Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP PHÁT HUY sức MẠNH KHỐI đại đoàn kết TOÀN dân tộc TRONG xây DỰNG ĐSVH ở TỈNH bến TRE HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.69 KB, 63 trang )

PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN
DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG ĐSVH Ở TỈNH BẾN
TRE HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


- Thực trạng việc phát huy sức mạnh khối ĐĐKTDT
trong xây dựng ĐSVH ở tỉnh Bến Tre hiện nay
- Những kết quả đã đạt được từ việc phát huy sức
mạnh khối ĐĐKTDT trong xây dựng ĐSVH ở tỉnh Bến
Tre hiện nay
ĐĐKTDT là chiến lược cơ bản, lâu dài của Cách mạng
Việt Nam. được Đảng và Nhà nướcquan tâm chú trọng. Đảng
cũng xác địnhtrong mọi lĩnh vực việc phát huy sức mạnh khối
ĐĐKTDT là nhân tố quyết định thắng lợi. Đặc biệt, trong bối
cảnh đất nước đang hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” đồng thời, xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thì
việc tập hợp sức mạnh của quần chúng nhân dân và toàn hệ
thống chính trịlà một vấn đề cấp bách. Một trong những giải
pháp để xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kì đổi mới
hện nay là xây dựng phong trào “TDĐKXDĐSVH”.
Ở Bến Tre, tiếp thu Nghị quyết của Đảng, ngày
22/10/1998 Tỉnh ủy Bến Tre đã xây dựng Chương trình hành
động số 16-CTr/TU "Về việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) của Đảng" và sau đó ban hành nhiều nghị


quyết, văn bản: chỉ đạo về văn hóa; Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân tỉnh kịp thời có những văn bản cụ thể hóa các
nghị quyết của Tỉnh ủy về văn hóa để thực hiện Phong trào
“TDĐKXDĐSVH”.


*Cấp tỉnh:Năm 1999, Bến Tre triển khai Phong trào
TDĐKXDĐSVH (gọi tắt là Phong trào) trên cơ sở sát nhập
cuộc vận động xây dựng “Nếp sống văn minh - GĐVH” của
ngành Văn hóa - Thông tin và cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng cuộc sống mới ở KDC” do Ủy ban Trung ương
MTTQ Việt Namphát động, đồng thời lồng ghép một số nội
dung, tiêu chí, danh hiệu của các ngành, đoàn thể vào phong
trào chung.
Trải qua từng giai đoạn phát triển, BCĐ phong trào
TDĐKXDĐSVH được thành lập kiện toàn, củng cố, bổ sung
phù hợp theo yêu cầu, quy định từng lúc và đảm bảo thông
nhất lãnh, chỉ đạo Phong trào trên phạm vi toàn tỉnh.
* Cấp huyện, thành phố: Các huyện, thành phố theo cơ
cấu thành phần BCĐ của tỉnh hình thành BCĐ cấp mình; xây
dựng quy chế phối hợp hoạt động và phân công trách nhiệm
cụ thể. Hàng năm, căn cứ vào nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ


cụ thể của phong trào, BCĐ cụ thể hóa thực hiện bằng các
chương trình, kế hoạch, giải pháp và chỉ tiêu phù hợp với từng
địa bàn dân cư, từng đối tượng; bổ sung, củng cố, kiện toàn
thành viên, phân công thành viên BCĐ phụ trách địa bàn...
đảm bảo công tác lãnh, chỉ đạo xây dựng, duy trì, phát triển,
nâng chất Phong trào thường xuyên, liên tục.
* Cấp xã, phường, thị trấn (gọi tắt đơn vị cơ sở)”:
Trong từng giai đoạn, cấp cơ sở cũng hình thành BCĐ
theo cơ cấu thành phần BCĐ cấp trên. Hàng năm, cấp ủy cơ
sở đều có xây dựng Nghị quyết, BCĐ Phong trào đưa các chỉ
tiêu của Phong trào vào nghị quyết, kế hoạch gắn với nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; tổ chức sơ, tổng

kết, kịp thời biểu dương các điển hình tiên tiến, uốn nắn
những biểu hiện lệch lạc, tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc trong quá trình thực hiện Phong trào.
Sau hơn mười lăm năm thực hiện cụ thể hóa đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật củaNhà nước về
việc phát huy sức mạnh khối ĐĐKTDT trong xây dựng
ĐSVH ở Bến Tre đã có những kết quảbước đầu:


-. “Phong trào xây dựng “NTVT” góp phần tích cực vào
hình thành nhân cách con người trong xây dựng ĐSVH cơ
sở”
Giai đoạn 2000-2011, xây dựng “NTVT” được lồng
ghép trong tiêu chuẩn “NLGM”, “TECN”, tuyên truyền, vận
động và thực hiện bình xét hàng năm tại tổ NDTQ. Các
ngành, đoàn thể có quy định riêng phù hơp với nghề nghiệp,
giới tính và độ tuổi và bình xét theo hệ thống. Từ năm 2012
đến nay, tiêu chí "NTVT" triển khai thực hiện trong cộng
đồng cho đối tượng từ 16 tuổi trở lên và được người dân tích
cực hưởng ứng. Trong thực hiện, các điển hình tiên tiến
thường xuyên được tuyên dương, khen thưởng, giới thiệu
nhân rộng, tạo sự lan tỏa, khích lệ gương tốt và góp phần xây
dựng nhân cách tốt trong xã hội.
Cụ thể: “giai đoạn 2000-2010, có 511.003 gương
“NLGM” và 313.612 gương “TECN”; giai đoạn 2011-2015,
có trên 514.000 gương “NLGM” và 316.000gương “TECN”.
Tính đến cuối năm 2015, đã có trên 60% xã, phường, thị trấn
tổ chức triển khai thực hiện tiêu chí “NT,VT” và có trên 90%
đối tượng từ 16 tuổi trở lên đăng ký thực hiện”[4, tr. 3] và



cuối năm thông qua ngày hội “ĐĐK toàn dân 18/11” BCĐ các
cấp tổ chức tuyên dương khen thưởng.
- “Phong trào xây dựng “GĐVH” và các “cơ quan, đơn
vịvăn hóa” góp phần nâng cao vai trò, vi trí của gia đình và
cáccơ quan, đơn vị xây dựng ĐSVH, đời sống kinh tế - xã
hội”
a/.Xây dựng GĐVH:
Từ năm 2000, trên địa bàn tỉnh, phong trào xây dựng
GĐVH đã lan tỏa trong cộng đồng dân cư, có sự phối hợp
triển khai, tổ chức thực hiện của hệ thống chính trị từng cấp
và sự đồng tình hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân. Các
tiêu chuẩn xây dựng GĐVH được triển khai sâu rộng, đồng bộ
tạo được nhận thức và ý thức tốt; cán bộ, đảng viên và nhân
tích cực thực hiện bằng những việc làm hết sức cụ thể. Việc
xây dựng GĐVH điển hình, mẫu mực còn được xem là nhiệm
vụ rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo. Xây dựng gia đình ấm no, hạnh
phúc tiến bộ; tích cực lao động sản xuất phát triển kinh tế; vun
bồi tình làng nghĩa xóm; tích cực tham gia các hoạt động của
cộng đồng: xây dựng cầu, đường, xây dựng nhà tình nghĩa,


tình thương, chăm lo giúp đỡ người nghèo, thực hiện tốt việc
cưới việc tang theo nếp sống văn minh…
Từ xây dựng GĐVH, các giá trị văn hóa, đạo lý tốt đẹp
của gia đình Việt Nam được giữ gìn và phát huy, hình thành
nhân cách con người mới và nền văn hóa mới, đời sống vật
chất và tinh thần của từng gia đình nâng lên rõ rệt, xây dụng
mối quan hệ khắng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội,

đã góp phần phát triển mạnh mẽ các phong trào thi đua, ngày
càng có nhiều gia đình giữ vững thành tích, tích cực đóng góp
thiết thực cho cộng đồng, giữ vai trò quan trọng trong đời
sống kinh tế - xã hội ở từng địa bàn.
Cụ thể: “giai đoạn 2000-2010, có 331.605/348.753
(chiếm 95.08%) hộ đăng ký tham gia xây dựng GĐVH; và
320.851 (92%) hộ được công nhận GĐVH; trong đó có
107.729 hộ giữ vững danh hiệu trên 10 năm, trên 5 năm và
dưới 10 năm là 163.324 hộ; 321 hộ được tỉnh cấp giấy chứng
nhận GĐVH tiêu biểu, xuất sắc; giai đoạn 2011-2015, xét
công nhận danh hiệu GĐVH hàng năm và 3 năm liên tục,
cuối năm 2015 có 329.306/348.753 (94.42%) hộ được công
nhận GĐVH; trong đó có 282.823 (85.88%) hộ giữ vững
danh hiệu 3 nămliên tục”. [4, tr. 3]


