Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận cao cấp chính trị Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện Ngọc Hiển giai đoạn 2000 – 2005 và một số năm tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.28 KB, 32 trang )

Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Lời mở đầu
Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng bộ huyện Ngọc Hiển
(tỉnh Cà Mau) đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm (2000 – 2005) là: “Phát
huy thành tựu đạt được trong những năm đổi mới, tiếp tục đưa nền kinh tế –
xã hội phát triển toàn diện theo hướng: Xây dựng huyện Ngọc Hiển thành
vùng kinh tế năng động với lợi thế tài nguyên rừng – biển. Đầu tư có trọng
điểm, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng nhanh nhịp độ phát triển kinh tế.
Nêu cao tinh thần tự chủ sáng tạo, mở rộng hợp tác, liên kết, liên doanh, gọi
vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế, phát triển bền vững nông nghiệp nông
thôn. Quy hoạch dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng gắn với giải quyết việc làm,
giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong những năm đầu của
thế kỷ XXI”.
Về nhiệm vụ kinh tế – xã hội, Đại hội nêu rõ: “Tập trung chuyển đổi
sản xuất cây trồng, vật nuôi, cơ cấu kinh tế theo hướng lâm – ngư nghiệp –
thương mại dịch vụ và công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp”. (Văn kiện Đại hội
Đảng bộ huyện Ngọc Hiển lần thứ VIII 2000 – 2005).
Gần ba năm qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Ngọc Hiển đã vượt qua
nhiều khó khăn, thử thách, phấn đấu hoàn thành được một số chỉ tiêu phát
triển kinh tế – xã hội Đại hội đã đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích
đã đạt được vẫn còn một số thiếu sót, tồn tại nhất là trên lĩnh vực kinh tế;
trong đó có vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Là một thành viên trong Ban chấp hành Đảng bộ huyện, qua hai năm
học tập, với những kiến thức lý luận được trang bị và với một số vốn sống
thực tiễn được tích lũy, tôi chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện Ngọc Hiển giai
đoạn 2000 – 2005 và một số năm tới” để làm tiểu luận tốt nghiệp; mặt khác
lấy đó làm cơ sở lý luận và thực tiễn, góp phần vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của


Đảng bộ đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, từng bước thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện.
Nhân đây, tôi xin gửi đến Ban Giám đốc, thầy, cô các bộ môn, Phòng
quản lý đào tạo, các Phòng chức năng của Phân viện lời chân thành cảm ơn sự
nhiệt tình giảng dạy, quản lý, rèn luyện và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Trang 1


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Nội dung tiểu luận, ngoài lời mở đầu gồm có hai phần sau đây:
- Phần thứ nhất: Một số nhận thức cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phần thứ hai: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Ngọc
Hiển – Thực trạng và giải pháp.

Trang 2


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Phần thứ nhất
MỘT SỐ NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
I. NHẬN THỨC VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
1. Khái niệm
- Cơ cấu (hay kết cấu) là một phạm trù triết học, phản ánh cấu trúc bên
trong của một đối tượng, là tập hợp những mối quan hệ cơ bản, tương đối ổn
định giữa các yếu tố cấu thành nên đối tượng đó, trong một thời gian nhất

định.
Trong lĩnh vực kinh tế, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy
phân công lao động xã hội. Các ngành, các lĩnh vực được phân chia theo tổ
chức sản phẩm, chuyên môn kỹ thuật. Khi các ngành, các lĩnh vực kinh tế
hình thành, đòi hỏi phải giải quyết mối quan hệ giữa chúng. Mối quan hệ đó
vừa thể hiện hợp tác, sự hỗ trợ nhau, song cũng cạnh tranh nhau để phát triển.
Sự phân công và mối quan hệ hợp tác trong hệ thống, thống nhất là tiền đề
cho quá trình hình thành cơ cấu kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành của các yếu tố, các bộ phận,
các mặt, các khâu… với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác giữa chúng. Hợp
thành kết cấu của nền kinh tế quốc dân trong quá trình tái sản xuất xã hội.
2. Các loại cơ cấu kinh tế
Tùy theo những mục đích khác nhau, người ta có thể phân chia cơ cấu
kinh tế dưới những góc độ khác nhau. Do đó, có nhiều loại cơ cấu kinh tế.
- Cơ cấu ngành và khu vực kinh tế: Đây là bộ phận cơ bản, cốt lỏi của
cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế cho biết số lượng, tỷ trọng và vị trí của
các ngành chuyên môn hóa (như nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận
tải, du lịch, thương mại…) trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng; khu
vực (hay lĩnh vực) kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng hơn, ví dụ: Khu vực
nông nghiệp (khu vực I ), khu vực công nghiệp (khu vực II), khu vực dịch vụ
(khu vực III).
- Cơ cấu vùng kinh tế (hay cơ cấu lãnh thổ) là sự phân chia nền kinh tế
theo yếu tố địa lý, lãnh thổ. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế lịch
sử, xã hội, truyền thống, kinh nghiệm sản xuất… của mỗi vùng là hiện tượng
phổ biến trong tất cả các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, cơ cấu vùng kinh tế
cũng mang tính phổ biến ở mọi quốc gia. Cơ cấu vùng kinh tế phản ánh khả
Trang 3


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT


năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế – xã hội của mỗi vùng
lãnh thổ và sự liên kết, hỗ trợ, tác động giữa chúng, tạo ra sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Cơ cấu thành phần kinh tế phản ánh cơ cấu cả về mặt kinh tế, cả về
mặt xã hội. Nền kinh tế chỉ phát triển khi mọi lực lượng sản xuất được giải
phóng, các nguồn lực được huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả. Vì vậy,
sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất bảo đảm sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất, bảo đảm sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, tạo ra quá trình tái sản xuất mở rộng. Giải
quyết tốt vấn đề các thành phần kinh tế sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển; ngược lại, lực lượng sản xuất phát triển sẽ tạo ra năng suất lao động cao,
sản xuất có nhiều tích lũy, tạo điều kiện giải quyết công bằng và tiến bộ xã
hội, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
Ngoài ra còn có thể xem xét nhiều loại cơ cấu khác nhau như: Cơ cấu
tái sản xuất (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng), cơ cấu về quy mô (lớn,
vừa, nhỏ), cơ cấu về trình độ (thủ công, cơ khí, hiện đại).
Khi đề cập đến cơ cấu kinh tế là muốn nhấn mạnh đến tính ổn định của
cơ cấu kinh tế, còn khi đề cập đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế là muốn nhấn
mạnh đến sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế nhằm hình thành một cơ cấu kinh
tế hợp lý, hiệu quả.
3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đặc trưng của cơ cấu kinh tế là luôn luôn vận động, biến đổi. Vì vậy,
khi xem xét cơ cấu kinh tế thì cũng là xem xét sự chuyển dịch của cơ cấu kinh
tế đó.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chính là quá trình chuyển dịch các yếu tố
nguồn lực từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của con người trong quá trình phát triển. Khi thu nhập
cá nhân tăng, nhu cầu tiêu dùng về lương thực thực phẩm không tăng hoặc

tăng không đáng kể, trong khi đó nhu cầu tiêu dùng về các loại sản phẩm
công nghiệp và các loại hình hoạt động dịch vụ không ngừng tăng lên. Mặt
khác, trong quá trình sản xuất nông nghiệp, do được ứng dụng những thành
tựu khoa học, kỹ thuật đã làm cho năng suất lao động có xu hướng tăng lên,
ngược lại lao động có xu hướng giảm đi.

