Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Sáng kiến kinh nghệm: Dạy học Tập làm văn theo hướng phát triển năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.35 KB, 14 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn mang tính tích hợp cao
và thể hiện rõ sự sáng tạo của học sinh. Bởi lẽ bản thân việc vận dụng ngôn ngữ để
nói, viết, trình bày tư tưởng của một cá nhân trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ
thể là hoạt động mang tính sáng tạo. Bên cạnh đó, trong khi làm văn, học sinh sẽ
phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt, kinh nghiệm sống và kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ để thể hiện suy nghĩ, quan điểm của bản thân trước một vấn đề.
Căn cứ vào nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" dã nhắc đến vấn đề “Đối với giáo dục phổ
thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công
dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền
thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận
dụng kiến thức vào thực tiễn”. Từ đó ta thấy được, việc dạy học theo định hướng
phát triển năng lực là một trong những vấn đề quan trọng và cần được quan tâm
đến trong giai đoạn giáo dục hiện tại.
Với tình hình lớp học hiện tại, tôi nhận thấy trong các tiết Tập làm văn các em
thường kém sôi nổi, chưa tập trung; vốn từ của các em vẫn còn hạn chế. Đối với
dạng văn nói: các em học sinh yếu thường ỷ lại vào các bạn khá giỏi, dẫn đến ngại
giao tiếp, lẫn tránh nhiệm vụ, nói nhỏ, không biết nói, không diễn tả được ý tưởng
của mình bằng lời. Đối với dạng văn viết: học sinh tôi còn khá lúng túng trong việc
lựa chọn từ ngữ để diễn đạt trọn ý, lời văn các em còn khuôn mẫu, khô khan, việc
sử dụng dấu câu trong việc diễn đạt ý còn lung tung, chưa chuẩn xác.
Chính vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn và thực hiện đề tài: “ Một số biện
pháp dạy học Tập làm văn theo định hướng phát triển năng lực”
1



2. Mục tiêu nghiên cứu:
-

Hình thành cho học sinh năng lực nói, viết trong phân môn Tập làm văn

- Tạo sự hứng thú, học tập hiệu quả trong phân môn Tập làm văn
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài đã được thực hiện theo các phương pháp sau:


Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu lí thuyết về đặc điểm nhận

thức của học sinh Tiểu học, các khái niệm liên quan đến năng lực, năng lực
đặc thù trong phân môn Tập Làm văn


Phương pháp điều tra, khảo sát: Thực hiện vào đầu năm học và cuối năm

học


Phương pháp thống kê: Thực hiện vào đầu năm học và cuối năm học

4.

2


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lý luận:
1.1.

Đặc điểm nhận thức của lứa tuổi tiểu học:
1.1.1. Trí nhớ:

Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic.
 Giai đoạn lớp 1, 2: Ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu
thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Ghi nhớ của các em chủ yếu vẫn là ghi
nhớ không chủ định. Các em chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa
biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây
dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu mà đặc biệt, các em chỉ ghi nhớ những gì
mình thích hoặc những gì gây ấn tượng mạnh mẽ, tác dộng đến cảm xúc,
tình cảm của mình. Điều gì càng tác động mạnh mẽ đến tình cảm, xúc cảm
của các em, càng thu hút sự chú ý của các em thì các em sẽ ghi nhớ điều đó
một cách dễ dàng và nhớ lâu hơn.
 Giai đoạn lớp3, 4, 5: Ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường.
Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có
chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí
tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay
hứng thú của các em...
1.1.2. Chú ý:
Ở Tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều
khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ định chiếm ưu thế hơn
chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có
đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc có cô giáo
xinh đẹp, dịu dàng,... Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững,
chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.
3



1.1.3. Ngôn ngữ:
Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt
đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu
hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà
trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá
bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Ngôn ngữ có vai trò hết sứ quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và
lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ
phát triển dễ dàng và được thể hiện thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ.
1.1.4. Tưởng tượng:
Tưởng tượng của học sinh tiểu học dã phát triển phong phú hơn so với trẻ
mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dặn. Tuy
nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và
dễ thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình
ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát
triển ở giai đoạn cuối tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ
tranh. Đặc biệt, tưởng tượng của các em bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình
cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm
của các em.
1.2.