b/. Phong trào xây dựng “cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp
đạt chuẩn văn hóa”
Được sáng tạo và tổ chức thực hiện trong toàn tỉnh từ
năm 2000, phong trào xây dựng “cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp văn hóa” được thực hiện đều khắp ở các công sở,
doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang và phát triển phong
phú, đa dạng về loại hình. “Kết quả toàn tỉnh có 2120/2186
“cơ quan-đơn vị văn hóa” (đạt 94.19%)” [4, tr.10].
Từ năm 2013 đến nay, tiếp tục phát triển các nội dung
vận động xây dựng ĐSVH và thực hiện quy trình công nhận
lại “Cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa” theo
quy định mới với các phong trào, tiêu chí rất cụ thể. Đến cuối
năm 2015, có trên 2.000 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong
tỉnh đăng ký xây dựng theo chuẩn mới và đã kiểm tra công

nhận lại 878 “Cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn
hoá”.
c/. Xây dựng ĐSVH trong hệ thống tổ chức Công đoàn:
Tổ chức Công đoàn phát động cán bộ, đoàn viên công
đoàn và người lao động tham gia xây dựng ĐSVH trong cơ
quan, đơn vị và nơi cư trú với các nội dung chủ yếu như: bồi


dưỡng, nâng cao trình độ, nhận thức về mọi mặt, rèn luyện tay
nghề, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động,
xây dựng mối quan hệ hài hòa, tiến bộ trong doanh nghiệp....
Các tiêu chí, nội dung được cụ thể hóa gắn với việc thực
hiện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh và trở thành việc làm thường xuyên.
Thông qua các hoạt động, người lao động được rèn luyện và
phát huy dân chủ, tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, ý thức
tự giác; tham gia xây dựng môi trường làm việc năng động,
sáng tạo, thân thiện, hiệu quả; hưởng ứng tích cực nhiều
phong trào thi đua, góp phần to lớn vào kết quả chung của
từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và là lực lượng nòng cốt
vận động gia đình xây dựng GĐVH.
- Phong trào xây dựng "Ấp, khu phố văn hóa”, xây dựng
“Xã, phường, thị trấn văn hóa”; “Xã đạt chuẩn văn hóa
NTM”, “Phường, thị trấn đạt chuẩn VMĐT”góp phần nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa, tỉnh thần của người dân ở
các cộng đồng dân cư
a/. Cuộc vận động xây dựng "Ấp, khu phố văn hóa"


Ở Bến Tre cuộc vận động được hình thành từ những năm

1997, năm 2000 trở thành phong trào và lan tỏa rộng mạnh
gắn kết chặt chẽ với Cuộc vận động “TDĐKXDĐSVH ở
KDC” do Ủy bản Trung ương MTTQ Việt Nam phát động.
Các nội dung, tiêu chí, chỉ tiêu khá toàn diện cụ thể, có kế
thừa và phát triển vững chắc trên cơ sở nền tảng là xây dựng
và nâng chất danh hiệu GĐVH và lồng ghép phong trào của
các ngành, đoàn thể.
Đồng thời, gắn kết với cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, danh hiệu "Ấp, khu
phố văn hoa" tiếp tục được giữ vững và phát triển với nội
dung trọng tâm về giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng
khơi dậy tình đoàn kết, quyền làm chủ, tính tự quản của cộng
đồng, xây dựng môi trường sống trong sạch, lành mạnh.
Từ xây dựng danh hiệu "Ấp, khu phố văn hóa", nhiều
phong trào, nội dung phát triển kinh tế - xã hội đã được gắn
kết thực hiện đồng bộ, góp phần nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa, tinh thần, nâng cao chất lượng cuộc sống của
ngươi dân, cụ thể như: phong trào “sinh hoạt văn hóa - văn
nghệ”, “thể thao quần chúng” cũng phát triển rộng khắp; xây
dựng “xã hội học tập” đạt nhiều kết quả tốt; mạng lưới