Trang 4


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Sự vận động, biến đổi của cơ cấu kinh tế diễn ra rất đa dạng giữa các
quốc gia có điều kiện kinh tế – xã hội và trình độ phát triển khác nhau, song
vẫn hình thành những xu hướng chung mang tính quy luật.
- Xu hướng chuyển từ một nền kinh tế khép kín sang một nền kinh tế
mở ngày càng liên kết chặt chẽ với bên ngoài.
- Sự chuyển dịch theo hướng tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm, khu
vực công nghiệp và dịch vụ (đặc biệt là dịch vụ) ngày càng tăng.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu ảnh hưởng tác
động của tất nhiều nhân tố. Tuy nhiên, có thể nêu ra các loại nhân tố chủ yếu:
- Nhu cầu xã hội: Nhu cầu xã hội chính là thước đo, mục tiêu để các
nhà doanh nghiệp lấy đó làm căn cứ, làm động lực thúc dẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất phát triển
do tác động của khoa học, kỹ thuật phát triển, phân công lao động xã hội diễn
ra một cách mạnh mẽ, lĩnh vực mới xuất hiện phá vỡ cơ cấu có trước đó để
hình thành cơ cấu mới.
- Vai trò của Nhà nước: Trong nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước
không can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp, nhưng Nhà nước quản lý thông qua các công cụ như luật, thuế, tín
dụng kế hoạch… để tác động vào nền kinh tế của xã hội.
- Xu hướng thời đại: Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ đã gắn nền sản xuất các quốc gia lại với nhau.
5. Một số tiêu chí đánh giá một cơ cấu kinh tế hợp lý
Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, điều có ý nghĩa rất quan
trọng là phải xác lập những mỗi quan hệ tỷ lệ cân đối và thường xuyên tác
động làm cho nền kinh tế chuyển từ trạng thái cân đối này sang trạng thái cân
đối khác cao hơn.
Cơ cấu kinh tế hợp lý là một cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình tái sản
xuất mở rộng. Cơ cấu kinh tế hợp lý có thể xem xét qua các tiêu chí chủ yếu
sau đây:
- Phù hợp với quy luật khách quan.
- Tạo điều kiện thực hiện tốt nhất các mục tiêu kinh tế – xã hội đã được
vạch ra.
Trang 5


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

- Khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế, đảm
bảo sự phát triển của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành phần, tạo khả năng
phát triển thuận lợi cho cả tổng thể và tích lũy nhiều nhất cho nền kinh tế
quốc dân.
II. NHẬN THỨC VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện thế
giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và một số nước đã
bắt đầu phát triển nền kinh tế trí thức. Bởi vậy, không chỉ chuyển lao động thủ
công thành lao động cơ khí hóa mà còn phải tranh thủ ứng dụng rộng rãi

những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại.
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nêu lên quan
điểm: “Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi
nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định” (văn kiện Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996, trang 85).
- Công nghiệp hóa trước đây được tiến hành theo cơ chế kế hoạch hóa,
tập trung quan liêu, bao cấp, với các chỉ tiêu pháp lệnh. Ngày nay, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng; thị trường phản ánh nhu cầu xã hội
sẽ quyết định việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, hình thành cơ cấu
kinh tế mới, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo.
- Công nghiệp hóa trước đây được coi là việc riêng của Nhà nước.
Ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững. Trong mọi chủ trương, chính sách phải nhằm
giải phóng tiềm năng của con người, thường xuyên quan tâm bồi dưỡng trí
tuệ, thể lực, sử dụng nhân tài. Nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, động
viên toàn dân cần kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nền kinh tế trước dây, trên thực tế đã xây dựng khép kín, hướng vào
ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Ngày nay, xây dựng nền kinh tế mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại trên cơ sở

Trang 6


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT


giữ vững độc lập chủ quyền; kết hợp kinh tế với quốc phòng – an ninh hướng
mạnh vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu.
- Phải lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác lập
phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng
lực sản xuất hiện có. Lựa chọn dự án đầu tư với những quy mô thích hợp,
từng ngành, lĩnh vực, địa phương, ưu tiên những dự án nhỏ và vừa, đòi hỏi ít
vốn, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh.
2. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nước ta từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội,
không qua chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, bởi vì:
- Chỉ có công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới có thể xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chế độ mới. Một mặt, kế thừa những thành quả đạt được
trong xã hội tư bản chủ nghĩa; mặt khác nó được phát triển và hoàn thiện nhờ
ứng dụng những thành tựu của chế độ mới, đó chính là nền công nghiệp tiên
tiến, trong đó ngành cơ khí chế tạo giữ vai trò then chốt, có đủ khả năng trang
bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng phát
triển sản xuất và nâng cao đời sống về mọi mặt cho nhân dân. Trong điều kiện
xu hướng toàn cầu hóa, kinh tế phát triển ngày càng sâu rộng thì cơ cấu nền
công nghiệp hiện đại có sự kết hợp chặt chữ giữa phân công và chuyên môn
hóa trong nước với phân công quốc tế, nhằm kết hợp tối ưu sức mạnh của
quốc gia và quốc tế, của dân tộc và thời đại.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra lực lượng sản xuất mới về chất,
tạo tiền đề cho sự hình thành nhiều mối quan hệ mới về kinh tế, xã hội, chính
trị. Trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa sẽ từng bước được hình thành, mở rộng và củng cố, đời sống của nhân
dân sẽ dần dần được cải thiện, liên minh công – nông – trí thức và chính
quyền Nhà nước sẽ được củng cố và kiện toàn, cách mạng tư tưởng văn hóa
sẽ có nhiều điều kiện thực hiện; giai cấp công nhân được trưởng thành về số
lượng và chất lượng. Sự giúp đỡ của công nghiệp đối với nông nghiệp, thành

thị đối với nông thôn được tăng cường, từng bước thực hiện sự bình đẳng về
kinh tế giữa các dân tộc, các tầng lớp dân cư, các vùng lãnh thổ. Điều đó đưa
đến sự thống nhất ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn là yêu cầu khách quan của việc
củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng của sự thống nhất giữa sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trang 7