Một số khái niệm:
1.2.1. Năng lực:

Năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất
định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân
khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... Năng lực của cá nhân được đánh giá qua

phương thức và kết quả hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của
cuộc sống.
4


1.2.2. Năng lực chung:
Năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ một người nào cũng
cần có để sống, học tập và làm việc. Các hoạt động giáo dục (bao gồm các môn
học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo) với khả năng khác nhau nhưng đều hướng
tới mục tiêu hình thành và phát triển các năng lực chung của học sinh.
Cấu trúc năng lực chung, cốt lỗi:
a) Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân:
- Năng lực tự học
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Năng lực tư duy
- Năng lực tự quản lý
b) Nhóm năng lực về quan hệ xã hội:
- Năng lực hợp tác
- Năng lực giao tiếp
c) Nhóm năng lực công cụ:
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)
- Năng lực sư dụng ngôn ngữ
- Năng lực tính toán
1.2.3. Năng lực ngôn ngữ:
Năng lực ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động: nghe, nói, đọc,
viết. Trong đó, phân môn Tập làm văn tâp trung phát triển chủ yếu 2 dạng đó là
năng lực nói và năng lực viết.
a) Năng lực nói:
Năng lực nói bao gồm:
+ Năng lực phát âm: phát âm đúng các phụ âm, nguyên âm, âm tiết Tiếng

Việt.
5


+ Năng lực đặt câu để nói được ý trọn vẹn, đúng ngữ điệu, thể hiện đúng
suy nghĩ cá nhân, bộc lộ tình cảm thích hợp.
+ Năng lực thực hiện các hành động ngôn ngữ một các hiệu quả: kể, trình
bày, báo cáo, hỏi, yêu cầu, đề nghị, khuyên.
+ Năng lực độc thoại, đối thoại trong gia đình, lớp học, nhà trường và
trong cuộc sống.
+ Năng lực nói về một nội dung cho trước.
+ Năng lực thuyết phục: nói đúng chủ đề, lập luận logic, nhất quán.
+ Năng lực phát biểu ý kiến, thuyết trình, thuyết minh, giải thích trước
đám đông.
+ Năng lực đối thoại, trao đổi, thỏa thuận, đàm phán.
b) Năng lực viết:
Năng lực viết bao gồm:
+ Năng lực viết đúng: chuyển từ âm thanh sang chữ viết.
+ Năng lực viết đúng chính tả, sử dụng dấu câu thích hợp.
+ Năng lực viết câu phản ánh đúng tư tưởng, suy nghĩ của cá nhân, bộc lộ
cảm xúc phù hợp.
+ Năng lực viết thư, lời nhắn cá nhân.
+ Năng lực điền các mẫu tờ khai.
+ Năng lực trích dẫn ý kiến người khác trong bài viết.
+ Năng lực viết đoạn văn, văn bản: miêu tả, kể chuyện, nhận xét đơn giản
(đối với học sinh tiểu học).
+ Năng lực viết các loại văn bản: thư, báo cáo, biên bản đơn giản.
+ Năng lực viết văn bản nghệ thuật: miêu tả, kể lại truyện đã đọc, đã
nghe…
6