trường, lớp tiếp tục được kiên cố hóa; xã hội hóa giáo dục có
nhiều chuyển biến tích cực; công tác y tế, chăm sóc sức khỏe
nhân dân ngày càng hoàn thiện; công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em được chú trọng, đảm bảo các quyền cơ bản của trẻ em; đạt
các mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản về “bình đẳng giới”; công tác
chăm lo các đối tượng chính sách, xã hội, đoàn kết giúp nhau
giảm nghèo được sự quan tâm của cộng đồng.
Năm 2009, toàn tỉnh đã hoàn thành công nhận 100% xây

dựng "Ấp khu phố văn hóa"; từ năm 2011 đến nay, việc xây
dựng, duy trì và nâng chất "Ấp khu phố văn hóa" đã và đang
có sự phối hợp, song hành, gắn kết chặt chẽ và làm tiền đề
cho chương trình xây dựng NTM và VMĐT.
Có thể khẳng định, phong trào xây dựng "Ấp, khu phố
văn hoá" trong tỉnh đã có sức lan tỏa nhanh, mang tính toàn
diện, được xem là phong trào nền cho các phong trào khác.
Cơ sở quan trọng của phong trào là hoạt động của Tổ NDTQ
từ đây đã phát huy vai trò tự quản, thắt chặt tình làng nghĩa
xóm, nâng cao ý thưc tự giác, tự nguyện tham gia thực hiện
các cuộc vận động, phong trào do địa phương phát động, góp
phần nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tỉnh thần của
ngươi dân ở từng cộng đồng dân cư.“Giai đoạn 2000-2010,


toàn tỉnh có 12.735/13.500 (chiếm 94.33%) tổ NDTQ vững
mạnh”. [4, tr. 5]
b/. Xây dựng “Xã, phường thị trấn đạt chuẩn văn hóa”
Từ năm 2001, trên cơ sở đỉnh cao của phong trào xây
dựng "Ấp khu phố văn hóa”, BCĐ tỉnh đã sáng tạo, đề xuất
xây dựng “Xã, phường, thị trấn văn hóa” và triển khai đồng
bộ trên toàn tỉnh. Danh hiệu “xã văn hóa” (phường, thị trấn)
được công nhận đầu tiên vào năm 2002, toàn tỉnh đạt 100%
vào tháng 9/2015.
Với sự phát triển của phong trào, trên cơ sở hoàn thành
việc xây dựng xã thị trấn văn hóa, năm 2006 huyện Châu
Thành xây dựng và tổ chức triển khai thưc hiện Đề án “huyện
đạt chuẩn văn hóa” và được tỉnh công nhận "Huyện đạt tiêu
chí huyện văn hóa giai đoạn 2006 - 2010” vào năm 2010.
Tính đến hết năm 2015 toàn tỉnh có 100% “xã đạt chuẩn văn

hóa”.
c/. Xây dựng “Xã đạt chuẩn VH-NTM”, “Phường, thị
trấn đạt chuẩn VMĐT”


Năm 2011, theo quy định của Trung ương, toàn tỉnh phát
động, triển khai và đăng ký thực hiện danh hiệu“Xã đạt chuẩn
VH-NTM” gắn với xây dựng “Xã NTM”; “Phường (thị trấn)
đạt chuẩn VMĐT” trên cơ sở duy trì, nâng chất “xã văn hóa”.
Đến nay, tỉnh có trên 20 “Xã đạt chuẩn VH-NTM”.
- Cuộc vận động “TDĐKXDĐSVH ở KDC”
Cuộc vận động “TDĐKXDĐSVH ở KDC” có nội dung
rất toàn diện là nền tảng cơ bản và vững chắc cho việc xây
dựng và nâng chất ấp, khu phố văn hóa, trong nhiều năm qua
luôn được nhân dân đồng tình hưởng ứng, tham gia thưc hiện
05 nội dung cơ bản là:
a/. “Đoàn kết xây dựng đời sống kinh tế ổn định và từng
bước phát triển chung sức xây dựng NTM, ĐTVM”
Xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, giao thông nông thôn,
“trong đó, nhân dân đã đóng góp 161 tỷ đồng và 1.650.000
ngày công lao động” ...”[4, tr.5]; chuyển đổi cơ cấu sản xuất,
tổ chức sản xuất hàng hóa, phát triển hình thức tổ chức sản
xuất liên kết, đa dạng hóa ngành nghề, bảo tồn và phát triển
làng nghề, ngành nghề truyền thống. Đặc biệt, cuộc vận động
“Ngày vì người nghèo” ngày càng thu hút đông đảo tổ chức,