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong
thời kỳ mới, đường lối kinh tế của Đảng ta được xác định là: “Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng
thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp với
phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, nhà xuất bản
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2001, trang 24)
3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa là quá trình hình
thành cơ cấu kinh tế mới
Hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế là một nội dung quan trọng khác
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự phát triển của cơ sở vật chất – kỹ thuật trong tiến trình công đại hóa

gắn liền một cách hữu cơ với quá trình phát triển phân công lao động xã hội;
quá trình hình thành các ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội…. Các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế tồn tại và hoạt động trong
tổng thể nền kinh tế thống nhất. Chúng có mối liên hệ tất yếu khách quan
dưới những hình thức tổ chức sản xuất nhất định, hình thành nên cơ cấu của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân như một chỉnh thể. Trong hệ thống cơ cấu đó, cơ
cấu ngành là quan trọng nhất, bao gồm những ngành giao thông vận tải, xây
dựng cơ bản và những ngành trong lĩnh vực phân phối lưu thông đủ sức phục
vụ cho công nghiệp, nông nghiệp phát triển thuận lợi.
Quá trình hình thành và hoàn thiện cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân diễn ra từng bước, gắn với các giai đoạn của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và mỗi bước tiến của cơ sở vật chất, kỹ thuật. Nói cách khác, sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, què quặt, ít hiệu quả sang cơ cấu hợp lý tối ưu,
có hiệu quả gắn liền với bước tăng trưởng cơ sở vật chất – kỹ thuật do quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra. Cơ cấu kinh tế quốc dân còn phải
trải qua nhiều bước chuyển dịch, thay đổi vị trí, vai trò của từng ngành và các
quan hệ tỷ lệ giữa các ngành nhằm đạt được yêu cầu khai thác tối đa và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực (lao động, vốn, khoa học – công nghệ, tài
Trang 8


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

nguyên thiên nhiên, trình độ quản lý) bên trong và bên ngoài, tạo ra nhiều sản
phẩm hàng hóa cho xã hội theo hướng “hình thành về cơ bản nền kinh tế công
nghiệp với với cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp – dịch vụ gắn với phân
công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, NXB ST, Hà Nội, trang 12).
III. ĐẢNG TA VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Đây là cốt lỏi của chiến lược kinh tế, là nhân tố quan trọng nhất quyết
định hiệu quả kinh tế quốc dân.
a. Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn.
Sở dĩ phải đặt vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn lên hàng đầu bởi vì hiện nay ở nước ta nông nghiệp vẫn còn “chiếm bộ
phận lớn trong kinh tế, mà sản xuất nhỏ lại chiếm bộ phận lớn trong nông
nghiệp. Vì nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng
thời là môt nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to
nhất hiện nay, cho nên cần phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có
cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác.
Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công
nghiệp hóa nước nhà. Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công
nghiệp mới có thể phát triển mạnh”.
Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một
trình độ mới bằng cách đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa,
đồng thời tranh thủ ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công
nghệ sinh học, theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp
với nhu cầu của thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng. Chú trọng tạo
và sử dụng giống cây, con có năng suất chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh
công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến để nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh của nông sản.
Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ đất, nguồn nước,
vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường.

Trang 9



Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đổi mới cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên dơn vị diện tích. Điều chỉnh quy
hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, nâng
cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu. Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu
tư thâm canh các vùng cây công nghiệp như cà phê, cao su, chè, điều, hạt tiêu,
dừa, dâu tằm, bông, mía, lạc, thuốc lá… hình thành các vùng rau, hóa, quả có
giá trị cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản, chế biến. Phát triển và nâng cao
chất lượng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm; mở rộng phương pháp nuôi
công nghiệp, gắn với chế biến sản phẩm, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong
nông nghiệp. Phát huy lợi thế về thủy sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi
nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực. Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.
Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở
nông thôn, nhất là tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thủy
lợi, ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ, bảo đảm tưới, tiêu an toàn, chủ động
cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân.
Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú
trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề,
chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực nông
nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới. Trên cơ sở đó từng bước tăng quỹ
đất canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất.
b. Phát triển công nghiệp:
Phát triển nhanh những ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế
cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, trước
hết là những ngành sử dụng nhiều lao động như may mặc, da, giầy… và
những ngành chế biến nông sản, thủy sản.
Đi nhanh vào một số ngành có công nghệ cao, nhất là công nghệ thông
tin, viễn thông, điện tử, tự động hóa. Chú trọng phát triển công nghiệp sản

xuất phần mềm tin học thành ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng vượt trội.
Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng sản
xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc
phòng: dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu
xây dựng… với bước đi hợp lý, phù hợp điều kiện vốn, công nghệ, thị trường,
phát huy được hiệu quả.
Phát triển các cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết, kết hợp công
nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng.

Trang 10


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ với ngành, nghề đa
dạng; xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và
hiện đại hóa. Tăng tỷ lệ nội địa hóa trong công nghiệp gia công, lắp ráp.
Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng
nhu cầu xây dựng trong nước, có năng lực đấu thầu công trình xây dựng ở
nước ngoài.
c. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương
mại, kể cả thương mại điện tử, hàng không, hàng hải và các loại hình vận tải
khác, bưu chính – viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo
hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường…. Sớm
phổ cập sử dụng tin học và Internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội.
Cần đặc biệt chú trọng việc nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động
thương mại để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu
quả; phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
d. Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế: giao thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước….

Phát triển năng lượng đi trước một bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế,
xã hội, bảo đảm an toàn năng lượng quốc gia. Phát triển mạng lưới thông tin
hiện đại và đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội đặc biệt là trong hệ thống lãnh đạo, quản lý và các dịch vụ
tài chính, thương mại, giáo dục, y tế, tư vấn….
1.2. Cơ cấu vùng kinh tế
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh: “… phát huy vai trò
của các vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích lũy lớn; đồng
thời tạo điều kiện phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng trọng
điểm tạo mức tăng trưởng khá” và “có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các
vùng khó khăn để phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân
trí, xóa đói giảm nghèo, đưa các vùng này vượt qua tình trạng kém phát
triển”. Như vậy, môt mặt phải chấp nhận sự chênh lệch trong sự phát triển
kinh tế – xã hội giữa các vùng, mặt khác phải tạo điều kiện cho mọi vùng đều
phát triển; Nhà nước thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò
đầu tầu tăng trưởng nhanh để kéo các vùng khác cùng tiến lên, chứ không
phải để bỏ rơi các vùng khác, nên phải đồng thời đầu tư thích đáng cho các
vùng khó khăn.
Việc hình thành và phát triển cơ cấu vùng kinh tế hợp lý phải gắn với
việc xây dựng thế trận quốc phòng – an ninh toàn dân nên phải quan tâm phát
Trang 11


