Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và vấn đề dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực Đinh Phan Cẩm Vân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.83 KB, 7 trang )

Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________


68

TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ VÀ VẤN ĐỀ DẠY HỌC
NGỮ VĂN THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC

ĐINH PHAN CẨM VÂN
*

Một nền giáo dục tiến bộ được cắm rễ trong kinh nghiệm
(John Dewey)

TÓM TẮT
Đổi mới không phải là phá bỏ hoàn toàn cái cũ. Có những điều của quá khứ vẫn còn là
bài học cho hiện tại. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử cũng là một góc tham chiếu cho công
cuộc đổi mới giáo dục Việt Nam nói chung và đổi mới dạy học Ngữ văn nói riêng.
Từ khóa: Khổng Tử, giáo dục, năng lực, ngữ văn.
ABSTRACT
Confucius’s Educational Thought
and the Issue of Language and Literature Competence-Driven Teaching
Innovation is not outright destruction of the old. Some lessons from the past remain
useful to us. Confucius’s educational thought serves as an implication for Vietnam’s
educational innovation in general and the agenda of Language Arts and Literature teaching
innovation in particular.
Keywords: Confucius, education, competence, language arts and literature.

1. Đặt vấn đề
Cái lí của tồn tại là biến đổi, đổi mới.


Đổi mới dạy học, đổi mới dạy học Ngữ văn
không phải lần đầu tiên được đặt ra. Nhưng
rồi, dường như càng đi về phía tương lai
chúng ta càng bất ngờ khi có nhiều gặp gỡ
với tiền nhân. Đó không phải quán tính từ
truyền thống mà là những vấn đề được đúc
rút thành quy luật luôn có sức sống vững
bền, các thế hệ sau vẫn có thể vận dụng,
học tập.
Thời đại Khổng Tử sống cách chúng
ta đã hơn hai nghìn năm. Xã hội Tây Chu
còn đang ở giai đoạn cuối nô lệ, đầu phong
kiến nhưng trí tuệ Trung Hoa đã thực sự
bừng nở (Xuân ThuChiến quốc). Phong
trào Bách gia tranh minh làm nảy sinh tầng
lớp người mới, tầng lớp trí thức  “sĩ”. Các
nhà lập thuyết bấy giờ tấp nập chiêu nạp
môn sinh, đến các nước chư hầu thuyết
phục vua chúa dùng đường lối chính trị của
mình. Cuộc đời họ có thể thay đổi nhanh
chóng “sáng áo vải, chiều khanh tướng”.
Các nhà lập thuyết đồng thời cũng là
những người thầy. Họ đều có rất đông học
trò. Với Khổng Tử, tương truyền, ông có
tới hơn ba ngàn học trò. Sự nghiệp chính
trị của ông chỉ năm năm, gần như ông dành
trọn đời cho sự nghiệp giáo dục. Khổng Tử
có nhiều quan điểm giáo dục tiến bộ, nhiều
học trò thành tài, được tôn vinh là “Vạn thế
sư biểu”. Về phương pháp dạy học của

Khổng Tử, soi vào phương hướng dạy học
phát triển năng lực trong lĩnh vực Ngữ văn
ở Việt Nam hiện nay có những điểm gặp
gỡ, tương đồng.
Bài viết không nhằm mục đích phân
tích nội dung tư tưởng giáo dục của Khổng
Tử, cũng không nhằm khẳng định hay phủ
định tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có

*
TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đinh Phan Cẩm Vân
_____________________________________________________________________________________________________________



69

ưu, nhược hay tích cực, tiêu cực ở điểm
nào. Chúng tôi chỉ xem xét ở phương pháp
giáo dục của ông, cách ông nhìn về vai trò
của văn chương (môn Văn) trong sự hình
thành, phát triển năng lực con người. Nho
giáo phát triển qua nhiều giai đoạn, không
ít vấn về do người đời sau thêm bớt; có thể
trung thành với tư tưởng Nho giáo nguyên
thủy, có thể là sự bóp méo, chỉnh sửa, bồi
đắp theo yêu cầu lịch sử (chẳng hạn vấn đề
“Tam cương” là sản phẩm của Hán Nho,
“Tôn thiên lí, diệt nhân dục” là của Tống