cá nhân tham gia, tạo được hiệu ứng tốt trong xã hội, góp
phần kéo giảm hộ nghèo. “Giai đoạn cuối 2015, vận động
nhân dân đóng góp được 1.094,5 tỷ đồng để hỗ trợ trên các

lĩnh vực”.[ 4,tr.5]
b/. “Đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá tinh thần lành
mạnh, phong phú”
Vận động nhân dân giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa,
tôn tạo di tích văn hóa lịch sử; thực hiện nếp sống văn minh,
tuân thủ quy ước của cộng đồng, xây dựng mới các điểm sinh
hoạt, vui chơi, giải trí cộng đồng. Tổ chức các hoạt động
chăm sóc sức khỏe, rèn luyện thân thể, trang bị kiến thức về
bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình. Tổ chức các
phong trào khuyến học, khuyến tài. Tổ chức tốt “Ngày hội
ĐĐKTDT” (18/11)....
c/. “Đoàn kết xây dựng môi trường cảnh quang sạch
đẹp”
Từ tuyên truyền vận động, người dân có ý thức và tích
cực tham gia đảm bảo vệ sinh môi trường tạo cảnh quan
chung, cải thiện điều kiện sống... “Kết quả có trên 80% hộ có
đủ 03 công trình hợp vệ sinh (95% hộ sử dụng nước hợp vệ


sinh, 42% hộ nông thôn sử dụng nước sạch, 58% hộ có hố xí
tự hoại)”[4, tr.6]
d/. “Đoàn kết phát huy dân chủ, chấp hành tốt đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh”
Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục và vận động,
ý thức trách nhiệm và thực hiện nghĩa vụ công dân được nâng
cao. Tính tự quản, xây dựng và đấu tranh tham gia giám sát và
xây dụng hệ thống chính trị, góp phần làm lành mạnh môi
trường xã hội được phát huy tốt ở từng địa bàn.
e/. “Đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng”

Phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc và các
phong trào có tính thời sự, nhiều hoạt động thể hiện tính
tương trợ cao, có sự tham gia của nhiều thành phần xã hội đã
được phát huy tốt, tiếp tục vun đắp ý nghĩa nhân văn sâu sắc
trong các hoạt động của cộng đồng.“Hỗ trợ BHYT cho 36.921
lượt đối tượng con liệt sỹ, xây dựng 3.500 nhà tình nghĩa cho
gia đình chính sách, kinh phí hơn 164 tỷ đồng; 1744 căn nhà
tình nghĩa cho người có công”. [4, tr.6]


Cuộc vận động TDĐKXDĐSVH ở khu dân cư đã mang
lại hiệu quả thiết thực, đạt kết quả tốt. Từ cuộc vận động này
đã phát triển manh phong trào xây dựng “giao thông nông
thôn”, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện gan, gắn
kết với việc “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”.
* Nguyên nhân:
- Có sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh, sự giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh; luôn xác
định đây là phong trào nền, là cơ sở bền vững để xây dựng
nông thôn mới và văn minh đô thị, từ đó có quyết tâm và sự
phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ trong thực hiện của cả hệ
thống chính trị từng cấp. Trước yêu cầu phát triển mạnh mẽ
của Phong trào, tỉnh đã vận dụng, cụ thể hóa những quy định
của Trung ương để ban hành các nội dung, tiêu chí, chỉ tiêu
cho từng danh hiệu phù hợp với điều kiện từng địa phương,
để xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng phong trào tại
tỉnh theo từng giai đoạn.
- Nội dung trong Phong trào rất phong phú, đa dạng,
toàn diện, thiết thực, thể hiện được “ý Đảng lòng dân”, phù