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường quốc phòng – an ninh, nhất là ở các
vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, chú trọng
các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam.
Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết hợp
với bảo vệ vùng biển; mở rộng nuôi trồng và đánh bắt, chế biến hải sản, tiến

ra biển xa; khai thác và chế biến dầu khí; phát triển vận tải viễn dương, du
lịch, dịch vụ; phát triển các vùng dân cư trên biển, giữ an ninh vùng biển.
Về cơ cấu kinh tế, Nghị quyết Đại hội IX xác định có 4 khu vực: Khu
vực đô thị; khu vực nông thôn đồng bằng; khu vực nông thôn trung du, miền
núi; khu vực biển và hải đảo. Riêng khu vực biển và hải đảo, Nghị quyết Đại
hội IX nhấn mạnh: “Phát huy thế mạnh đặc thù của hơn một triệu km 2 thềm
lục địa. Tăng cường điều tra cơ bản đẩy mạnh nuôi, trồng, khai thác, chế
biến hải sản; thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí; phát triển đóng tàu
thuyền vận tải biển; mở mạng du lịch; bảo vệ môi trường; tiến mạnh ra biển
và làm chủ vùng biển. Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác
lợi thế của các khu vực cửa biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao,
thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra
biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển”.
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 còn nêu
những định hướng quan trọng phát triển 6 vùng lớn sau:
1. Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
2. Miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
3. Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung.
4. Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc).
5. Tây Nguyên.
6. Đồng bằng sông Cửu Long.
1.3. Cơ cấu các thành phần kinh tế
Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất
là một quan hệ sở hữu thích hợp, trong điều kiện lực lượng sản xuất phát triển
rất không đều giữa các ngành, giữa các vùng và thậm chí ngay trong nội bô
từng ngành, từng vùng, như ở nước ta hiện nay, thì tất yếu tồn tại nhiều loại
hình và hình thức sở hữu, do đó cũng tồn tài nhiều thành phần kinh tế. Nhà
nước cần có chính sách phù hợp với từng thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội.

Trang 12


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế tuân theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở
hữu tư nhân, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức
kinh tế đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
a. Kinh tế nhà nước:
Bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, các quỹ dự
trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm Nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu Nhà
nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế.
Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư
liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển
kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước định hướng
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của kinh tế nhà
nước, giữ những vị trí then chốt, phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã
hội và chấp hành pháp luật.
Để làm được như vậy, trong 5 năm tới phải cơ bản hoàn thành việc
củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động

của các doanh nghiệp hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà
nước, đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành lĩnh vực
then chốt và địa bàn quan trọng.
Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để
tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xóa bao cấp; doanh
nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất,
kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh
nghiệp. Có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối
với doanh nghiệp.
b. Kinh tế tập thể:
Trang 13


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là
nòng cốt, có thể dựa trên sở hữu tập thể (cả sở hữu pháp lý và chiếm hữu thực
tế, như các quỹ sử dụng chung trong hợp tác xã), cũng có thể quyền sở hữu
pháp lý vẫn thuộc về các thành viên nhưng quyền chiếm hữu thực tế và quyền
sử dụng lại mang tính chất tập thể.
Kinh tế tập thể là hình thức liên kết tự nguyện, rộng rãi của những
người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn, có thể kinh doanh tổng hợp, đa
ngành hoặc chuyên ngành.
Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công
nghệ thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác
xã, giải quyết nợ tồn đọng.
c. Kinh tế cá thể, tiểu chủ ( của nông dân, thợ thủ công, người làm
thương nghiệp và dịch vụ cá thể) dựa trên hình thức sở hữu tư nhân quy mô
nhỏ về tư liệu sản xuất và hoạt động dựa vào sức lao động của bản thân người

lao động và từng hộ là chủ yếu. Kinh tế cá thể, tiểu chủ được phát triển ở cả
nông thôn và thành thị, trong ngành nghề pháp luật không cấm. Nhưng nhìn
chung, đến một trình độ phát triển nhất định kinh tế cá thể, tiểu chủ sẽ bộc lộ
những mặt hạn chế, nhất là về quy mô vốn, trình độ công nghệ và khả năng
tiếp cận thị trường; vì vậy, một mặt Nhà nước cần tạo điều kiện và giúp đỡ
thành phần kinh tế này phát triển, mặt khác khuyến khích tự nguyện tổ chức
những hình thức hợp tác thích hợp hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác, hay là phát triển lớn hơn.
Phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn.
d. Kinh tế tư bản tư nhân gồm những đơn vị kinh tế dựa trên sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa, nghĩa là vốn thuộc quyền sở hữu của một hoặc một số
nhà tư bản, và sử dụng lao động làm thuê, dưới hình thức xí nghiệp tư nhân
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích
phát triển trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không
cấm.
Nhà nước tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý
để thành phần kinh tế này phát triển theo những định hướng ưu tiên của Nhà
nước, kể cả đầu tư nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ
phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và
kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao
động.
Trang 14


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

e. Kinh tế tư bản nhà nước phát triển dưới các hình thức liên doanh,
liên kết đa dạng giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước
và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
g. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được tạo điều kiện phát triển thuận

lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, gắn với
thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường
kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế tồn tại trong cùng một nền kinh tế quốc dân,
vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau cùng phát triển, không cô lập. Vì vậy,
cần chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp
nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước
và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phẩn nhằm huy
động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên
kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông
thôn.
2. Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đảng ta đã xác định nhiệm vụ trung của thời kỳ mới là: “Tiếp tcụ ắnm
vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một giai đoạn của một quá trình phát
triển xã hội, là sự biến đổi cơ cấu của nền kinh tế từ nền kinh tế nông nghiệp
và thủ công sang nền công nghiệp và dịch vụ với khoa học công nghệ hiện
đại. Giai đoạn này phải được đánh dấu sự thay đổi về tính hiệu quả, tính công
nghiệp, tính bền vững và phát triển.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta theo hướng xã hội chủ nghĩa với
6 nội dung Đại hội xác định như sau:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
- Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực, thực
phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; công nghiệp điện tử và công
nghệ thông tin…
- Xây dựng kết cấu hạ tầng.
- Phát triển nhanh du lịch và vùng lãnh thổ.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế và đối ngoại.
Thực chất của quá trình công nghiệp hóa là xây dựng cơ sở vật chất kỹ

thuật, phát triển lực lượng sản xuất (gắn với xây dựng quan hệ sản xuất phù
Trang 15


