Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Thế giới nghệ thuật ký hoàng phủ ngọc tường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.63 KB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------

ĐẶNG THỊ TUYẾT TRINH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT KÝ
HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG

Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận văn học
Mã số: 60.22.01.20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng

Hà Nội - 2012
1


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đoàn Đức Phƣơng đã tận tình hƣớng dẫn
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học, Tổ
bộ môn Lý luận văn học, các thầy cô trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình và ngƣời thân; cảm ơn sự giúp đỡ, động viên của những
ngƣời bạn và các đồng nghiệp...!

Hà Nội, ngày 02 tháng 4 năm 2012
Tác giả luận văn


Đặng Thị Tuyết Trinh

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài................................................................................5
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................6
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .........................................9
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................9
5. Cấu trúc luận văn .............................................................................10
NỘI DUNG..............................................................................................11
CHƢƠNG 1. KHÁI LƢỢC VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG .............................11
1.1. Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật ...................................................11
1.1.1. Khái niệm thế giới nghệ thuật ................................................11
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con ngƣời ................14
1.2. Hành trình sáng tạo của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng ........................16
1.1.1. Vài nét về cuộc đời của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng ..................16
1.1.2. Về hành trình sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng .............18
1.2.3. Quan niệm của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng về thể ký ................20
CHƢƠNG 2. N T ĐỘC ĐÁO CỦA CUỘC S NG VÀ CON NGƢỜI
TRONG K HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG ...................................................26
2.1. Bức tranh đời sống phong phú, đa dạng .......................................26
2.1.1. Bức tranh chân thực về đời sống xã hội .................................26
2.1.1.1. Chiến tranh và những vấn đề hậu chiến...........................26
1.1.1.2. Những vấn đề thế sự nóng bỏng ......................................33
2.1.2. Chiều sâu văn hóa và khám phá về lịch sử ............................38
2.1.2.1. Chiều sâu văn hóa ............................................................38

2.1.2.2. Khám phá về lịch sử ........................................................43
3


2.1.3. Thiên nhiên .............................................................................47
2.1.3.1.Thiên nhiên hòa hợp với con ngƣời ..................................49
2.1.3.2. Thiên nhiên mang màu sắc triết lý ...................................55
2.1.3.3. Thiên nhiên - đối thoại và dự cảm ...................................56
2.2. Thế giới nhân vật ..........................................................................58
2.2.1. Nhân vật cái tôi tác giả ...........................................................59
2.2.2. Các kiểu nhân vật ...................................................................66
2.2.1.1. Nhân vật anh hùng ...........................................................67
2.2.1.2. Những con ngƣời mới ......................................................71
2.2.1.3. Danh nhân, nghệ sỹ..........................................................73
2.2.1.4. Thiếu nữ trong miền hoài niệm .......................................78
CHƢƠNG 3. ĐẶC SẮC VỀ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA K
HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG .........................................................................81
3.1. Ngôn từ nghệ thuật........................................................................81
3.1.1. Ngôn từ đậm chất thơ và giàu tính liên tƣởng........................81
3.1.2. Ngôn từ giàu màu sắc suy tƣởng và triết lý ...........................89
3.1.3. Ngôn từ mang tính khoa học, rành mạch và chặt chẽ ............92
3.2. Giọng điệu trần thuật ....................................................................93
3.2.1. Giọng sử thi huyền thoại ........................................................94
3.2.2. Giọng trữ tình suy ngẫm trầm tƣ, thấm đậm triết lý ..............97
3.2.3. Giọng chính luận mang màu sắc báo chí .............................100
3.2. Nghệ thuật kết cấu ......................................................................102
3.3.1. Kết cấu theo mạch tâm lý .....................................................103
3.3.2. Kết cấu theo trƣờng liên tƣởng.............................................105
3.3.3. Kết cấu theo kiểu luận đề .....................................................107
KẾT LUẬN ...........................................................................................109

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................114

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới nghệ thuật là một khái niệm rộng bao gồm tất cả các yếu tố của quá
trình sáng tạo nghệ thuật và kết quả hoạt động nghệ thuật của nhà văn. Khám phá
thế giới nghệ thuật của một nhà văn cho phép chúng ta có cái nhìn đúng đắn, toàn
diện về quá trình sáng tạo, quy luật sáng tạo, quan niệm về nghệ thuật, cuộc sống,
nhân sinh của tác giả, những đặc sắc về nội dung cũng nhƣ nghệ thuật trong sáng
tác của ngƣời nghệ sỹ.
Ký là một thể loại văn học ra đời từ rất sớm trong lịch sử văn học và là thể
loại có tính cơ động, linh hoạt, nhạy bén. Với tƣ tƣởng dân chủ mạnh mẽ và tinh
thần sẵn sàng dấn thân, nhập cuộc trên cơ sở tôn trọng hiện thực khách quan, ký
đƣợc đánh giá là một trong những thể loại tiên phong trong văn học thời kỳ đổi
mới. Viết ký không phải là khó nhƣng để viết đƣợc hay thì lại không dễ chút nào.
Chính vì thế đã có nhiều nhà văn tham gia viết ký nhƣng để thực sự “chuyên tâm”
với thể loại và gặt hái đƣợc thành công thì không nhiều tên tuổi. Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng là một trong số ít những nhà văn viết ký nổi tiếng của văn học Việt Nam
hiện đại. Ông đã tạo nên dấu ấn riêng với phong cách sáng tạo độc đáo, vừa trữ
tình, lãng mạn, vừa thâm trầm, triết lí, tài hoa... Có nhiều ngƣời cho rằng trong thể
ký ở Việt Nam, sau Nguyễn Tuân phải kể đến Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng. Chính
Nguyễn Tuân cũng đánh giá cao những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng, ông
gọi đó là những trang văn “rất nhiều ánh lửa”.
Từ năm 2003, ký của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng đã đƣợc đƣa vào giảng dạy
trong chƣơng trình Ngữ văn 12 với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông. Đây là
một sự ghi nhận đáng kể vị trí của ký Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng đối với nền văn học
nƣớc nhà. Ông cũng đã giành đƣợc nhiều giải thƣởng cho những đóng góp của