2. Cơ sở thực tiễn:
Căn cứ vào nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" dã nhắc đến vấn đề “Đối với giáo dục phổ
thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công
dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống,
đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn”. Từ đó ta thấy được, việc dạy học theo định hướng phát
triển năng lực là một trong những vấn đề quan trọng và cần được quan tâm đến
trong giai đoạn giáo dục hiện tại.
Với tình hình lớp học hiện tại, tôi nhận thấy trong các tiết Tập làm văn các em
thường kém sôi nổi, chưa tập trung; vốn từ của các em vẫn còn hạn chế. Đối với
dạng văn nói: các em học sinh yếu thường ỷ lại vào các bạn khá giỏi, dẫn đến ngại
giao tiếp, lẫn tránh nhiệm vụ, nói nhỏ, không biết nói, không diễn tả được ý tưởng
của mình bằng lời. Đối với dạng văn viết: học sinh tôi còn khá lúng túng trong việc
lựa chọn từ ngữ để diễn đạt trọn ý, lời văn các em còn khuôn mẫu, khô khan, việc
sử dụng dấu câu trong việc diễn đạt ý còn lung tung, chưa chuẩn xác.
Chính vì thế ngay từ đầu năm học 2018-2019, tôi đã tiến hành khảo sát thông
qua phiếu hỏi về “Mức độ hào hứng đón chờ của các em trong môn Tập làm văn”,
“ Các vấn đề khó khăn, chán khi học Tập làm văn” thì tôi đã thu thập được kết quả
như sau:
Bảng thống kê “Mức độ hào hứng đón chờ của các em trong môn Tập làm văn”
Mức độ hào hứng
Tiết làm văn nói

Tiết làm văn viết


Tỉ lệ

Hào hứng

10/35 (28,6%)

Bình thường

20/35 (57,1%)

Chán

5/35 (14.3 %)

Hào hứng

2/35 (5,7 %)
7


Bình thường

15/35 (42,9%)

Chán

18/35 (48.6%)

Bảng thống kê “Các vấn đề khó khăn, chán khi học Tập làm văn”

Các vấn đề khó khăn, chán khi họcTập làm văn

Tỉ lệ

Tiết

Tiết học không sinh động

9/35(25,7%)

làm

Sợ nói, sợ kể lại câu chuyện trước lớp

30/35(85,7%

văn
nói

Tiết

)
Không biết nói từ đâu, sử dụng từ ngữ như thế nào để

30/35(85,7%

diễn tả được ý tưởng của mình

)


Không biết viết, không có ý tưởng

25/35(71,4%

làm

)

văn

Không biết diễn đạt ý như thế nào

viết

Không biết đặt dấu câu

28/35(80%)
5/35(14,3%)

Qua việc khảo sát, tình hình thực tế tại lớp tôi thấy được sự hào hứng và
mong đợi trong Tập làm văn rất ít. Và nguyên nhân dẫn đến tình trạng này đa phần
đều là do các năng lực về nói và viết của các em còn hạn chế: các em ngại nói,
không biết lựa chọn các từ ngữ để diễn đạt ý tưởng của mình, không nắm được
cách đặt dấu câu…
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
2.1.

Biện pháp 1: Dạy học chú trọng tích hợp và lồng ghép


Với tình trạng học sinh không có ý tưởng khi nói và viết là do các em chưa
thật sự hiểu rõ chủ đề, các em chưa đủ vốn hiểu biết về chủ đề đó. Trong khi đó,
nội dung của phân môn Tập làm văn, tập đóc, chính tả, luyện từ và câu, tập viết
đều sẽ hướng về cùng một chủ đề của tuần đó.
Chính vì vậy, để chuẩn bị cho tập làm văn trong tuần, tôi thường hướng các
theo chủ đề, khai thác nội dung các bài học của các phân môn trước đó để cung cấp
8