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất) của chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần IX tiếp tục xác định phải tập trung ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, vì vậy phải đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội IX của Đảng vẫn khẳng định các quan điểm
và định hướng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu trong Đại hội VIII đến
nay vẫn đúng và có giá trị chỉ đạo thực tiễn. Đại hội IX chỉ bổ sung và cụ thể
hóa thêm một số điểm:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh quốc tế những năm tới
phải chú ý nhiều đến yếu tố tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
cao đang phát triển nhanh. Cần tranh thủ vươn lên để tiếp nhận đưa vào nền
kinh tế thì mới phát triển nhanh được. Muốn vậy, phải rất coi trọng giáo dục –
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ trí thức khoa học, công
nghệ có trình độ cao và đội ngũ lao động kỹ thuật; xây dựng năng lực nội sinh
và khoa học công nghệ.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với quá trình chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để tạo điều kiện cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhanh, từng bước tiếp cận, bắt kịp xu thế, bước tiến chung của sự phát triển
kinh tế thế giới.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm phát triển nhanh nhưng
phải bền vững cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường sinh thái,
an ninh, quốc phòng, phát triển con người.
- Nhấn mạnh hơn: Coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn là trọng điểm ưu tiên. Vừa qua, ta làm chưa được nhiều, còn chậm,
lúng túng trong việc tìm giải pháp cụ thể (ví dụ: Trong việc đưa tiến bộ khoa

học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp ở nông
thôn…)
Đại hội IX đã xác định rõ “con đường công nghiệp hóa của nước ta
cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước”.
Để có thể rút ngắn thời gian, cần phải:
- Về kinh tế và công nghệ: Phải vừa có những bước tuần tự, vừa có
bước nhảy vọt.
- Phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện
đại hóa trong từng bước, tiếp cận với kinh tế tri thức, tận dụng mọi khả năng
để đạt trình độ tiên tiến hiện đại về khoa học, công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin.
Trang 16


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

- Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam
thông qua giáo dục – đào tạo, khoa học, công nghệ, gắn với hội nhập quốc tế.
- Phát triển một số ngnàh công nghiệp nặng then chốt, đồng thời coi
trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.

Trang 17


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Phần thứ hai
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
NGỌC HIỂN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
I. NGỌC HIỂN – MIỀN ĐẤT TRẺ CỦA BÁN ĐẢO CÀ MAU

Huyện Ngọc Hiển thuôc phần đất cực Nam của Tổ quốc, có xóm Rạch
Tàu nằm chót mũi Cà Mau, ở 8030 vĩ Bắc và 1050 kinh Đông. Phía Nam và
phía Nam giáp với biển Đông; phía Tây giáp với vịnh Thái Lan; phía Bắc giáp
với hai huyện Đầm Dơi và Cái Nước, cách thành phố Cà Mau về phía Tây
Nam khoảng 50 km đường chim bay. Thị trấn Năm Căn là trung tâm của
huyện lỵ.
Ngọc Hiển đất rộng người thưa, diện tích tự nhiên có hơn 124.000 ha
được phân chia làm 13 đơn vị hành chính xã, với 117 ấp, khóm gồm 142.274
người sống trong 29.670 hộ giáo dục. Mật độ bình quân 122 người/ km 2, thưa
thất trong toàn tỉnh (văn hóa Đại hội Đảng bộ huyện Ngọc Hiển lần thứ VIII,
năm 2000). Ngọc Hiển là nơ có tiềm năng kinh tế hùng hậu, phong phú, nhiều
thế mạnh ít nơi nào trong tỉnh hoặc một số tỉnh khác có thể sánh được. Thời
tiết, khí hậu thuận lợi cho sản xuất và đời sống dân cư; độ ẩm và ánh sáng
đảm bảo cho cây trồng, vật nuôi phát triển tốt. Đặc biệt lượng mưa thật dồi
dào, trung bình khoảng 2.400 mm, nhưng phân bổ không đều, thường tập
trung cao nhất vào mùa mưa, còn mùa khô (kể từ tháng 12 của năm trước đến
cuối tháng 4 của năm sau) thường bị thiếu nước ngọt nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến sinh hoạt của đời sống nhân dân. Mấy năm gần đây, từng bước giải
quyết được bằng cách khai thác mạch nước ngầm.
Về hành chính, toạ giới huyện Ngọc Hiển diễn biến khá phức tạp kể từ
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc. Mãi đến năm 1964,
huyện mới được thành lập lấy tên là Duyên Hải, sau đó đổi lại là huyện Năm
Căn. Đến ngày 17/10/1984 theo Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ), huyện Năm Căn mới chính thức lấy tên là huyện Ngọc Hiển cho
tới nay.
Vốn là vùng đất mới, trẻ trung, do phù sa vạn dặm được những dòng
sông và hai dòng hải lưu đón bắt, hội tụ bồi đắp theo năm tháng. Đất mũi Cà
Mau tuy không có những thắng cảnh tuyệt vời, quyến rũ như một nơi khác
nhưng nó lại có vẻ đẹp thiên nhiên đậm đà, hùng dũng của vùng đất sinh sôi,
mang nhiều tính bí ẩn của rừng ngập mặn tràn đầy sức sống.

Trang 18


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Do mặt đất thấp, bằng phẳng lại chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều
biển Đông và biển Tây; hơn nữa do đặc tính của vùng đất mới chưa ổn định,
nhưng có độ phì cao, chính là điều kiện thiên nhiên lý tưởng cho những khu
rừng sác hình thành nơi đây. Ngọc Hiển có hơn 69.000 ha rừng chiếm 40%
diện tích trong tỉnh, được các nhà khoa học coi đây là hệ sinh thái tuần hoàn
khép kín, có năng suất cao nhất là trong các hệ sinh thái của rừng tự nhiên.
Với lượng tăng trưởng bìh quân là 7,2 m 2/ha có thể cung cấp hàng năm trên
100.000 m3 gỗ, phục vụ cho xây dựng, chất đốt và xuất khẩu. Đồng thời rừng
cũng là môi trường lý tưởng cho nhiều loại thủy sản sinh sống và phát triển
quanh năm, đem lại sự giàu sang trù phú thêm cho huyện.
Cùng với tài nguyên phong phú của rừng, biển cũng là thế mạnh đặc
biệt của huyện Ngọc Hiển. Với chiều dài hơn179 km bờ biển bằng phẳng,
nước không sâu, hàng năm cứ vươn dài ra mãi do phù sa lắng đọng. Thật có lẽ
trên thế giới ít nơi nào có “quà tặng kỳ diệu của thiên nhiên” như thế, mình
trần dưới chân sóng mà vẫn bồi đấp không ngừng. Diện tích cứ thế mở rộng
thêm mãi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Phải nói đây là một ngư trường rộng
lớn, có trữ lượng tôm cá thật dồi dào so với toàn tỉnh, hàng năm đánh bắt từ
20 đến 30 ngàn tấn hải sản các loại, nhất là tôm và bong bóng cá đường là hai
mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao trên thị trường quốc tế.
Do ở vào vị trí đặc biệt, vùng biển mũi Cà Mau có thể khai thác được
cả bốn mùa, với nhiều hình thức phong phú như: kéo cào, đáy tẻ, bủa lưới,
đóng đáy hàng khơi… tùy theo mùa vụ. Chỉ những khi sóng to, gió lớn biển
thịnh nộ, thét gào, giận dữ thì người dân nơi đây mới có dịp nghĩ ngơi và sửa
sang lại ngư cụ.
Ngoài những đặc điểm tôm, cá có giá trị cao, bãi biển Ngọc Hiển còn