Nho ). Những điều chúng tôi đề cập ở đây
là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, tư
tưởng giáo dục của Nho giáo thời kì đầu.
2. Nội dung
2.1. Phương pháp dạy học gợi mở
Chỉ dạy cho những người mong
muốn hiểu biết. “Không tức bực vì không
hiểu được, thì ta không bảo cho mà biết,
không hậm hực vì không nói ra được, thì ta
không bảo cho mà nói, nêu một góc mà
không biết xét đến ba góc khác thì ta không
bảo lại vậy” (Thuật nhi, Luận ngữ).
Đó là tinh thần chung trong giảng
dạy của Khổng Tử. Nếu như giai cấp thống
trị trước kia coi học tập là đặc quyền của
tầng lớp thống trị, thì Khổng tử đã phá vỡ
theo tinh thần mới, cởi mở hơn và đúng với
bản chất của vấn đề hơn. Quan niệm “Hữu
giáo vô loài” của Khổng Tử chính là xuất
phát từ niềm khao khát được học, được
hiểu biết của người học. Ông thu nhận tất
cả các môn sinh, không câu nệ xuất thân ở
tầng lớp nào, lễ vật nhiều hay ít. Ông cho
rằng khi người học trò muốn học thì việc
giảng dạy mới thực sự có hiệu quả. Quá
trình học phải biến thành quá trình tự học,
tự tìm tòi, trở thành niềm say mê của mỗi
cá nhân.
Hình thức dạy học của thầy trò
Khổng Tử trước kia là hình thức đàm đạo,

trao đổi, biện bác. Luận ngữ là cuốn sách
của học trò ghi lại những lời dạy, đúng hơn
là những đoạn tranh luận, trao đổi giữa
Khổng Tử và học trò. Người đưa ra vấn đề
không nhất thiết là người thầy. Người thầy
cũng không phải là người coi ý kiến mình
là chân lí, buộc học trò chấp nhận. Người
thầy, trong quá trình tranh luận sẽ là người
có khả năng đưa ra ý kiến thỏa đáng nhất,
có lí nhất.
Trong giáo dục của Việt Nam hiện
nay, phương hướng dạy học gợi mở, dẫn
dắt vấn đề đang được hết sức coi trong.
Đối với bộ môn Ngữ văn, hình thức lên lớp
của người thầy là đưa ra hệ thống câu hỏi
theo một số tiêu chí nhất định để thâm
nhập bài học. Hệ thống câu hỏi có thể từ dễ
đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng, từ chi
tiết đến khái quát Điều này phụ thuộc vào
ý đồ của thầy cô giáo cũng như năng lực
của đối tượng tiếp nhận. Nhìn chung, dạng
câu hỏi phổ biến có tính chất dẫn dắt, gợi
ý; một số trường hợp người thầy đưa ra
nhận định chưa chính xác để kiểm tra
thông tin, nhận thức của học trò. Người
thầy không còn truyền thụ kiến thức một
chiều mà luôn lắng nghe những ý kiến
tham gia của học trò. Quá trình học tập trở
thành quá trình tương tác.
Để thực hiện hoạt động dạy học theo

hình thức này có kết quả, người thầy phải
lắng nghe tất cả các ý kiến nhưng phải biết
dẫn dắt người học để giúp họ có cách tư
duy và lập luận đúng. Trong thời đại thông
tin, học trò được truy cập kiến thức từ rất
nhiều nguồn, người thầy càng phải cần
trang bị kiến thức nền, kiến thức chuyên
môn vững vàng, có quan điểm đối thoại rõ
ràng. Khi bàn về vấn đề chữ “hiếu”, trò Tử
Dư đã không đồng tình với Khổng Tử, cho
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________