cho học sinh vốn từ, cách thể hiện ý tưởng của tác giả, các cách diễn đạt hay, các
biện pháp hỗ trợ cho việc diễn đạt.
Ví dụ: Để chuẩn bị cho bài tập làm văn viết với đề tài “ Kể về buổi đầu đi học
của em”:
+ Trong tiết tập đọc: “ Nhớ lại buổi đầu đi học” tôi đã tập trung khai thác nội
dung bài theo các câu hỏi sau:
 Điều gì hiến tác giả nhớ tới buổi tựu trường? Còn đối với em điều gì
khiến em nhớ đến buổi tựu trường? Buổi tựu trường của chúng ta là vào
tháng mấy?
 Trong ngày đến trường đầu tiên vì sao tác giả thấy cảnh vật xung quanh
có sự thay đổi lạ? Cảnh vật trên đường ngày đầu tiên em đi học có
những gì?
 Những hình ảnh nào trong bài nói lên sự bỡ ngỡ, rụt rè của đám học trò
mới? Khi đến trường, tâm trạng em thế nào, biểu hiện của em khi ấy ra
sao?
 Em hãy chia sẻ ngắn gọn về ngày đầu tiên đi học của em?
+ Trong tiết Luyện từ và câu: thông qua việc mở rộng vốn từ về trường học,
tôi cung cấp cho các em các vốn từ chỉ các hoạt động trong trường học gắn
với kỉ niệm của các em trong ngày đầu đến trường. Đồng thời, tôi còn cho các
em gợi ý để sử dụng biện pháp so sánh để nói về quang cảnh của buổi đầu đi
học và chú ý cho học sinh việt đặt dấu phẩy, dấu chấm hợp lý.

2.2.

Biện pháp 2: Tạo không khí lớp học sôi động, hào hứng

Việc học sinh có cảm giác chán trong giờ học Tập làm văn cũng do một phần
cách truyền đạt, tổ chức dạy học của giáo viên.
Chính vì điều đó, tôi đã cố gắng:
+ Chuẩn bị các video, hình ảnh minh họa cho chủ đề sẽ nói và viết.
9


+ Luân phiên trong việc thay đổi tổ chức hoạt động nhóm vừa tạo môi trường
học tập mới, vừa tạo sự gắn kết, phối hợp ăn ý giữa các em.
+ Tăng cường tổ chức các trò chơi học tập: trò chơi tiếp sức viết văn mỗi em
sẽ viết 1 câu và cùng tạo ra một câu chuyện (luyện cho học sinh cách liên kết các ý
với nhau), trò chơi phóng viên, nhà tranh luận nhỏ tuổi, trò chơi lấp khoản trống
thông tin…
2.3.

Biện pháp 3: Tạo động lực, thói quen nói trước đám đông

Việc học sinh ngại nói là do học sinh sợ sai và chưa chuẩn bị tốt tâm thế, cách
thức để nói trước đám đông. Xác định được nguyên nhân đó, tôi đã:
+ Tạo không khí gần gũi giữa giáo viên và học sinh, tránh việc mắng chửi, trách
phạt khi học sinh nói sai, để từ đó giúp các em mạnh dạn khi phát biểu ý kiến
+ Hướng dẫn học sinh cách viết nháp sườn ý cho bài nói, sử dụng các que nói (theo
màu) để em các luyện tập nói đầy đủ các phần để hạn chế việc các em không nhớ
mình đang nói đến đâu: màu vàng (mở đầu); màu xanh (nội dung bài nói, nếu có
nhiều ý thì các em sẽ chọn nhiều que xanh), màu đỏ là kết thúc phần nói.
+ Tổ chức hoạt động mô tả tranh và vẽ lại: học sinh sẽ mô tả cho bạn mình biết các

hình ảnh, sự việc có trong bức tranh góc để bạn của mình có thể thực hiện vẽ lại.
Lúc này, tôi đã luyện cho học sinh của mình cách quan sát và diễn đạt lại mọi thứ
bằng lời nói.
+ Tổ chức các buổi nói chuyện, thảo luận, tranh luận về các vấn đề mang tính thời
sự, gắn với đời sống hiện thực để tạo sự hứng thú của các em.
2.4.

Biện pháp 4: Tạo thói quen viết đúng, viết đủ, viết hay

Để học sinh khắc phục được việc viết sai, không biết viết, không biết sắp xếp
ý, sai dấu câu…Tôi đã:
+ Tạo cho các em thói quen viết nháp, triển khai các ý theo sơ đồ rễ cây, sơ đồ tư
duy,…để từ đó các em kiểm soát được việc nên viết ý nào trước, ý nào sau.
+ Thay đổi các đề bài hướng tiếp cận theo quan điểm giao tiếp
10