có nhiều hải sản quý giá khác như: loài điệp ở vùng mũi. Điệp già thường có
2,3 hòn ngọc nhỏ ở trong, màu trắng ngà rất có giá trị cao, có thể tính từng
chỉ, từng lượng vàng, bạc dùng làm đồ trang sức rất đẹp mắt và được nhiều
người ưu thích; kế đó là sò huyết….
Huyện Ngọc Hiển còn một khả năng kinh tế nữa là đất nông nghiệp.
Nhưng khác hẳn với sự trù phú của rừng, biển nơi đây. Ngọc Hiển chỉ có trên
3.397 ha đất nông nghiệp có độ phì cao, nằm xen kẽ trong nhiều vùng nuôi
tôm nên bị ảnh hưởng mặn, sản xuất không vững chắc. Chỉ có trên 1.000 ha
đất rẫy thuận lợi cho sản xuất 2,3 vụ trong năm, chủ yếu là trồng cây công
nghiệp ngắn ngày và hoa màu như mía đường, khóm, dưa hấu, khoai v.v….
Số liệu năm 2000 là 3.274 ha trồng lương thực và hoa màu, thu được 1.800

Trang 19


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

tấn/ năm. Diện tích nông nghiệp tuy có tăng trưởng, nhưng không phải là
nguồn sản phẩm hàng hóa chính của huyện.
Thật vậy, tài nguyên của huyện rất phong phú, đa dạng và rất nhiều,
khả năng khai thác lớn. Ngoài hơn sáu trăm phương tiện đánh bắt của địa
phương (số liệu trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng bộ huyện), hàng năm ở
đây còn có hàng chục đoàn thuyền đánh bắt từ nhiều nơi khác trong nước đến
huyện hợp đồng khai thác như: Tiền Giang, Kiên Giang, thành phố Hồ Chí
Minh.
Ngọc Hiển còn có một hệ thống sông rạch chằng chịt, được phân bổ
dày đặt như mạng nhện qua các xóm ấp trong địa bàn huyện. Có những con
sông chính như sông: Cửu Lớn dài 58 km, rộng trung bình 400m có hai cửa
đổ ra biển Đông và biển Tây. Đoạn từ trung tâm huyện ra cửa Bồ Đề rộng đến
500m, có độ sâu từ 12 đến 20m rất thuận lợi cho tàu có trọng tải lớn ra vào dễ

dàng. Sông Bảy Háp, đoạn chảy qua ranh giới huyện Ngọc Hiển và Cái Nước
dài 18 km, rộng trung bình 150 đến 200m, sâu khoảng 4,5m, nhưng càng đổ
ra biển Tây càng cạn dần. Ngoài ra còn có sông Tam Giang, Năm Căn, Cái
Nhám, Cái Ngay v.v… khá rộng và sâu. Con sông nào cũng mang dáng dấp
khoan thai uốn lượn dưới bóng rừng xanh biếc cuốn vào mình biết bao sông
con, rạch nhỏ chi chít không sao kể xiết, chứa đựng khối phiêu sinh vật khổng
lồ làm nguồn thức ăn quý giá và vô tận cho hàng thủy tộc sinh sôi.
Chính những dòng sông ấy cũng là những đường giao thông thuận lợi
cho việc chuyên chở đi lại trong nội địa khi đường bộ còn rất hạn chế. Đồng
thời cũng là mạng lưới thủy đạo, giao lưu hàng hóa cùng một nước trên thế
giới.
Những lưu dân phiêu bạc về đất mũi Cà Mau trong thế kỷ XVII, XVIII
đang nghèo khổ nhưng rất dũng cảm, có nghị lực, có lòng tự tin cao, không
bao giờ chịu khuất phục trước cường quyền, luôn căm thù bọn áp bức bóc lột
và kiên quyết đấu tranh cho chính nghĩa, cho độc lập tự do. Họ là những
người phóng khoáng hào hiệp, chân thành, trọng nhân, trọng nghĩa, khinh tài,
coi thường cái chết, ghét kẻ bất nhân, dám xả thân làm việc lớn, quên mình
cứu người…. Chính vì lẽ đó con người đất mũi Cà Mau không những cần cù,
sáng tạo trong lao động sản xuất, chinh phục biển, rừng mà còn có tinh thần
kiên cường bất khuất trong đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống cường
quyền, chống ngoại xâm.
II. NGỌC HIỂN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ – THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP
Trang 20


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

A. Thực trạng
1. Phương hướng, nhiệm vụ tổng quát đến năm 2005 và một số năm

tới.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2000 – 2005 nêu rõ: “Phát huy
thành tựu đạt được trong những năm đổi mới, tiếp tục đưa nền kinh tế – xã
hội phát triển toàn diện theo hướng xây dựng Ngọc Hiển thành vùng phát
triển kinh tế năng dộng với lợi thế tài nguyên rừng, biển. Đầu tư trọng điểm,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng nhanh nhịp độ phát triển kinh tế. Nêu cao
tinh thần tự chủ, sáng tạo, mở rộng hợp tác, liên kết, liên doanh, gọi vốn đầu
tư từ các thành phố kinh tế, phát triển bền vững nông nghiệp nông thôn. Quy
hoạch dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng gắn với giải quyết việc làm, giữ vững
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong những năm đầu thế kỷ 21”
(văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Ngọc Hiển lần thứ VIII, 11/ 2000 – trang
35).
Xuất phát từ đặc điểm tình hình kinh tế – xã hội của huyện, Đại hội tiếp
tục khẳng định cơ cấu kinh tế của huyện là: lâm ngư – công nghiệp – dịch vụ
và du lịch.
2. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và một số chỉ tiêu chủ yếu thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
a. Về lâm nghiệp:
Rừng vừa có giá trị kinh tế như: cây xài, chất đốt, xây dựng, phục vụ
cho sản xuất, chứa đựng các loại thủy hải sản, động, thực vật dưới tán rừng,
vừa có vai trò quan trọng là lá phổi xanh, là môi trường lý tưởng cho người và
sản xuất, phát triển kinh tế – xã hội của huyện. Vì vậy, phải tập trung chỉ đạo
bảo vệ phát triển vốn rừng hiện còn, thực hiện tốt các dự án khôi phục trồng
từng mới, bảo đảm rừng đất rừng từng bước ổn định, các áp lực xã hội đối với
rừng giảm so với trước. Diện tích rừng được kiểm kê, phân loại: rừng đặc
dạng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất, nhằm đảm bảo ngành kinh tế lâm
nghiệp tập trung truyền thống sang lâm nghiệp xã hội. Cần xúc tiến ngay việc
điều tra, nắm lại diện tích đất trống của từng hộ để đến thời vụ tiến hành trồng
trừng theo hướng tách dần diện tích nuôi trồng thủy sản với diện tích đất rừng

trên đơn vị diện tích hộ quản lý cùng với việc quản lý rừng hiện còn. Tập
trung trồng mới, khoanh nuôi, tái sinh, phấn đấu đạt hơn 3.000 ha/năm. Đẩy
mạnh việc trồng cây phân tán, cây bóng mát ven bộ, cơ quan, nơi công cộng
và trồng cây ở môt số tuyến sống, chống xoáy lở, bảo vệ môi trường.
Trang 21