mình, nổi bật là giải thƣởng Nhà nƣớc về văn học nghệ thuật năm 2007. Mặc dù,
5


Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng là một tác giả lớn về ký của văn học Việt Nam hiện đại,
song cho đến nay vẫn chƣa có nhiều công trình nghiên cứu về văn chƣơng của ông
một cách hệ thống.
Xuất phát từ những lí do trên và lòng say mê, yêu thích văn chƣơng Hoàng
Phủ Ngọc Tƣờng, với mong muốn góp phần khẳng định giá trị ký Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng, giúp ngƣời đọc cùng cảm nhận và hiểu sâu hơn về những đặc sắc nghệ
thuật trong sáng tác của một cây bút xuất sắc của làng ký Việt Nam, chúng tôi lựa
chọn đề tài Thế giới nghệ thuật ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.
2. Lịch sử vấn đề
Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng đƣợc xem nhƣ một hiện tƣợng của văn học miền
Trung và văn học cả nƣớc sau 1975. Vì thế, những bài viết về con ngƣời và tác
phẩm ông tƣơng đối nhiều. Tính đến nay có đến hàng trăm bài viết trên các báo, tạp
chí, trang web. Có thể tóm gọn các vấn đề đƣợc các nghiên cứu khai thác nhƣ sau:
Khi tiếp xúc với những tác phẩm ký viết về đề tài chiến tranh của Hoàng
Phủ Ngọc Tƣờng, nhiều nhà nghiên cứu đã chú ý đến “chất lửa” trong ký của ông.
Nguyễn Tuân – ông hoàng của thể ký Việt Nam có thể nói là một trong những
ngƣời đầu tiên đã có cái nhìn rất bao quát về giá trị của ký Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng: “Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa” [76, tr.3]. Tiếp nối, có
nhiều bài viết khác đã khẳng định vẻ đẹp của “chất lửa” đó trong ký Hoàng Phủ
Ngọc Tƣờng nhƣ: nhà báo Phạm Xuân Hùng với bài Lửa phù dung đăng trên báo
Quảng Trị số 5/1999; Ngô Minh Hiền với bài Biểu tượng lửa trong văn xuôi
Hoàng Phủ Ngọc Tường in trên tạp chí Khoa học số 6/2004; Dạ Ngân với bài
Hoàng Phủ Ngọc Tường - Nỗi niềm của lửa in trên báo Văn Nghệ số tháng
12/2006.
Một trong những yếu tố của ký Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng mà các nhà phê
bình hay đề cập đến là chất Huế và tính văn hóa. Trần Đình Sử là một trong những

nhà nghiên cứu đầu tiên đã đặt vấn đề về tính văn hóa của ký Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng, ông cho rằng: “Bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm cội
6


nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hóa, lịch sử của các hiện tượng đời sống” [74,
tr.298]. Hoàng Ngọc Hiến trong Ký và tiểu luận đã tìm thấy trong ký Hoàng Phủ
Ngọc Tƣờng những “suy tư về bản chất Huế, về quan hệ triết học Con người –
thiên nhiên” [8, tr.19]. Đặng Nhật Minh thì khẳng định giá trị của ký Hoàng Phủ
Ngọc Tƣờng nằm trong “chất Huế của con người anh” [52, tr.65]. Trần Thuỳ Mai
thì khẳng định ký Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng là “ký văn hoá” trong bài viết Ký văn
hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường (tạp chí Sông Hương số 05/2002). Ngoài ra có thể
kể đến một loạt những bài viết nhƣ: Đọc bút ký “Rất nhiều ánh lửa” của nhà văn
Nguyễn Văn Bổng; Chiêm cảm Huế di tích và con người của Hoàng Bình Thi; Đọc
nhàn đàm của Hoàng Phủ Ngọc Tường của Hoàng Sĩ Nguyên đăng trên tạp chí
Sông Hương...
Một đặc điểm khác mà các nhà nghiên cứu, phê bình cũng rất chú ý đó là
cảnh sắc thiên nhiên trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng. Tiêu biểu nhƣ các bài viết:
Huế vẫn xanh và Tường vẫn trong (báo Văn hóa Thể thao số 2/11/1998) và Thế
giới tồn tại bởi sự lễ độ (Văn nghệ Trẻ số 22/8/1998) của nhà văn Văn Cầm Hải;
Người lễ độ với thiên nhiên của nhà báo Lê Đức Dục (báo Thừa Thiên Huế số
2/1/2000); Xin được nói về Hoàng Phủ Ngọc Tường như một thi sĩ của thiên nhiên
của Lê Thị Hƣờng (tạp chí Sông Hương số 161-7/2002); Hoàng Phủ Ngọc Tường
và nỗi ám ảnh hoa phù dung của Ngô Minh (báo Phụ Nữ số ngày 24/2/2005),
Hoàng Phủ Ngọc Tường và tài sản sông Hương của Kim Oanh (báo Tuổi trẻ số
ngày 29/11/2008); Vẻ đẹp của một dòng sông của Vũ Thị Luyến (tạp chí Văn học
trẻ, số T5 (1888)/2009);...
Nhiều nhà nghiên cứu lại tập trung đi vào tìm hiểu về con ngƣời, cá tính
sáng tạo và tìm kiếm những đặc điểm chung của ký Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng, để từ
đó đƣa ra những nhận xét đánh giá rất xác đáng. Viết về con ngƣời Hoàng Phủ

Ngọc Tƣờng, phần lớn các ý kiến đánh giá cao về vốn kiến thức uyên bác, sâu rộng
và khâm phục tài năng, nghị lực phi thƣờng của ông, tiêu biểu nhƣ: Đọc bút ký
“Rất nhiều ánh lửa” của Hoàng Phủ Ngọc Tường của nhà văn Nguyễn Văn Bổng
7


(bài phát biểu trong buổi lễ trao giải thƣởng văn học, Hội Nhà văn Việt Nam 19811982); Viết về tập bút ký “Ngọn núi ảo ảnh” của nhà thơ Hoàng Cát (báo Văn Nghệ
số 12/1999); Hoàng Phủ Ngọc Tường trong mắt tôi của nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàng (báo Văn hóa và Đời sống, Xuân Quý Mùi); Từ A đến Z với Hoàng Phủ
Ngọc Tường của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo (tạp chí Sông Hương số 161-7/2002);
Hoàng Phủ Ngọc Tường - người ham chơi của nhà thơ Ngô Minh (báo Tuổi trẻ số
ngày 20/9/2007) và Người theo "chủ nghĩa" mê đi của Hạnh Lê (báo Quảng Nam
số 2/2007);...
Đánh giá về những đặc sắc nghệ thuật, nét độc đáo trong phong cách nghệ
thuật Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng có những bài viết nhƣ: bài tựa của Nguyên Ngọc
trong tập bút ký Rượu hồng đào chưa nhắm đã say (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2001);
Nghĩ về văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường của Ngô Minh (báo Văn hóa Nghệ
thuật thành phố Hồ Chí Minh số 7/2002); Về việc giảng dạy thể ký và ký của
Hoàng Phủ Ngọc Tường trong chương trình văn học phổ thông của Lê Trà My (tạp
chí Giáo dục số 49 năm 2006); Đọc Ngọn núi ảo ảnh của Hoàng Cát (tạp chí Cửa
Việt năm 2000); Lễ hội riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường của Nguyễn Trọng Tạo
(tạp chí Cửa Việt năm 2002); Đọc tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường của Đặng
Tiến (tạp chí Diễn đàn Paris năm 2002)...
Phần lớn các nghiên cứu trên chỉ dừng ở mức độ là các bài viết. Gần đây,
cũng xuất hiện một số công trình khoa học công phu hơn về ký Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng nhƣng chủ yếu đi sâu vào một khía cạnh để nghiên cứu, tiêu biểu nhƣ: Văn
xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa của Ngô Minh
Hiền (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, 2009). Ngoài ra, còn có một số luận
văn do các sinh viên, học viên tại các trƣờng đại học thực hiện.
Nhìn chung, những bài viết, công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những