70

rằng để tang cha mẹ ba năm là quá lâu.
Khổng Tử đã trả lời: Cha mẹ sinh ra ta, ba
năm đầu nuôi dưỡng rất cực nhọc. Cha mẹ
mất, để tang ba năm chính là trả ơn nuôi
dưỡng trong ba năm đầu đời đó. Một câu
chuyện khác: “Học trò Tử Cống thỉnh giáo
Khổng Tử rằng: “Người trong toàn thôn
đều yêu anh ta, người như vậy có được
không?” Khổng Tử nói: “Không được”. Tử
Cống chừng như có phần bất mãn, thế rồi
lại hỏi trái lại rằng: “Vậy thì người trong
toàn thôn đều căm hận anh ta, người như
vậy có được không?” Khổng Tử nói:
“Cũng không được. Đúng ra phải là: người

tốt trong toàn thôn đều yêu anh ta, người
xấu trong toàn thôn đều hận anh ta; người
như vậy mới được” [3, tr. 94]. Như vậy,
học theo phương pháp đàm đạo, gợi mở
đòi hỏi người thầy càng phải có lập luận
chắc chắn, biết cách dẫn dắt người học đi
tới chân lí.
Về phía học trò, phải có hiểu biết
nhất định mới đặt ra vấn đề cùng biện bác,
luận bàn. Thực tế, việc giảng dạy theo
phương hướng gợi mở mang tới nhiều
hứng thú cho học sinh nhưng cũng chỉ thực
sự hiệu quả với học sinh khá, giỏi. Bài
giảng được khai thác phong phú hơn, tránh
cảm tính, suy diễn chủ quan. Cách dạy này
không chỉ có kết quả tốt hơn về kiến thức
mà còn rèn cho học sinh sự tự tin, mạnh
dạn, dám đưa ra ý kiến bản thân. Học sinh
Việt Nam trước một bài luận, họ không
đưa ra những điều họ nghĩ mà nhớ xem
thầy cô đã giảng về nó thế nào, cố gắng
viết lại chính xác nhất. Về phía người thầy,
không ngại khi học sinh phản bác, đưa ra ý
kiến trái chiều, thậm chí “Không thẹn khi
hỏi người dưới” (Khổng Tử). Năng lực cá
nhân của thầy và trò đều được phát huy tối
đa. Người thầy trở thành một nhân tố của
quá trình biện bác không còn giữ vai trò
đấng toàn tri, đại diện cho chân lí. “Trong
giáo dục, người thầy là người xây dựng

một cộng đồng hợp tác” [2, tr. 121].
Phương pháp dạy học gợi mở và hoạt
động giáo dục theo tương tác còn có tác
dụng lớn trong phân hóa giáo dục. Theo
định hướng đổi mới giáo dục Việt Nam sau
2015, sẽ thực hiện phân hóa từ phổ thông
trung học. Khoa học cho thấy, năng lực cá
nhân mỗi người không hoàn toàn giống
nhau. Chúng tôi tán thành quan điểm, kiến
thức phổ thông nên dạy theo hướng tích
hợp đến bậc trung học cơ sở, bước sang
bậc trung học phổ thông nên phân hóa,
phân hóa để có những tăng/giảm phù hợp
với năng lực. Chúng tôi cũng không tán
thành quan điểm, ngành/ môn nào cao quý
hơn, giá trị hơn. Có một thời ở bậc phổ
thông chúng ta chỉ coi trọng các môn Toán,
Lí, Hóa. Sinh thời, khi giảng dạy, Khổng
Tử đã luôn dựa vào khả năng của mỗi học
trò để có những lời dạy phù hợp nhất. Tuy
rằng cách thức còn đơn sơ, đơn lẻ nhưng
chứa đựng tư tưởng mới về giáo dục dựa
trên phẩm tính, năng lực mỗi người. “Học
trò Tử Lộ hỏi: “Nghe thấy đã làm được
ngay chưa?”. Khổng Tử nói: “Các bậc cha
mẹ anh còn đang sống, sao có thể vừa nghe
đã có thể tự mình làm ngay nhỉ?”. Học trò
là Nhiễm Hữu lại hỏi: “Nghe thấy đã làm
được ngay chưa?” Khổng Tử nói: “Được!
Nghe thấy thì làm ngay đi!” Một học trò

khác thấy Khổng Tử cùng lúc trả lời một
vấn đề mà mâu thuẫn như thế đã rất thắc
mắc, Khổng Tử trả lời: “Nhiễm Hữu làm
việc bình thường thì hay sợ sệt, cho nên ta
muốn có mạnh bạo. Mà cái mật của Tử Lộ
thì lớn gấp đôi người ta, cho nên ta muốn
đè ép bớt đi” [3, tr. 95]. Ông đã giảng dạy
và định hướng trên cơ sở của bản tính, khí
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đinh Phan Cẩm Vân
_____________________________________________________________________________________________________________