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Chuyển các doanh nghiệp lâm nghiệp thành 4 lâm ngư trường công ích,
6 Ban quản lý bảo vệ và phát triển rừng và có 3 Hạt kiểm lâm.
Các lâm ngư trường, Ban quản lý bảo vệ và phát triển rừng thường
xuyên tuần tra, kiểm tra kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm tài
nguyên rừng, từng bước hạn chế tình trạng bao chiếm, tái chiếm, chặt phá cây
rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, khu bãi bồi.
* Nông nghiệp phát triển nông thôn.
Từng bước sắp xếp ngư dân, ổn định sản xuất theo quy hoạch. Xây
dựng phát triển hệ thống thủy lợ gắn với phục vụ sản xuất và giao thông nông
thôn như cụm dân cư, điện nước sạch, vệ sinh môi trường, khuyến khích nông
dân tận dụng những nơi đất cao, bờ vuông trồng các loại cây ăn trái, rau màu,
chăn nuôi làm kinh tế gia đình. Phấn đấu đạt từ 40 – 50 ha màu, lương thực.
Phát triển các loại rau, hướng chủ yếu là rau sạch có chất lượng tốt, giá trị
dinh dưỡng cao. Phát triển các loại cây ăn quả phù hợp với vùng đất, nước,
chủ yếu các loại cây ăn quả thông dụng, đáp ứng nhu cầu thiết thực của đời
sống nhân dân. Ngoài rau màu, cây ăn quả, cần chú trọng các loại cây khác
như thuốc nam, nhất là cây thuốc cá là loại cây có giá trị cao, dễ trồng, đáp
ứng yêu cầu thiết thực cho nuôi trồng thủy sản tại các chỗ. Tập trung phát
triển đàn heo và các loại gia cầm khác phù hợp với điều kiện khu dân cư.
Nhân rộng mô hình hợp tác xã chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Thực hiện tốt việc bố trí lại cơ cấu sản xuất đa cây, đa con, đa canh trên

cùng vùng đất, nước thuận lợi hài hòa để tạo thêm nhiều sản phẩm hàng hóa,
vừa tăng thu nhập, giảm bớt khó khăn đời sống của nhân dân.
b. Về thủy sản:
Huyện Ngọc Hiển có 54.382 ha đất nuôi trồng thủy sản chiếm 43,82%
diện tích tự nhiên của huyện, bình quân đầu người là 0.88 ha. Có hệ thống
thủy lợi tự nhiên rất thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Lực lượng lao động
chiếm tỷ lệ cao (khoảng 58,65% tổng dân số), là huyện đi đầu của tỉnh về sản
xuất nuôi trồng thủy sản nhiều năm, do đó đại bộ phận nông dân có nhiều
kinh nghiệm trong sản xuất nuôi trồng và khai thác thủy sản.
Xuất phát từ đặc điểm trên, Đảng bộ xác định thủy sản là ngành kinh tế
mũi nhọn của huyện, phải xúc tiến quy hoạch ổn định sản xuất, tăng cường
đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật, nâng cao năng lực khai thác biển và nuôi trồng
thủy sản theo hướng bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm
sản xuất phát triển, ổn định đời sống nhân dân.

Trang 22


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

Từng bước thu hẹp diện tích nuôi từ 48.000 ha còn 33.000 ha đến năm
2005 theo hướng thâm canh, bán thâm canh, công nghiệp. Diện tích nuôi
không hậu quả chuyển dịch cơ cấu sản xuất cây trồng, vật nuôi thích hợp nâng
cao hiệu quả sử dụng đất. Tiếp tục xây dựng các mô hình nuôi tôm thâm canh,
bán công nghiệp và công nghiệp ở những nơi có điều kiện. Quy hoạch 1.000
ha trở lên diện tích nuôi tôm công nghiệp có năng suất cao. Ổn định diện tích
vùng chuyên tôm (nuôi tôm kết hợp trồng rừng) là 17.000 ha ở phía Bắc,
vùng rừng tôm kết hợp 16.000 ha ở phía Đông Nam. Tăng cường nuôi tôm
sinh thái, xây dựng và từng bước hoàn thiện các mô hình nuôi tôm công
nghiệp. Ngoài ra, sử dụng phần diện tích 2.500 ha thuộc khu vực bãi cát Khai

Long, xã Đất Mũi để tổ chức nuôi nghêu và các loại nhuyễn thể khác.
Mở rộng quy mô các cơ sở sản xuất tôm giống có hiệu quả cao, phát
triển thêm các trại giống mới theo quy hoạch, đảm bảo cung cấp 50% con
giống có chất lượng cho người nuôi tôm. Ngoài ra kêu gọi thu hút những nhà
kinh doanh trong và ngoài huyện đến đầu tư lĩnh vực dịch vụ nuôi trồng đánh
bắt thủy sản, nhất là tôm giống. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật,
chuyển giao công nghệ, tạo nguồn tôm giống bố mẹ, quản lý các dịch vụ mua
bán tôm giống và tăng cường công tác kiểm dịch.
Từ nay đến năm 2005 đưa 40% diện tích nuôi tôm truyền thống sang
nuôi tôm quảng canh cải tiến, phấn đấu đạt sản lượng tôm 350 kg/ha/năm trở
lên. Diện tích nuôi thâm canh, bán thâm canh phải theo các dự án được phê
duyệt, hạn chế tự phát.
Các vùng ven sông Cửu Lớn và những vùng đất cao, rừng tạp nuôi tôm
năng suất thấp cần đẩy mạnh nuôi cá và các loại con phù hợp với tôm ít mâu
thuẫn với nhau (các loại cá có giá trị cao dễ tiêu thụ). Phấn đấu đưa sản lượng
cá nuôi các loại từ 1.600 – 2.000 tấn, với các mô hình nuôi thủy sản như sau:
- Nuôi cùng với tôm (các loại không hoặc ít mâu thuẫn với tôm).
- Nuôi lồng và nuôi ao (các loại không hoặc ít mâu thuẫn với tôm).
Phấn đấu đưa diện tích nuôi cua (chủ yếu cua gạch) lên từ 10.000 đến
12.000 ha, sản lượng đạt từ 500 – 600 tấn với mô hình cua + cá + tôm nuôi
lồng và ao. Nuôi sò huyết đạt từ 300 -500 tấn/ năm. Ngoài ra, khuyến khích
đầu tư nuôi các loài nhuyễn thể khác như: Nghêu, óc len, óc biển thử nghiệm.
Tiếp tục sắp xếp lại nghề khai thác biển, sắp xếp đáy hàng khơi và đáy
sông rạch theo quy định Nhà nước. Trước mắt củng cố các hợp tác xã đánh
bắt để khai thác đạt hiệu quả cao. Từng bước chuyển dần các phương tiện nhỏ
thành phương tiện lớn đánh bắt xa bờ. Tiến hành quy bốn cụm kinh tế biển:
Trang 23