nét tiêu biểu về con ngƣời và văn chƣơng Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng, đánh giá cao vị
trí, vai trò của nhà văn trong ký Việt Nam. Tuy nhiên, những đánh giá đó mới chỉ
là những lời nhận xét chung, khái quát, những công trình nghiên cứu hệ thống về
8


văn chƣơng của ông còn rất ít. Do vậy, chúng tôi mạnh dạn đi vào tìm hiểu thế giới
nghệ thuật ký Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng, để khám phá những đặc sắc về nội dung và
nghệ thuật, từ đó khẳng định vẻ đẹp của ký Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu mà luận văn xác định là: chỉ ra những nét độc đáo của bức tranh
cuộc sống và con ngƣời trong thế giới nghệ thuật ký Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng và
những đặc sắc của nghệ thuật biểu hiện.
Luận văn sẽ góp một tiếng nói khẳng định vị trí và đóng góp của ông đối với
sự phát triển của ký nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Đối tƣợng nghiên cứu là đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của ký Hoàng
Phủ Ngọc Tƣờng.
Phạm vi nghiên cứu là các tác phẩm ký của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng từ năm
1972 đến năm 2002, bao gồm 13 tập bút ký, truyện ký và nhàn đàm của ông, chủ
yếu là các tác phẩm đƣợc chọn lọc trong tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng và các
tập xuất bản sau năm 2002: Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường - tập 1: Nhàn
đàm (Trần Thức tuyển chọn, Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2002);
Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường - tập 2: Bút ký (Trần Thức tuyển chọn, Nhà
xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2002); Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường
- tập 3: Bút ký (Trần Thức tuyển chọn, Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh,
2002); Huế di tích và con người (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003); Trịnh Công Sơn
và cây đàn lya của hoàng tử bé (Nhà xuất bản Trẻ, 2005); Miền cỏ thơm (Nhà
xuất bản Văn nghệ, 2007)
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp sau:

Phƣơng pháp thống kê - phân loại
Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu
Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp
Phƣơng pháp liên ngành
9


Kết hợp với các phƣơng pháp nghiên cứu chính trên, chúng tôi còn sử dụng
một số phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp tiểu sử, phƣơng pháp cấu trúc, để thấy
đƣợc giá trị nội dung, nghệ thuật độc đáo trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần nội dung của luận văn gồm có ba
chƣơng:
Chƣơng 1: Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật và hành trình sáng tác của
Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng
Chuơng 2: Nét độc đáo của cuộc sống và con ngƣời trong ký Hoàng Phủ
Ngọc Tƣờng
Chƣơng 3: Đặc sắc về phƣơng thức biểu hiện của ký Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng

10


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
KHÁI LƢỢC VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG
1.1. Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm thế giới nghệ thuật
Những năm trƣớc 1970, sáng tác của nhà văn thƣờng đƣợc nhìn nhận nhƣ

một tập hợp đơn giản của các bộ phận, các mảng rời. Thực tế, các tác phẩm của nhà
văn tạo thành một thể thống nhất, giữa chúng tồn tại mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ
nhƣ một sinh thể. Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, với sự xuất hiện của các lí thuyết
nghiên cứu văn học khác Macxit, sáng tác của một nghệ sĩ đƣợc nhìn nhận nhƣ một
chỉnh thể, một thế giới riêng, một cõi sống riêng. Chính từ yêu cầu muốn tiếp cận
tác phẩm văn học trong dạng chỉnh thể, khái niệm thế giới nghệ thuật đã xuất hiện.
Ở Việt Nam, khái niệm này đƣợc nhắc đến vào những năm 80 và đã thu hút sự quan
tâm của nhiều học giả với sự ra đời của nhiều công trình khoa học nghiên cứu tác
giả, tác phẩm, hiện tƣợng văn học từ góc độ thế giới nghệ thuật.
Khái niệm thế giới nghệ thuật đƣợc hiểu với hàm nghĩa rộng, chứa đựng
nhiều cấp độ khác nhau. Năm 1985, trong luận án Tiến sỹ Sự hình thành và những
vấn đề của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam hiện đại,
Nguyễn Nghĩa Trọng đã xác định hàm nghĩa thế giới nghệ thuật nhƣ sau: “Thế giới
nghệ thuật là một phạm trù mỹ học bao gồm tất cả các yếu tố của quá trình sáng
tạo nghệ thuật và tất cả các kết quả của quá trình hoạt động nghệ thuật của nhà
văn. Nó là một chỉnh thể nghệ thuật và một giá trị thẩm mỹ. Thế giới nghệ thuật bao
gồm hiện thực – đối tượng khách quan của nhận thức nghệ thuật, cá tính sáng tạo
của nhà văn hay chủ thể nhận thức nghệ thuật, ngôn ngữ hay chất liệu nghệ thuật.
Trong thế giới nghệ thuật chứa đựng sự phản ánh hiện thực, tư tưởng, tình cảm của
nhà văn. Thế giới nghệ thuật không chỉ tương đương đối với tác phẩm nghệ thuật
11


mà còn rộng hơn bản thân nó. Nó có thể bao gồm tất cả các tác phẩm nghệ thuật
của một nhà văn, một trào lưu nghệ thuật, một thời kỳ nhất định của văn học, một
nền văn học của dân tộc hay nhiều dân tộc nhưng đồng thời cũng có thể liên quan
đến nhiều yếu tố khác của sáng tạo nghệ thuật nhỏ hơn khái niệm hình tượng nghệ
thuật. Thế giới nghệ thuật là thiên nhiên thứ hai được người nghệ sĩ tạo dựng trong
đó chứa đựng hiện thực và quan niệm về hiện thực, tự nhiên và con người…, là thế
giới sinh động và đa dạng vô cùng, mỗi nhà văn, mỗi trào lưu văn học, mỗi dân tộc,