hợp và có tác động tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội
của từng địa phương và của tỉnh, gắn kết nhiều tiêu chí về
kinh tế, văn hóa - xã hội ở cơ sở. Các hoạt động của Phong
trào mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng, đáp ứng
nguyện vọng của quần chúng nhân dân, nên nhận được sự
đồng thuận, hưởng ứng tích cực của toàn xã hội, không phân
biệt thành phần, giới tính, tuổi tác, tín ngưỡng... tạo thành sức
mạnh to lớn để thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu của Phong trào.
- Ban Chỉ đạo các cấp đều có xây dựng Quy chế tổ chức
và hoạt động, có phân công trách nhiệm cụ thể, kịp thời thay
đổi, bổ sung khi có biến động nhân sự, đảm bảo điều hành
Phong trào liên tục, xuyên suốt. Các ngành, MTTQ và các
đoàn thể đều có kế hoạch triển khai các hoạt động Phong trào
gắn với nhiệm vụ chỉ tiêu thi đua của hệ thống mình, xác định
cụ thể đối tượng, chỉ tiêu và giải pháp để thực hiện các phần
việc từ xây dựng cho đến nâng chất từng danh hiệu. Trong
thực hiện có sáng tạo nhiều mô hình hay, cách làm mới, mang
lại hiệu quả, kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng,
tạo được sự phấn khởi và khí thế thi đua sôi nôi trong toàn
dân.


- Công tác tuyên truyền, vận động được chú trọng đúng
mức, đặc biệt là đã coi trọng công tác dân vận. Những kinh
nghiệm về công tác tuyên truyền vận động thường xuyên
được trao đổi, hướng dẫn và vận dụng phù hợp với từng địa
bàn. Nội dung tuyên truyền, vận động phù hợp với nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân, tác động trực tiếp đến từng đối

tượng, chủ yếu thuyết phục và khích lệ vai trò chủ thể của
quần chúng; phương pháp tuyên truyền, vận động rất đa dạng
sáng tạo, kiên trì... góp phần to lớn trong việc nâng cao nhận
thức, thay đổi nếp nghĩ va nếp sống người dân có hành động
tích cực, chủ động hơn trong tham gia xây dựng ĐSVH ở
từng cơ sở.
- Những hạn chế trong việc phát huy sức mạnh khối
ĐĐKTDT trong xây dựng ĐSVH ở tỉnh Bến Tre hiện nay
Quá trình Đảng bộ tỉnh Bến Tre thực hiện chiến lược
ĐĐKTDT trong xây dựng ĐSVH, bên cạnh những kết quả đạt
được vẫn còn một số hạn chế:
- Về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh với công tác dân vận
vẫn còn một số cấp ủy Đảng trực thuộc Đảng bộ tỉnh chưa
nhận thức đúng được tầm quan trọng của khối ĐKDT. Công


tác chỉ đạo và triển khai xây dựng, sự phối hợp giữa các
ngành, đoàn thể các cấp trong tổ chức thực hiện từng lúc từng
nơi chưa đồng bộ, đôi lúc chưa chặt chẽ, thiếu cụ thể. Công
tác kiểm tra giám sát ởcác cấp chưa được tổ chức thực hiện
thường xuyên. Công tác hướng dẫn có lúc chưa kịp thời, đôi
khi có chồng chéo. Việc kiểm điểm trách nhiệm thực hiện
nhiệm vụ ở các cấp chưa chú trọng đúng mức. Nhận thức của
một số cán bộ, đảng viên còn thấp, không chịu phấn đấu học
tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, ảnh hưởng
không nhỏ đến các mặt phát triển của xã hội. Mặt khác, dân
trí còn thấp dẫn đến ý thức trách nhiệm hạn chế và nhận
thứcnghiêng về lối sống thực dụng..Từ đó gây ảnh hưởng đến
việc phát huy sức mạnh khối ĐĐKTDT. Nhiều nơi có lúc đã
có dấu hiệu sa sút.

