, tập thể, nói đi đôi với làm, thống nhất
sự năng động sáng tạo với tính nguyên tắc chỉ có thể là sản phẩm của trí tuệ.

Trang 25


×