mỗi thời kỳ lịch sử đều có thế giới nghệ thuật riêng của mình” [85].
Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán chủ biên định nghĩa: “Thế giới nghệ
thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật (một tác phẩm, một
loại hình tác phẩm, một tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng
sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng,
khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con người mặc dù nó phản
ánh thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy
luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị
riêng… chỉ xuất hiện có tính ước lệ trong sáng tác nghệ thuật” [18, tr.251 + 252].
Khẳng định tính chỉnh thể của thế giới nghệ thuật, Nguyễn Đăng Mạnh trong
Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn cho rằng: “Thế giới nghệ thuật
của nhà văn hiểu đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là một chỉnh thể tất phải
có cấu trúc nội tại theo những nguyên tắc thống nhất, cũng có nghĩa là quan hệ nội
tại giữa các yếu tố phải có tính quy luật” [51, tr.23]
Lê Lƣu Oanh trong Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1998 đã chi tiết hóa khái
niệm này qua hình tƣợng cái tôi trữ tình: “Gọi cái tôi trữ tình là một thế giới nghệ
thuật bởi thế giới nội cảm này là một thể thống nhất có ngôn ngữ và quy luật riêng
phụ thuộc vào lịch sử cá nhân, thời đại… Đi sâu vào thế giới nghệ thuật được coi
như một kênh giao tiếp với những mã số, kí hiệu, giọng nói chương trình riêng, cần
có thao tác phù hợp… Thế giới nghệ thuật của cái tôi trữ tình là một thế giới mang
giá trị thẩm mỹ”.
12


Trần Đình Sử trong Những thế giới nghệ thuật thơ đã khẳng định thế giới
nghệ thuật nhƣ một cõi sống riêng, mang dấu ấn cá nhân, cái nhìn chủ quan của
ngƣời sáng tạo: “Văn bản thơ không chỉ gồm câu chữ, vần điệu, ngắt nhịp,… mà
bao gồm cả thế giới hình tượng bên trong như một thế giới sống đặc thù. Phải miêu
tả thế giới ấy, cho dù nó khác với thực tế như thế nào, có vẻ vô lí như thế nào. Đó
chính là thế giới chủ quan nội cảm của tác phẩm” [73, tr.6].

Có thể thấy, thế giới nghệ thuật là một khái niệm rộng, đƣợc triển khai với
nhiều cấp độ, tác phẩm, tác giả, giai đoạn, thời kỳ văn học, nền văn học dân tộc,
trào lƣu... Thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể toàn vẹn, thống nhất trong đó mọi
yếu tố có quan hệ ràng buộc, quy định và tác động lẫn nhau. Mỗi thế giới nghệ thuật
có một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới. Mỗi thế giới nghệ thuật
ứng với một quan niệm về thế giới, một cách cắt nghĩa về thế giới. Khái niệm thế
giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tƣ duy nghệ thuật của sáng tạo
nghệ thuật có cội nguồn trong thế giới quan, văn hoá chung, văn hoá nghệ thuật và
cá tính sáng tạo của nghệ sĩ.
Thế giới nghệ thuật của một nhà văn là một thế giới riêng, mang đậm dấu ấn
chủ quan của ngƣời sáng tạo. Xét đến cùng, thế giới nghệ thuật của một nhà văn
chính là thế giới hình tƣợng hiện ra nhƣ một chỉnh thể sống động, chứa đựng một
quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ nào đó, đƣợc xây cất bằng vật liệu ngôn từ. Nhƣ
vậy, thế giới nghệ thuật vừa là con đẻ vừa là hiện thân của tƣ tƣởng sáng tác. Đó
không phải là một thế giới tĩnh mà là một thế giới động, vừa vận động vừa phụ
thuộc vừa phản ánh những biến chuyển trong tƣ tƣởng của ngƣời nghệ sĩ.
Khi quan niệm thế giới nghệ thuật là chỉnh thể tức ta đã thừa nhận cấu trúc
nội tại của nó. Nó không chỉ là một tầng mà nhiều tầng, đƣợc đặt trong hệ thống từ
cảm hứng đến sáng tạo, từ thấp đến cao: ngôn từ - hình tƣợng – kết cấu – văn bản.
Bàn về cấu trúc của thế giới nghệ thuật, có khá nhiều quan niệm khác nhau. Trƣớc
thi pháp học, các quan niệm ngây thơ hiểu thế giới nghệ thuật chỉ nhƣ một ẩn dụ, do
vậy thế giới nghệ thuật chƣa có một cấu trúc xác định, dẫn đến cách tiếp cận thế
13


giới nghệ thuật của một nhà văn hết sức tùy tiện, không định dạng đƣợc. Quan niệm
xã hội học của các lí thuyết trƣớc Thi pháp học quan niệm thế giới nghệ thuật bao
gồm: hệ thống cảm hứng, hệ thống chủ đề, khuynh hƣớng, cách quan niệm này rơi
vào nhƣợc điểm là cắt xẻ, thoát li hình tƣợng. Thi pháp học thì cho rằng thế giới
nghệ thuật đƣợc hình thành bởi hai bình diện cơ bản: không gian và thời gian; quan

niệm nghệ thuật về con ngƣời, hai bình diện này chi phối lẫn nhau và gắn liền với
phƣơng thức nghệ thuật tƣơng ứng.
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của nhà văn giúp chúng ta có cái nhìn toàn vẹn
về quy luật sáng tạo của chủ thể, quan niệm về nghệ thuật, cuộc sống, nhân sinh của
tác giả, những đặc sắc về nội dung cũng nhƣ nghệ thuật trong sáng tác của ngƣời
nghệ sỹ.
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người
Thế giới nghệ thuật của một nhà văn là thế giới riêng, không trộn lẫn mà nhà
văn đó đã tạo dựng nên, chứa đựng những quan niệm nhân sinh, xã hội của ngƣời
sáng tạo. Có thể nói, một trong những yếu tố cơ bản cấu tạo nên thế giới nghệ thuật
của một nhà văn chính là quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con ngƣời của nhà
văn.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa quan niệm nghệ thuật là: “nguyên tắc
cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó
khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [18, tr.229]. Cuộc sống và
con ngƣời là đối tƣợng hƣớng tới của văn chƣơng nghệ thuật. Để tái hiện cuộc sống
con ngƣời, nhà văn phải hiểu cách họ giao tiếp với nhau, với thế giới và với bản
thân, cách họ sống, hành động và suy nghĩ, điều họ quan tâm và không quan tâm
trong cuộc đời. Những điều đó tạo thành mô hình nghệ thuật về thế giới và con
ngƣời bao quát mà tác giả xuất phát để khắc họa hình tƣợng những con ngƣời, số
phận cụ thể, tổ chức quan hệ của các nhân vật, giải quyết xung đột, xây dựng kết
cấu cho tác phẩm. Cuộc sống và con ngƣời trong văn học không phải là cuộc sống
và con ngƣời có thực trong thực tế, mà là cách quan niệm về cuộc sống và con
14