- Vai trò của MTTQ tỉnh và các đoàn thểnhân dân chưa
phát huy đúng mức, còn gặp phải nhiều khó khăn về hoạt
động, còn lúng túng trước những chuyển biến mới của xã
hội.Một bộ phận cán bộ, đàng viên trong MTTQ và các đoàn
thể nhân dân chưa thật sự hiểu rõ về xây dựng ĐSVH là cần
phải phát huy sức mạnh ĐĐKDT; thậm chí còn một bộ phận
không nhỏ chưa nắm hết được quy trình, thủ tục công nhận


các danh hiệu văn hóa. Việc bình xét công nhận danh hiệu văn
hóa nhiều nơi còn dễ dãi; các nội dung, tiêu chí, danh hiệu
lồng ghép còn hình thức, chưa chú trọng chất lượng. Bên cạnh
đó việc khen thưởng biểu dương các khu dân cư, hộ GĐVH
tiên tiến còn hạn chế, chưa kịp thời Một số gia đình cán bộ,
đảng viên, đoàn viên, hội viên chưa thực sự gương mẫu để
nhân dân noi theo. Một bộ phận người dân mất lòng tin vào
cách làm của nhà nước.
- Việc đầu tư từ ngân sách, công tác xã hội hóa để đóng
góp tăng nguồn kinh phí cho sự nghiệp văn hóa (hoạt động,
xây dựng các thiết chế văn hóa thể thao), thu hút đầu tư trên
lĩnh vực văn hóa, thể thao... còn hạn chế. Một số thiết chế văn
hóa, thể thao đã được Nhà nước hỗ trợ, đầu tư xây dựng
nhưng chưa đươc khai thác sử dụng đúng mức, đúng mục
đích...Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nhìn chung còn thiếu sự
quan tâm đầu tư đúng mức của cấp trên và địa phương để
nâng chất lượng phục vụ và phát triển về nhu cầu văn hóa.
Bên cạnh thiếu sự tập trung vận động thực hiện xã hội hóa
trong lĩnh vực văn hóa - văn nghệ, thể dục thể thao. Các
phong trào văn hóa văn nghệ thể dục thể thao còn nặng tính tự



phát, trong khi nhu cầu hưởng thụ văn hóa của của nhân dân
ngày càng cao.
- Các đơn vị, địa phương đã được công nhận danh hiệu
văn hóa đều có chung biểu hiện thỏa mãn thành tích. Các tiêu
chí, chỉ tiêu chưa đạt (còn nợ khi công nhận danh hiệu văn
hóa) tuy có nhiều cố gắng, nhưng nhiều nơi và nhiều năm
chưa được quan tâm khắc phục. Một số địa phương chưa có
kế hoạch nâng chất cụ thể, hoặc có nhưng rất chung chung,
chưa có giải pháp cụ thể. Quy ước khu dân cư văn hóa còn
mang tính hình thức, sao chép, chưa thật phù hợp với thực tế
từng địa phương và chưa đi vào lòng người.
Do đời sống của nhân dân còn gặp phải rất nhiều khó
khăn, một bộ phận lớn nông dân trong tỉnh nhất là nông dân
các xã vùng xa, giáp biển, đời sống còn quá thấp, không có
công ăn việc làm, còn xảy ra phổ biến nhiều hộ phải làm thuê,
cầm cố mộng đất, vay nặng lãi, đi làm ăn xa..


* Nguyên nhân
Những mặt tồn tại hạn chế đó là do:
- Nhận thức về tầm quan trọng của công tác dân vận, mặt
trận, công tác vận động nhân dân của một số nơi còn hạn chế.
Chậm thể chế hóa Nghị quyết của Đảng nhất là công tác tuyên
truyền, phổ biến chính sách pháp luật, công tác vận động
tuyên truyền chưa gắn con người với thực tiễn cuộc sống đặt
ra. Chưa thực sự quán triệt quan điểm đáp ứng lợi ích thiết
thực của nhân dân, nên còn hạn chế, ít coi trọng và đi sâu vận
động nhân dân.
- Sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp uỷ có lúc thiếu sâu sát

nên chưa linh hoạt, đưa ra chủ trương, chính sách phù hợp với
ý nguyện và nhận thức của đồng bào nên sức huy động quần
chúng đôi khi chưa đạt được như mong muốn. Một số chủ
trương, chính sách của chính quyền tỉnh chưa thể hiện đầy đủ
quan điểm ĐKDT, trong việc thực hiện các chính sách, đường
lối của Đảng bộ, chính quyền tỉnh còn nhiều thiếu sót.
- Sự chỉ đạo thống nhất và đồng bộ giữa vai trò lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò vận động, tổ
chức thực hiện của Mặt trận và các đoàn thê ở nhiều noi còn