71

chất vốn có ấy. Phương pháp đàm đạo, tạo
cơ hội cho người thầy tiếp xúc và lắng
nghe, đồng thời quan sát người học, biết
được khả năng từng người. Đây cũng là
chỗ để thấy người thầy có thực sự là một
nhà giáo dục hay không, có khả năng hiểu
biết con người hay không. Quá trình giảng
dạy của người thầy và quá trình người trò
tự nhận thức về bản thân sẽ giúp định
hướng phát triển năng lực cho học trò. Đó
cũng là góp phần thực hiện phân hóa giáo
dục. Mục đích của giáo dục chính là giúp
học sinh trưởng thành, bước vào đời thành
công.
2.2. Phát triển năng lực giao tiếp và

quan điểm “Bất học thi vô dĩ ngôn”
Chương trình và sách giáo khoa ở
Việt Nam sau 2015 sẽ đổi mới theo hướng
phát triển năng lực của người học. Mỗi bộ
môn, dựa vào đặc thù, xác định sẽ phát
triển năng lực gì ở học sinh. Việc xác định
này ở từng bộ môn chưa hoàn toàn thống
nhất. Môn Ngữ văn cũng đang trong tình
trạng như thế. Tuy vậy, một trong những
đích phát triển năng lực của môn Ngữ văn
được nhiều ý kiến đồng tình, là phát triển
năng lực giao tiếp (đọc, nói, nghe, viết).
Đọc và nghe là năng lực tiếp nhận; nói và
viết là năng lực thể hiện. Đọc gì, nghe gì là
điều không đơn giản. Trong thời đại bùng
nổ thông tin điều đó càng là sự thách thức
đối với đối tượng tiếp nhận. Sự lựa chọn
thông tin đã bao hàm năng lực quan sát,
đánh giá. Từ việc đọc và nghe, học sinh
phải biết cách vận dụng để tạo ra các văn
bản nói và viết. Từ đó rèn luyện khả năng
tư duy độc lập, trình bày vấn đề, biện luận,
biện bác theo chủ kiến bản thân. Những
yêu cầu này đối với giáo dục Việt Nam nói
chung có vẻ còn rất mới và con đường thực
hiện những thao tác trên chắc chắn không
dễ dàng. Mô hình giáo dục truyền giảng
một chiều ngấm vào máu nhiều thế hệ
khiến quá trình học tập trước nay là quá
trình rất thụ động. Thay đổi thói quen tư

duy, cách thức làm việc là tất yếu nhưng
không thể một sáng một chiều. Thực tiễn
đòi hỏi giáo dục phải đổi mới, bộ môn Ngữ
văn sẽ góp phần tích cực đào tạo ra thế hệ
học sinh chủ động và tự tin hơn, góp phần
đánh thức ý thức cá nhân, khơi gợi những
năng lực tiềm ẩn trong mỗi con người.
Người cách chúng ta hơn hai ngàn
năm, Khổng Tử, không chỉ luôn phát huy
khả năng quan sát, nắm bắt vấn đề của mỗi
cá nhân mà còn xác định rất rõ mục tiêu
học tập môn Văn, thấy được vai trò của
môn Văn trong việc rèn luyện khả năng
giao tiếp. Tuy nhiên cũng phải nói công
bằng, vấn đề phát triển năng lực giao tiếp
trong môn Văn ngày nay có những cơ sở lí
luận tốt hơn thời Khổng Tử, khi việc dạy
học để phát triển năng lực giao tiếp được
dựa trên những kết quả nghiên cứu của lí
thuyết và thực nghiệm công phu, tập trung
thành bốn kỹ năng cơ bản: nghe, đọc, nói
và viết. Với Khổng Tử, ông chỉ phát biểu
ngắn gọn “Bất học Thi vô dĩ ngôn” 
không học thơ (Kinh thi) không có gì để
nói. (Sách Tả truyện cũng nhấn mạnh lại
quan điểm này: “Ngôn chi vô văn, hành nhi
bất viễn”  lời nói không có văn không thể
đi xa được). Cái “nói” ở đây cũng được
giới hạn cụ thể là giao tiếp, ngoại giao với
các nước chư hầu. Bấy giờ các nhà thuyết