ngƣời ấy một cách thẩm mĩ và nghệ thuật của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật thể
hiện “giới hạn tối đa trong cách hiểu thế giới và con người của một hệ thống nghệ
thuật, thể hiện khả năng, phạm vi, mức độ chiếm lĩnh đời sống của nó” [18, tr.229].
Quan niệm nghệ thuật chính là "hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là

hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với các phạm trù phương
pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật và làm thành thước đo của hình thức văn học
và cơ sở của tư duy nghệ thuật” [18, tr.230]. Vấn đề quan niệm nghệ thuật về cuộc
sống và con ngƣời thực chất là vấn đề tính năng động của nghệ thuật trong việc
phản ánh hiện thực, lí giải cuộc sống, con ngƣời bằng các phƣơng tiện nghệ thuật, là
vấn đề về giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là
khả năng xâm nhập của nó vào các miền khác nhau của cuộc đời.
Con ngƣời là trung tâm của cuộc sống, con ngƣời cũng là đối tƣợng chủ yếu
của văn học. Do đó, cốt lõi trong quan niệm nghệ thuật của nhà văn chính là quan
niệm nghệ thuật về con ngƣời. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là hình thức đặc
thù thể hiện con ngƣời trong văn học. Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học đã
cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy
con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình
thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho
các hình tượng nhân vật trong đó” [75, tr.55]. Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu
tả con ngƣời trong văn học và quan niệm nghệ thuật về con ngƣời hƣớng ngƣời ta
khám phá cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi
miêu tả con ngƣời giống hay không giống so với đối tƣợng. Quan niệm nghệ thuật
về con ngƣời chính là sự khám phá về con ngƣời. Nó phản ánh cấu trúc của nhân
cách con ngƣời và các hình thức phức tạp tƣơng ứng trong quan hệ con ngƣời đối
với thế giới, gắn liền với cái nhìn nghệ sĩ, mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ sĩ.
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời không phải là bất cứ cách cắt nghĩa,
lý giải nào về con ngƣời, mà là “cách cắt nghĩa có tính phổ quát, tột cùng mang
ý vị triết học, nó thể hiện cái giới hạn tối đa trong việc miêu tả con người” [75,
15


tr.59]. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời luôn hƣớng vào con ngƣời trong mọi
chiều sâu của nó, cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân
văn vốn có của văn học. Nghệ sĩ là ngƣời suy nghĩ về con ngƣời, cho con ngƣời,

nêu ra những tƣ tƣởng mới để hiểu về con ngƣời, do đó càng khám phá nhiều quan
niệm nghệ thuật về con ngƣời thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng
đánh giá đúng thành tựu của họ.
Mỗi nhà văn có quan điểm, tƣ tƣởng, cách cảm thụ, cách phản ánh khác
nhau… nên thế giới qua “sự thanh lọc” của lăng kính thẩm mỹ của mỗi ngƣời cũng
rất khác nhau, tạo nên sự phong phú, đa dạng, đa sắc trong văn chƣơng nghệ thuật.
Thế giới trong tác phẩm còn là sự phản chiếu thế giới tâm hồn của nhà văn. Tuy
nhiên, không phải ngƣời sáng tác nào cũng đủ tài năng để tạo dựng cho mình một
thế giới nghệ thuật riêng, không trộn lẫn. Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng là một trong số
không nhiều nhà văn đã làm đƣợc điều đó. Ông đã tìm cho mình những góc độ
riêng khi phản ánh, cắt nghĩa, lý giải về cuộc sống và con ngƣời để khám phá ra
những chân giá trị, chiều sâu, nét độc đáo riêng trong bức tranh cuộc sống và con
ngƣời.
1.2. Hành trình sáng tạo của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng
1.1.1. Vài nét về cuộc đời của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937 tại thành phố Huế.
Tuy nhiên, quê gốc của ông lại ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông từng sống ở Quảng trị một giai đoạn ngắn ngủi thời
niên thiếu nhƣng những kỷ niệm nơi đó đã để lại dấu ấn khó quên trên những trang
văn của ông. Cuộc đời ông chủ yếu gắn liền với Huế - mảnh đất kinh kỳ, giàu
truyền thống, nơi hội tụ của tinh hoa văn hoá dân tộc. Huế chính là nơi ông “đã sinh
ra, lớn lên, đã tranh đấu và chiến đấu, đã yêu thương, đã sống một đời công dân và
một cuộc đời riêng tư” [94, tr.31]. Và nhƣ chính ông đã từng viết trong một tác
phẩm của mình: “Con người sinh ra ở đâu thì mặt mày giống cha mẹ, còn diện mạo
tinh thần thì lại giống xứ sở nó sinh ra” [94, tr.31], đất Huế đã thực sự đào luyện và
16


hun đúc nên một ngƣời chiến sỹ cách mạng giàu nhiệt huyết và một nhà văn tài hoa
với những trang văn thơ để đời: Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng.