bất cập, không rõ ràng, chồng chéo, có nơi khoán trắng chưa
tạo những điều kiện cần thiết để xây dựng khối ĐĐKDT.
- Quy mô, mô hình khu dân cư không đồng nhất, nơi thì
quá lớn, nơi quá nhỏ, đặc điểm về điều kiện hoạt động khác
nhau. Trong khi đó việc tổng kết thực tiễn đúc rút kinh
nghiệm chưa được quan tâm đúng mực.
- Ngoài ra, mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động
đến nhiều cộng đồng dân cư trong tỉnh, sự suy thoái về đạo
đức lối sống của một bộ phận thanh niên, lối sống thực dụng,
ích kỷ, tình làng, nghĩa xóm bị xói mòn. Ý thức công dân,
chấp hành kỷ cương, chính sách, pháp lụât của một bộ phận
nhân dân còn yếu. Các thế lực thù địch bên ngoài ra sức phá
hoại khối đoàn kết của tỉnh.
- Thời tiết diễn biến phức tạp, tình hình biến động giá cả
thị trường, thiên tai, dịch bệnh„. ảnh hưởng đến đời sống và
sản xuất, phần nào tác động đến sự tích cực của người dân
trong duy trì, nâng chất các danh hiệu văn hóa đã được công
nhận.
- Các văn bản chỉ đạo thực hiện phong trào của cấp có

thẩm quyền trong giai đoạn mới đôi lúc chưa thống nhất và


đồng bộ giữa xây dựng ĐSVH với NTM; cùng lúc có nhiều
danh hiệu, dẫn đến cơ sở lúng túng trong triển khai thực hiện.
Các quy định thực hiện Phong trào đều thiếu những chế tài
nên chưa có biện pháp cụ thể đối với những nơi có biểu hiện
sa sút làm ảnh hưởng đến phong trào chung. Việc hướng dẫn
của cấp tỉnh, huyện vẫn đôi lúc chưa đồng bộ, nhiều chỉ tiêu
đề ra khá cao, tạo ra biểu hiện chạy theo thành tích, ít chú
trọng nâng chất các danh hiệu. Công tác thi đua khen thưởng
có thực hiện nhưng chưa đủ sức tác động, khích lệ mang tính
bền vững.
- Vai trò lãnh đạo của các BCĐ đôi lúc chưa quan tâm
đúng mức, còn một số thành viên thiếu tâm huyết trong lãnh,
chỉ đạo, phối hợp. Một số nội dung, tiêu chí, danh hiệu lồng
ghép của các ngành, đoàn thể chưa được chỉ đạo thường
xuyên, chưa hướng dẫn cụ thể, thiếu kiểm tra, giám sát theo
hệ thống dọc, tạo sự lúng túng, chưa thống nhất cao trong quá
trình thực hiện tại cơ sở. BCĐ một số địa phương đã được
công nhận danh hiệu văn hóa có xu hướng thoả mãn thành
tích, tập trung xây dựng NTM, có biểu hiện xem nhẹ vai trò
của xây dựng ĐSVH. Thiếu kiên trì tuyên truyền vận động
phát huy vai trò chủ thể của người dân, một số việc còn làm


thay, “ứng phó” với kiểm tra, dẫn đến một bộ phận nhân dân
có biểu hiện bàng quan, ỷ lại, thiếu chủ động gìn giữ nâng
chất các tiêu chí GĐVH.
- Một số giải pháp nhằm phát huy sức mạnh khối

ĐĐKTDT trong xây dựng ĐSVH ở tỉnh Bến Tre hiện nay
- Nâng cao sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính
quyền từ tỉnh đến cơ sở
Tập trung lãnh, chỉ đạo, điều hành, phối hợp, nhân dân,
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đồng tình
hưởng ứng xây dựng “xã, phường, thị trấn văn hóa”; “xã đạt
chuẩn văn hóa NTM”; “phường, thị trấn đạt chuẩn VMĐT”;
“cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa”. BCĐ các
cấp cần quán triệt “Nghị quyết Trung ương 5 – khóa VIII của
Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc sân tộc”.Song song với đó cần phải chú
trọng Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước” tại hội nghị lần thứ 9.Mặt khác, Nghị quyết Ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ X cần được vận dụng,


×