khách muốn thuyết phục các chính khách,
hoặc muốn cuộc du thuyết của mình thành
công rất cần nói năng uyển chuyển, hoa
mỹ, biết vận dụng lí lẽ của Kinh thi. Mặc
dù phạm vi giao tiếp chỉ trong tầng lớp quý
tộc nhưng điều đó cho thấy Khổng Tử đã
luôn gắn nôi dung, mục đích môn học với
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________


72

yêu cầu thực tiễn.
Mối liên hệ cần làm sáng tỏ ở đây là
trong nội dung của Kinh thi, cũng như nội
dung giảng dạy Ngữ văn sắp tới cần đạt tới
những vấn đề cụ thể gì để việc giảng dạy
Ngữ văn ngày càng đi đúng đặc trưng và
có ý nghĩa thiết thực. Kinh thi là sách giáo
khoa dạy học trò, và như vậy, học Kinh thi
không chỉ dừng ở việc để biết gì mà còn là
để làm được gì. Kinh thi là tác phẩm văn
chương phản ánh mọi mặt của đời sống xã
hội cổ đại Trung Quốc, được biên soạn
theo tinh thần Nho giáo. Tư tưởng Nho
giáo trở thành đầu mối xâu chuỗi, tập hợp
các tác phẩm. Ở đây chúng tôi không bàn,
không khẳng định nội dung học tập của
Nho giáo còn hợp thời hay không, hay

đang trở thành lực cản đối với các nước
phương Đông, mà nhìn nhận trên phương
diện phương pháp luận để thấy trong việc
phát triển năng lực giao tiếp bộ môn Ngữ
văn còn phải bao hàm việc trang bị những
căn cốt của văn hóa, tư tưởng dân tộc, tư
tưởng thời đại. Bốn thao tác đọc, nghe, nói
viết vận dụng có hiệu quả, đòi hỏi những
tác phẩm văn chương trong chương trình
giáo khoa phải có khả năng tích hợp lớn.
Điều quan trọng hơn cả là cần có một tư
tưởng thống nhất và quán xuyến toàn bộ
nội dung sách giáo khoa Ngữ văn. Tư
tưởng ấy là điểm tựa để biên soạn nội dung
sách giáo khoa Ngữ văn các cấp. Chúng ta
có thể kì vọng, một chương trình học Văn
ở nhà trường phổ thông sẽ giúp con người
Việt Nam hình thành nên những nếp nghĩ,
nếp tư duy, nhân sinh quan, thế giới quan
vững bền. Như vậy, để năng lực giao tiếp
phát triển, không chỉ đòi hỏi biết cách dùng
chữ, đặt câu, lập luận, tạo lập văn bản mà
còn là cách nhìn, cách nghĩ đúng đắn trong
môi trường văn hóa dân tộc tương thông
với thế giới. Khi có một nền tảng tư tưởng
chắc chắn, rõ ràng thì sự trình bày mới
rành mạch và tranh luận mới có ý nghĩa.
2.3. Phát triển năng lực thẩm mĩ và quan
niệm “Tiên học lễ, hậu học văn”
Hướng tới cái đẹp là một trong