Ông sinh trƣởng trong một gia đình chịu ảnh hƣởng sâu sắc của Nho học.
Ông lại lớn lên ở Huế - mảnh đất của vua chúa, quan lại triều Nguyễn, nơi Nho giáo
ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Đến thời đại của ông, chữ nghĩa Nho gia không
còn địa vị nhƣ trƣớc đây, nhƣờng chỗ cho chữ Quốc ngữ và các giá trị mang màu
sắc Tây phƣơng. Tuổi trẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng đọc sách Tây, học trƣờng
Tây. Nhƣng những giá trị văn hoá một thời ấy đã lƣu lại những dấu ấn sâu đậm
trong tâm hồn ông, hay nói nhƣ ông là “tửu, thƣ, hoa, mộng” - “những người bạn
thân thiết nhất của linh hồn tôi, những người bạn dâu bể nhất trong đời tôi bao
nhiêu năm, kiên định như đá cũ, không hề thay đổi” [97, tr.103]. Và có lẽ cũng vì
thế, ngƣời ta vẫn thấy cái thâm trầm, sâu sắc của một hiền triết kiểu nhà nho đằng
sau những trang văn của ông.
Cuộc đời Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng là một hành trình không biết mệt mỏi của
một con ngƣời ý thức mạnh mẽ về bản ngã và nhân sinh, luôn luôn đấu tranh để
khẳng định và vƣơn lên trƣớc thực tại. Có thể phân thành nhiều chặng đƣờng nhƣ
sau: từ thủa thiếu thời cho đến khi trở thành một thanh niên yêu nƣớc, tham gia các
hoạt động phong trào tại Huế; thời gian thoát ly lên chiến khu, trở thành một chiến
sỹ cộng sản; cuộc sống thời bình của nhà văn từ sau năm 1975 đến nay.
Ở Huế, ông học hết bậc trung học. Năm 1960, ông tốt nghiệp khóa I, ban
Việt Hán, Đại học Sƣ phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học
Văn khoa Huế. Năm 1960-1966, ông trở thành giáo viên, giảng dạy tại trƣờng Quốc
học Huế. Trong những năm 50 - 60, phong trào đấu tranh của giới sinh viên, trí thức
yêu nƣớc ở Huế chống chính quyền Mỹ - ngụy, đòi độc lập, thống nhất đất nƣớc lan
rộng và phát triển mạnh. Hoà mình trong bầu không khí sôi động đó, ông đã tìm ra
hƣớng đi đúng đắn cho mình. Ông tích cực tham gia các hoạt động yêu nƣớc nhƣ
viết báo, tuyên truyền, biểu tình… và giữ chức Tổng thƣ ký Tổng hội sinh viên
Huế.
17


Năm 1966 - 1975, trƣớc sự truy lùng gắt gao của kẻ thù, ông thoát ly lên

chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông vừa chiến đấu, vừa tham gia
các hoạt động văn nghệ kháng chiến. Tuy nhiên, thời gian này ông sáng tác không
nhiều và hầu nhƣ ít đƣợc biết đến nhƣng chính những năm tháng gian lao, vất vả,
sống giữa lằn ranh của sự sống và cái chết ấy đã giúp ông có một vốn sống phong
phú, dồi dào và đã trở thành một mảng đề tài với những trang viết chất lƣợng trong
tác phẩm của ông.
Sau khi đất nƣớc thống nhất năm 1975, ông trở về với cuộc sống đời thƣờng
bình dị ở Huế. Ông hăng say sáng tác và tham gia vào công tác quản lý tại các Hội
Văn nghệ Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Ông
từng là Tổng thƣ ký Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên-Huế, Chủ tịch Hội Văn
học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Năm 1998, ông bị
quật ngã bởi một cơn bạo bệnh. Từ một “người ham chơi”, thích xê dịch, đi khắp
mọi miền của Tổ quốc, ông gắn mình với chiếc xe lăn. Nhƣng vƣợt lên tất cả, ông
vẫn tiếp tục sống để viết và vẫn tiếp tục cho ra đời những tác phẩm hay.
1.1.2. Về hành trình sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Những trang viết đầu tay của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng ra đời vào thời ông
hăng hái tham gia viết bài cho các hoạt động yêu nƣớc của sinh viên, trí thức Huế
những năm 50 - 60. Trong thời kỳ thoát ly tham gia kháng chiến, ông cũng có sáng
tác tuy không nhiều và chủ yếu là các tác phẩm cổ động, tuyên truyền. Khi bắt đầu
sáng tác, ông đã thử sức với truyện ngắn (Chuyện một người đi qua sa mạc) và tiểu
thuyết (Cửa rừng) nhƣng không mấy thành công. Và nhƣ duyên kỳ ngộ, ông đã tìm
đến với ký: “Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, tôi nghiệm ra một điều là tôi cần phải
nói về những gì tôi trải nghiệm. Tiểu thuyết và truyện ngắn có vẻ như không giúp
được tôi làm điều này. Thế là tôi chọn ký, thể loại gần nhất với hiện thực đời sống.
Với thể ký, tôi có thể nói tuỳ thích những gì đang diễn ra trong tâm hồn tôi, những
trải nghiệm đẹp và cả những khổ đau nữa” [39, tr.1]. Và chỉ đến ký, ông mới thực
sự tìm ra cho mình lối viết và phong cách riêng.
18



Tuy nhiên, phải đến năm 1971, với sự ra đời của bút ký Ngôi sao trên đỉnh
Phu Văn Lâu, ông mới đƣợc biết đến nhƣ một cây bút trẻ đầy tiềm năng của văn
học Việt Nam lúc bấy giờ. Đây cũng là tác phẩm đƣợc xem đã đánh dấu bƣớc khởi
đầu cho văn nghiệp của ông. Nhà văn Dạ Ngân đã nhớ lại thời khắc đƣợc đọc tác
phẩm khi còn là một cô gái miền Nam sống ở trong cứ: “Bên cạnh mạch văn sôi
sục của Nguyễn Trung Thành, những bài ký của nhà văn xứ Huế ấy mảnh dẻ như
tiếng đệm của một thứ nhạc cụ thâm trầm. Đúng hơn, đó là một ánh lửa ở chân trời
cho dù nó rất xa nhưng dù sao lớp trẻ của chúng tôi cũng đã nghe thấy và nó có ý
nghĩa an ủi nhiều hơn là hiệu triệu, thôi thúc” [63, tr.3]. Có thể thấy, ngòi bút của
ông đã tìm đƣợc đúng hƣớng đi cho mình ngay từ tác phẩm của thời kỳ đầu tiên và
về sau, trên cái hƣớng đó, ông mặc sức sáng tạo và nhận đƣợc sự tiếp nhận hồ hởi
của ngƣời đọc. Từ đây, ông sáng tác nhiều và sung sức. Ông đi nhiều, sống, trải
nghiệm và viết. Ngay cả thời điểm sau khi ông vƣợt qua đƣợc cơn bệnh hiểm
ngh o, chỉ nằm một chỗ, ông vẫn“tiếp cận cuộc sống bằng cách nhớ lại”, theo cách
nói của ông là thực hiện “du lịch nội tâm” để viết: “Tôi đã đem tất cả sản phẩm hồi
tưởng ấy ngâm vào trong dung dịch của hiện hữu để nó mềm ra, trở thành nguồn
nguyên liệu mới của văn học rồi mới đem dùng nó để viết bút ký” [4, tr.5].
Trong suốt chặng đƣờng viết văn của mình cho đến nay, ông đã xuất bản
hàng chục tập bút ký, thơ, nhàn đàm. Ông đã vinh dự đƣợc nhận nhiều giải thƣởng
văn học cho những cống hiến của mình: giải văn học “Bông sen trắng” lần thứ I của
Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên; giải thƣởng văn xuôi của Hội Nhà văn
Việt Nam năm 1980 trao cho tập bút ký Rất nhiều ánh lửa; giải thƣởng văn học
của Uỷ ban Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (1999, 2008); giải A
giải thƣởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (1998-2003); giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn
học nghệ thuật, 2007. Những thành công ông gặt hái đƣợc là thành quả của quá
trình lao động miệt mài, miệt mài đi, khám phá, nhận thức và sáng tạo. Bản lĩnh của
một nhà viết ký lớn đã giúp ông thoát ra khỏi cái bóng của những ngƣời đi trƣớc và
từng rất thành công với thể ký để tạo lập cho riêng mình một thế giới nghệ thuật
19