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT


Tân Âu, Tam Giang, Viên An, Đất Mũi. Tăng cường bảo vệ nguồn lợi thủy
sản, xử lý nghiêm đáy neo, đăng thẹ, khai thác đầu nguồn, khu vực bãi bồi….
c. Về công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp:
Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác, chọn đối tác đầu tư thuộc các thành
phần kinh tế, xúc tiến xây dựng các nhà máy chế biến các sản phẩm từ tôm, cá
(khô) bằng nhiều loại như: tôm khô, tôm lực, tôm xẻ khô, tôm tít (nhất là tôm
biển) cá khô các loại, mắm, nước mắm, cá sống, ướp đá v.v…. Tập trung thu
mua, chế biến tôm, cá, tôm nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Kết hợp các
ngành chức năng tỉnh xây dựng nhà máy đóng tàu 1.000 tấn (giai đoạn 1);
10.000 tấn (giai đoạn 2) hoàn chỉnh. Xây dựng, nâng cấp nhà máy chế biến
tôm công nghiệp hiện đại. Phát triển mạnh các nghề tiểu thủ công nghiệp với
quy mô vừa và nhỏ như cơ sở nước đá, sản xuất tôm giống, sửa chữa cơ khí.
Bảo vệ, khai thác tốt sân bay, cảng Năm Căn, cảng cá Hòn Khoai.
Tăng cường hơn nữa công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản và bảo vệ
môi trường sinh thái. Tiến hành dự án, thẩm định hoàn chỉnh các thủ tục để
sản xuất muối ở khu vực Tân Âu và khai thác cát khu vực Khai Long, Đất
Mũi.
- Về điện: Kết hợp chặt chẽ với việc quy hoạch các cụm kinh tế, cụm
dân cư để mở rộng lưới điện theo phương châm “Nhà nước là nhân dân cùng
làm”. Cải tạo, mở rộng mạng lưới điện ở trung tâm huyện và một số cụm dân
cư để phục vụ sản xuất, kinh doanh trong nhân dân. Phấn đấu đến năm 2005
có hơn 80% số hộ dân dùng điện quốc gia. Khuyến khích nhân dân sử dụng
điện năng lượng mặt trời ở những nơi chưa có điện lưới.
d. Giao thông – xây dựng – địa chính và bưu điện:
- Giao thông: Phát triển mạnh hệ thống giao thông bộ từ huyện đến các
xã, ấp. Mở tuyến lộ Năm Căn – Vàm Ông Định – Rạch Gốc và tuyến lộ Năm
Căn ngang Vàm Ông Trang. Riêng tuyến Năm Căn – Hàng Vịnh tiếp tục thi
công cầu cơ bản, lộ bằng bê tông hoặc đá xô bồ. Tuyến lộ nội ô thị trấn, lộ
trung tâm xã, lộ nối với quốc lộ 1A cần bồi kè, nâng cấp, mở rộng mặt bằng

để phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân.
Tạo điều kiện thuận lợi để Trung ương thi công lộ bê tông nhựa quốc lộ
1A (giai đoạn 2) đoạn Đầm Cùng – Năm Căn và nền lộ đất đen đoạn Năm
Căn – Đất Mũi. Tranh thủ vốn để xây dựng bến xe, tàu liên huyện theo quy
hoạch. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị định 36 và 40/CP của Chính phủ, đảm bảo
trật tự an toàn giao thông thủy – bộ.

Trang 24


Tiểu luận tốt nghiệp – Lớp cao cấp LLCT

- Xây dựng: Thực hiện tốt công tác quy hoạch chi tiết khu vực trung
tâm thị trấn Năm Căn (dự kiến 1.200 – 1.500 ha), quy hoạch các cụm, tuyến
dân cư trung tâm các xã. Kiên quyết di dời dân cư ở ven cửu biển, ven sông,
nơi thường sụp lở vào ở nơi ổn định. Xúc tiến cùng các ngành chức năng tỉnh
xây dựng và hoàn thành khu trung tâm thương mại thị trấn Năm Căn, trung
tâm bồi dưỡng chính trị, khu văn hóa – thể dục thể thao và các công trình
công cộng khác. Đồng thời, tích cực gọi đối tác để đầu tư xây dựng các dự án
đã được phê duyệt. Vận động nhân dân xây dựng nhà ở cơ bản, văn minh, bảo
vệ cảnh quan môi trường, công trình phúc lợi công cộng. Phấn đấu nâng thị
trấn Năm Căn lên đô thị loại 4 theo những tiêu chí quy định. Tăng cường
công tác quản lý đầu tư và xây dựng để các công trình đảm bảo thời gian và
chất lượng. Quản lý đất, nhà ở, đặc biệt khu vực thị trấn Năm Căn theo quy
định của Nhà nước.
- Địa chính: Tăng cường quản lý đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho nhân dân theo luật định, kết hợp các ngành xử lý, giải quyết tốt
các trường hợp vi phạm, tranh chấp đất đai, hạn chế tối đa việc phát sinh
“điểm nóng”. Thực hiện quy hoạch sử dụng đất, xây dựng công trình công
cộng và gia hạn quyền sử dụng đất cho nhân dân.

- Bưu điện: Mở rộng mạng lưới bưu chính viễn thông trong toàn huyện,
bảo đảm đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc trong nhân dân. Phấn đấu đến
năm 2005, mỗi xã đều có bưu chính văn hóa, bình quân 2,5 máy điện
thoại/100 dân, nâng tổng đại 3.000 số hiện nay lên 5.000 số năm 2005 để
phục vụ kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của huyện.
đ. Thương mại – dịch vụ – du lịch và tài chính – tín dụng
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát
triển. Chú trọng quy hoạch mở rộng chợ nông thôn, đảm bảo hàng hóa lưu
thông thông suốt, đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất, tiêu dùng, khuyến khích
nhân dân phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả, nhằm tạo việc làm và tăng
thu nhập.
Thực hiện quy hoạch phát triển khu du lịch tuyến Khai Long, Đất Mũi,
Hòn Khoai, Cồn Cát và khu du lịch sinh thái rừng đước ở các lâm, ngư trường
và thị trấn Năm Căn.
Phấn đấu thu ngân sách hàng năm đều đạt chỉ tiêu tỉnh giao. Chi ngân
sách đảm bảo theo kế hoạch, tập trung chi các khoản chi bức xúc để phát
triển kinh tế – xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện triệt để chi tiết kiệm.

Trang 25


×