những biểu hiện văn minh của xã hội loài
người. Có thể ở một giai đoạn nào đó của
dân tộc, vì chiến tranh, vì đói nghèo, nhu
cầu thẩm mỹ bị coi là xa xỉ, tiểu tư sản.
Trong cuộc đổi mới lần này, yêu cầu môn
Văn phát triển năng lực thẩm mỹ cho
người học là một cái nhìn tiến bộ, đúng đắn
và hợp lí. Nghĩa gốc của “văn” là đẹp (văn
vẻ), vẻ đẹp của hình thức bên ngoài. Khổng
Tử cho rằng, người quân tử phải rèn luyện
cả vẻ đẹp bên trong (chất) và vẻ đẹp bên
ngoài (văn) làm sao đạt đến độ “Văn chất
bân bân” (Sự hài hòa, không còn phân biệt
hình thức và nội dung).
Phát triển năng lực thẩm mĩ trong bộ
môn Văn sẽ không giống các ngành nghệ
thuật như hội họa, âm nhạc giúp con
người biết thế nào là một giai điệu đẹp,
một sắc màu đẹp Môn Văn giúp học sinh
có cái nhìn đúng đắn về cái đẹp: thế nào là
suy nghĩ đẹp, hành động đẹp, lời nói đẹp,
tâm hồn đẹp Từ những hiểu biết lí thuyết
biến thành ứng xử trong xã hội. Điều này
trong giảng dạy môn Văn trước nay không
phải người thầy không có ý thức hay không
làm mà là chưa đặt ra thành một mục đích
chính cần đạt đến trong quá trình giảng
dạy. Người thầy dạy Văn được mệnh danh
là “kĩ sư tâm hồn” chính vì ý nghĩa công
việc cao cả như thế.

Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”
là sự đúc rút từ tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử. Ở đây chúng tôi không bàn đến
nội dung của “văn” và “lễ” trong học
thuyết Nho giáo nhưng xét về phương
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đinh Phan Cẩm Vân
_____________________________________________________________________________________________________________



73

pháp, cách nghĩ/ làm của Khổng Tử vẫn có
sức thuyết phục. Nho giáo đã chú trọng
“dạy người” trước, dạy chữ sau. Trước hết
là học lễ  những quy định, chuẩn tắc của
con người, của xã hội loài người; tiếp đó là
văn hóa tri thức. (Thực ra không phải hết
quá trình này mới đến quá trình kia, cách
nói này nhằm nhấn mạnh việc rèn người
quan trọng hơn việc rèn tài).
Năng lực thẩm mĩ trong môn Văn
cần hướng tới mục đích rèn người. “Văn”
của con người là lời nói đẹp, hành động
đẹp, tức là những điều được biểu hiện ra
bên ngoài. Người Việt Nam có câu ca dao
ý nghĩa tương tự: “Lời nói không mất tiền
mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
“Văn” của con người còn được thể hiện
qua “lễ”  những quy định trong giao tiếp,

ứng xử, quan hệ. Nho giáo rất chú trọng
“tu thân”, luôn có ý thức trau dồi để bản
thân ngày càng đẹp đẽ hơn, cho đó là cái
gốc quyết định sự thành công của người
quân tử. Ở đây có thể sẽ có ý kiến phản
biện rằng, nếu dạy môn Văn như vậy,
chẳng khác nào dạy môn Đạo đức, Giáo
dục công dân. Đặc thù và sức mạnh của
văn chương chính là thông qua hình tượng
để bày tỏ tư tưởng. Do vậy khả năng cảm
hóa của văn chương mạnh hơn nhiều so với
những ngành khoa học xã hội tương cận.
Khổng Tử còn hiện đại hơn chúng ta nghĩ
khi dạy văn kết hợp với nghệ thuật. Kinh
thi là những khúc dân ca, nhạc cung đình,
tế lễ kèm theo vũ đạo. Những vấn đề của
luân lí Nho giáo đã được truyền đạt bằng
con đường nghệ thuật, như thế luân lí đã
trở thành món ăn không đến nỗi “khó
nuốt”. Cũng có thể có ý kiến phản biện
rằng, giáo dục ngày nay theo tinh thần khai
phóng việc đưa ra các hình mẫu, chuẩn tắc
là hết sức lỗi thời. Quả là một trong những
biện pháp giáo dục của Nho giáo là đưa ra
các hình mẫu, người người theo đó mà uốn
nắn, nhà nhà theo đó mà sửa mình. (Di họa
của cách thức này trong môn Văn là sự ra
đời văn mẫu). Sự khai phóng cá nhân là
cần thiết để đáp ứng nhu cầu thời đại mới,
nằm trong chuẩn mực xã hội mới yêu cầu.