riêng với cá tính sáng tạo và phong cách không trộn lẫn trong dòng chảy chung của
văn học Việt Nam sau 1975. Ông đã xác lập một hệ thống quan điểm rất rõ ràng về
thể loại để từ đó tìm ra đƣờng hƣớng, bƣớc đi trong hành trình sáng tạo của mình.
Tìm hiểu quan niệm của ông về thể loại giúp chúng ta có một phƣơng hƣớng để mở
cánh cửa bƣớc vào thế giới nghệ thuật ký của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng.
1.2.3. Quan niệm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về thể ký
Ký ra đời từ rất sớm trong lịch sử văn học và chiếm giữ một vị trí quan trọng
trong đời sống văn học. Là thể loại văn học thuộc phƣơng thức tự sự, dựng lại
những sự thật đời sống cá biệt một cách sinh động, cụ thể, ký nhạy bén với các sự
kiện mang tính thời sự, tƣơi mới nên có tính “xung kích, cơ động” [10, tr.6], tính
chiến đấu mạnh mẽ. Ký là thể loại đa dạng và linh hoạt nhƣ Tô Hoài từng nhận
định: “Ký cũng như truyện ngắn, truyện dài hoặc thơ, hình thù nó đấy nhưng vóc
dáng nó luôn luôn mới, đòi hỏi sáng tạo và thích ứng” [46, tr.422]. Ký rất gần với
báo chí nhƣng trƣớc sau ký vẫn là tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với xúc cảm thẩm
mỹ, quan điểm thẩm mỹ, với cái nhìn mang tính chủ quan của nhà văn. Tính chất
giao thoa giữa văn học và báo chí, tính truyện và nghiên cứu, sự đa dạng trong việc
sử dụng các hình thức tự sự, trữ tình, chính luận… đã từng gây nên những phức tạp
trong cách nhận thức về ký nhƣng cũng chính vì thế ký luôn có sức hấp dẫn, cuốn
hút và cũng đầy thử thách đối với những ngƣời cầm bút.
Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng tìm đến với thể ký nhƣ một cái duyên nhƣng không
phải bằng sự tình cờ. Ông nhận thức rất rõ ràng trong sự lựa chọn thể loại và hình
thành cho mình một hệ thống quan điểm chắc chắn về nhiệm vụ, chức năng của ký,
đồng thời tạo dựng phƣơng pháp, lối viết riêng cho con đƣờng sáng tạo của mình.
Ông không viết những công trình nghiên cứu về thể ký, quan điểm của ông đƣợc
bộc bạch nhƣ những lời tâm sự đầy tâm huyết. Bởi vì, lý luận về thể loại của ông
không phải là lý thuyết suông, đó là những gì ông đã đúc rút đƣợc bằng thực tiễn
sống và sáng tác.

20



Từ khi chƣa phải là một nhà văn, còn là một nhà báo tham gia kháng chiến,
lăn lộn với thực tế khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nƣớc, tiếp xúc trực
tiếp với những con ngƣời sống, chiến đấu và hi sinh quên mình, Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng đƣợc nghe, nhìn, trải nghiệm với những sự việc, sự kiện và thu thập đƣợc
những thông tin quý giá về cuộc chiến tranh. Từ đó, đã hình thành trong ông cái
mầm thai nghén của thể loại văn học gọi là ký và cũng từ hiện thực đã giúp ông
ngay từ đầu bƣớc chân vào nghề viết ký nhận ra: “Bút ký là thể loại văn học đòi
được tường thuật lại thực tế đã xảy ra và rất gần với hiện thực cuộc sống” [31,
tr.1]. Ở ký, một trong những nguyên tắc phản ánh và cũng là bản chất của ký là phải
tôn trọng tính xác thực của đối tƣợng miêu tả. Không một thể loại văn học nào lại
“bám sát thực tiễn” nhƣ thể ký, “sự thật của đời sống đi vào trong ký có thể đổi
thay nhưng không hề mất đi tính xác thực của lịch sử” [11, tr.20]. Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng lựa chọn ký cũng chính bởi vì thế: “Thời đại nào cũng cần sự thật. Nhà văn
càng cần phải nói lên sự thật” [39]. Ngay từ đầu, ông đã khẳng định một nguyên
tắc sáng tạo quan trọng của ký là tôn trọng tính xác thực: “Viết bút ký, muốn thành
công thì phải viết cho thật. Bút ký tính sự kiện rất nặng” [40]. Đó là sự thật của
những sự kiện, con ngƣời có thật và sự thật của tâm hồn. Đối tƣợng miêu tả mà ký
nhắm đến chính là ngƣời thật, việc thật, phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp, phản
ánh nhƣng không làm mất đi tính toàn vẹn riêng của đối tƣợng. Đây cũng là đặc
điểm nổi bật của thể loại nhƣ khẳng định của GS.Phƣơng Lựu: “trần thuật người
thật việc thật là đặc trưng cơ bản của ký văn học” [46, tr.284].
Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng kể lại rằng khi ông quyết định lựa chọn thể ký để
viết văn là thời điểm thể loại này đang bị “thất sủng”. Trên văn đàn, nhiều ngƣời
chĩa mũi nhọn công kích vào ký với thái độ xem thƣờng, cho rằng đây chỉ là “văn
chương thứ cấp”, “không giàu truyền cảm và tính điển hình so với truyện ngắn và
tiểu thuyết”, thậm chí so với các mẩu tin báo chí cũng không “phục vụ kịp thời”.
Ông vẫn mạnh dạn chọn ký, bởi với ông, chỉ có ký mới giúp ông thể hiện đuợc
những trải nghiệm của mình một cách chân xác và sinh động, “phải viết theo cảm