+ Tổ chức trò chơi viết tiếp sức: mỗi em sẽ viết một câu để tạo ra một câu chuyện
có nghĩa. Ở đây, đòi hỏi học sinh phải biết cách liên kết các sự kiện ở câu trước để
tạo ra câu có nghĩa và phù hợp
+ Trò chơi viết dấu câu: nhằm nhắc các em việc đặt dấu câu hợp lý
+ Cho học sinh cùng nghe đọc các bài cảm thụ văn học để xây dựng cho học sinh
những vốn từ hay, từ mới, ngôn ngữ văn chương
+ Tạo thói quen kiểm tra lại bài
C. KẾT LUẬN:
1. Kết quả của việc thực hiện biện pháp:
Sau khi kết hợp các biện pháp, tôi nhận thấy các em đã có sự chuyển biến
trong việc học Tập làm văn, các em đã mạnh dạn hơn trong văn nói, có nhiều ý
tưởng hay trong việc viết văn.
Bảng thống kê “Mức độ hào hứng đón chờ của các em trong môn Tập làm văn”

cuối năm
Mức độ hào hứng
Tiết làm văn nói

Tỉ lệ

Hào hứng

20/35 (57,1%)

Bình thường

12/35 (34,3%)

Chán
Tiết làm văn viết

3/35 (8.6 %)

Hào hứng

10/35 (28,6 %)

Bình thường

23/35 (65,7%)

Chán

12/35 (34,3%)


Bảng thống kê “Các vấn đề khó khăn, chán khi học Tập làm văn”
Các vấn đề khó khăn, chán khi họcTập làm văn

Tỉ lệ

Tiết

Tiết học không sinh động

2/35(5,7%)

làm

Sợ nói, sợ kể lại câu chuyện trước lớp

13/35(37,1%

văn

)
11


nói

Không biết nói từ đâu, sử dụng từ ngữ như thế nào để

12/35(34,3%


diễn tả được ý tưởng của mình

)

Tiết

Không biết viết, không có ý tưởng

5/35(14,3%)

làm

Không biết diễn đạt ý như thế nào

văn

Không biết đặt dấu câu

14/35(40%)
3/35(8,6%)

viết
2. Kết luận trong quá trình triển khai:
Trong quá trình triển khai tôi nhận thấy, việc dạy học Tập làm văn theo định
hướng phát triển năng lực là điều vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, việc dạy học Tập
làm văn theo định hướng phát triển năng lực này cần được triển khai lâu dài ở các
khối lớp để mang lại hiệu quả tốt hơn.
3. Kiến nghị, đề xuất:
- Là GV ở bậc tiểu học,t ôi nghĩ rằng GV cần phải : Tăng cường sử dụng các
phương tiện, đồ dùng dạy học, đổi mới cách đánh giá, kiểm tra. Bên cạnh đó người

giáo viên phải có lòng nhiệt tình,tâm huyết trong việc giảng dạy.
- Dành thời gian để nghiên cứu bài, lập kế hoạch bài dạy, dự kiến trước những tình
huống có thể xảy ra để đề ra những biện pháp khắc phục kịp thời.
- Theo dõi, quan tâm, giúp đỡ mọi đối tượng học sinh. Tạo điều kiện để tất cả các
em đều được hoạt động. Tổ chức cho các em tự phát hiện, tìm tòi ra kiến thức mới
từ đó sẽ phát huy được óc tư duy sáng tạo, tính độc lập, tự giác cho các em.
- Tôi cũng mong nhà trường tổ chức các chuyên đề định hướng, hướng dẫn, hỗ trợ
giáo viên trong công tác dạy tập làm văn sao cho hiệu quả.
Quận 5, ngày 10 tháng 10 năm 2019
Người viết sáng kiến

Lâm Thị Thu Thảo
12


13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Tuyết (2015), Lý luận dạy học Tiếng Việt – Phần II, NXB Thời Đại
2. Nguyễn Quang Uẩn (2009), Tâm lý học đại cương, NXB Đại học Sư Phạm
3. Bài viết “ Dạy học làm văn theo hướng phát triển năng lực” của Giáo dục thời
đại

14



×