Môn Văn giúp hình thành những con người
thời đại. Cái khó của giáo dục ngày nay ấy
là, xã hội đã thay đổi nhưng giáo dục vẫn
theo lối cũ.
Trong Đề án đổi mới giáo dục lần
này nhấn mạnh việc dạy người. Mô hình
con người Việt Nam được nêu lên là biết
yêu gia đình, Tổ quốc Đối với các quốc
gia phương Đông, với tư duy và quan điểm
của cư dân nông nghiệp định canh định cư,
luôn đề cao huyết thống lại hết sức tránh
hình thành “chủ nghĩa” gia đình, chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi.
3. Kết luận
Tri và hành là hai mặt không thể tách
rời trong đào tạo theo hướng phát triển
năng lực. Trước hết là phát huy tính chủ
động, vai trò tích cực của người học và sau
nữa là dựa vào đặc thù môn học để không
chỉ cung cấp kiến thức mà còn giúp người
học phát triển khả năng tư duy độc lập, kỹ
năng sống. Đổi mới không có nghĩa là phá
bỏ hết. Có nhiều điều từ quá khứ vẫn còn ý
nghĩa với hiện tại. Về mặt lí thuyết, dạy
học Ngữ văn theo hướng phát triển năng
lực là rất cần thiết. Tuy nhiên ở Việt Nam
từ lí thuyết đến thực tế dường như còn
khoảng cách rất lớn. Năng lực của đội ngũ
giảng dạy, nguồn tài liệu, trang thiết bị
những yếu tố cơ bản để giờ dạy Văn thành

công còn nhiều bất cập. Với đặc trưng của
môn Văn, theo cách dạy truyền thống, có
những giờ giảng văn trước kia, thầy cô
thực sự cuốn học sinh vào những suy nghĩ
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________


74

cảm xúc cá nhân, tạo được ấn tượng khó
quên. Với cách dạy mà chúng ta đang đặt
nhiều kỳ vọng phải làm sao tránh tình trạng
“băm nát” tác phẩm, những vấn đề trọng
tâm cần thiết học trò không nắm được mà
có khi chỉ nhớ vài hình ảnh nào đó mà thầy
cô trình chiếu. Giờ Văn phải tạo được cảm
hứng, lan truyền cảm hứng giữa thầy trò.
Xin đừng nghĩ, cảm hứng ở đây chỉ là vấn
đề cảm xúc mà chủ yếu là niềm vui sướng
khi hiểu ra chân lí. Từ đó giúp con người
trưởng thành hơn trong suy nghĩ, hành
động. Đích đến còn xa ngái nhưng không
thể không bước. Giáo dục Việt Nam nói
chung, môn Ngữ văn nói riêng đang đứng
trước sự lựa chọn các mô hình để học tập.
Việc học tập từ bên ngoài, là Đông hay
Tây, chỉ thực sự thành công khi chúng ta
hiểu đúng chính mình.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đàm Gia Kiện (chủ biên) (1993), Lịch sử Văn hóa Trung Quốc (Trương Chính và tác giả
khác dịch), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. John Dewey (2012), Kinh nghiệm và giáo dục (Phạm Anh Tuấn dịch), Nxb Trẻ,
TPHCM.
3. Phạm Quýnh (1999), Bách gia chư tử giản thuật (Nguyễn Quốc Thái dịch), Nxb Văn
hóa Thông tin, TP Hồ Chí Minh.
4. Hoàng Tụy, Mở đường cho giáo dục khai phóng, />duc/93624/mo-duong-cho-giao-duc-khai-phong.html, truy cập 20 giờ, 16-02-2014.
5. Bùi Mạnh Hùng, Để Ngữ văn trở thành môn học phát triển năng lực tư duy,
truy cập
22 giờ, 01-02-2014.

(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 28-01-2014; ngày phản biện đánh giá: 06-02-2014;
ngày chấp nhận đăng: 11-02-2014)


×