21


xúc chân thực của mình” [31]. Phê phán quan điểm xem thƣờng thể ký, cho rằng đó
là những thành kiến vô lý, ông luôn luôn khẳng định vị thế và giá trị của ký trong
dòng chảy bao đời của văn học: “Tuổi của ký cũng gần bằng với thi ca, và cũng
giống như thi ca, cho đến bây giờ nó vẫn giữ được sức trẻ trung, khoẻ mạnh” [94,
tr.165]. Ký tồn tại và phát triển để có chỗ đứng trong văn học nhƣ thế, bản thân nó
phải đáp ứng đƣợc những yêu cầu khắt khe của nghệ thuật, phải làm sao để nó
“không là thừa so với truyện ngắn, không là thiếu so với tiểu thuyết” [94, tr.166],
nói cách khác ký phải khẳng định chân giá trị và bản sắc riêng có của nó.
Bàn về chức năng, nhiệm vụ của ký, ông khẳng định: “Lý do tồn tại thiết yếu
của bút ký, ai cũng biết chính là nhiệm vụ thông báo của nó, thường được gọi là
lượng thông tin chứa đựng trong thể ký” [94, tr.168]. Khó có thể loại văn học nào
khác làm đƣợc nhƣ ký: “Với ký, văn học đã có thể thâm nhập một cách nhẹ nhàng
vào lĩnh vực của thông tin khoa học, và bằng ngôn ngữ riêng của mình, nó chuyên
chở đến cho người đọc những hiểu biết cần thiết trên mọi lĩnh vực, kể cả chỉ nhằm
đáp ứng nhu cầu kiến thức thuần tuý” [94, tr.168]. Theo ông, chính nhờ nhiệm vụ
này đã tạo cho ký “khả năng tháo vát hiếm có” so với các thể loại văn xuôi khác.
Nhiều ngƣời đã khẳng định ký có tính cơ động và sức chiến đấu cao. Có lẽ chính cái
khả năng chứa đựng thông tin, cách truyền tải thông tin đặc biệt của ký đã tạo nên
điều đó. Ông đề cao chức năng thông báo của ký vì theo ông viết ký đòi hỏi phải
xác thực, thông tin không chỉ “có lý” mà phải đƣợc “thực chứng” [94, tr.170].
Điều quan trọng không chỉ là lƣợng thông tin mà thông tin ấy phải đánh thức đƣợc
“những điều sâu xa” trong lòng độc giả hay chính là “hiệu quả tâm lý” nó gây ra
đối với ngƣời tiếp nhận. Thông tin mà ký mang đến cho ngƣời đọc không chỉ đơn
thuần là thông tin mang tính tƣ liệu, khoa học, thông tin của sự kiện…, đằng sau nó
là cảm xúc thẩm mỹ, là những rung động, những biến chuyển tế vi trong tâm hồn
ngƣời đọc. Sức nặng của ký không phải chỉ ở tri thức, sức nặng của ký là “cùng với
cảm xúc văn học, bút ký chứa đựng tất cả sức nặng vật chất của các sự kiện được

giữ lại từ trong c i thực vốn là bản gốc của tác phẩm. Sức nặng ấy được chuyển đi,
22


không giống như một cảm giác mỹ học, mà như một quả táo Niu-tơn rơi xuống tâm
hồn người đọc” [94, tr.171].
Trong lịch sử phát triển của thể ký, đã từng tồn tại quan niệm cho rằng ký
không đƣợc hƣ cấu, phải tuyệt đối trung thành với sự thật. B.Pôlêvôi – nhà viết ký
Xô Viết cho rằng: “Ký sự là không được ph p hư cấu” [66, tr.38]; nhà nghiên cứu
Hoàng Nhƣ Mai cũng cho rằng: “Tính chất của ký là xác thực và người viết ký
không được quyền hư cấu” [9, tr.43]… Xoay quanh vấn đề từng gây tranh cãi nhiều
trong giới học thuật này, Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng từ thực tiễn sáng tác của mình
nhận thức rất rõ: “hư cấu là một quá trình tất yếu của nghệ thuật”, vì thế “hư cấu
tồn tại trong ký như một phẩm chất mỹ học, nhờ đó bút ký giữ vững tư cách văn học
của mình để khỏi bị sa sút thành một thứ văn chương người thực việc thực hoặc đại
loại” [94, tr.172]. Hƣ cấu không dẫn ký đi xa với sự thật mà chỉ góp phần bồi đắp
cho hình tƣợng của ký thêm sống động, từ đó giúp cho ký phản ánh cuộc sống một
cách chân thực và bản chất hơn. Theo ông, không nên chỉ hiểu hƣ cấu theo nghĩa
thông thƣờng là “hoạt động tự do của trí tưởng tượng”, là “thêm vào thực tại một
các gì đó tự nó không có”. Hƣ cấu cần đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa, nhiều dạng khác
nhau. Hƣ cấu còn là “sự lựa chọn trong lúc quan sát, sự loại bỏ những yếu tố ngẫu
nhiên và những chất thô, sự tổ chức các tài liệu theo một cấu trúc nào đó” [94,
tr.174]. Hƣ cấu nằm trong chính cảm xúc, tƣởng tƣợng, liên tƣởng, hồi ức, suy
nghiệm… của ngƣời viết ký: “Qua vai trò trung gian của chủ thể, nhà văn thường
tìm cách nối liền thế giới bên ngoài và thế giới bên trong thầm kín của mình, bổ
sung vào những dữ kiện của thực tại bằng những dữ kiện của nội tâm, gắn liền cái
hư và thực trong một thể thống nhất” [94, tr.175]. Và theo ông, đó chính là cách
vận dụng hƣ cấu trong ký.
Từ đó, ông đặt ra cho nhà văn viết ký những yêu cầu, nhiệm vụ phải đạt
đƣợc. Ngƣời viết ký trƣớc hết phải có “thái độ tôn trọng sự-kiện-tính của những gì

đã xảy ra”, “tự đặt mình trước những k luật nghề nghiệp rất khắt khe: phong phú
trong tư liệu, chính xác trong hiểu biết và trung thực trong tất cả những gì được rút
23


ra từ thế giới nội tâm của người viết” [94, tr.172]. Bằng kinh nghiệm viết ký của
mình, ông chia sẻ: “cái nghề viết ký nó thật vất vả”, vì để viết ký đƣợc nhà văn phải
đi nhiều “không đi đến tận thực tế thì không thể viết được, mà cũng đừng nên viết”
[94, tr.177], “đi để quan sát cuộc sống để nó thấm vào người” [40]. Điều quan
trọng nhất theo ông, không chỉ là đòi hỏi với riêng ngƣời viết ký mà là sứ mệnh của
nhà văn nói chung, đó là: “trước khi chảy qua ngòi bút, những điều ấy đã chảy qua
trái tim của anh như một dòng máu chưa ” [94, tr.177]. Nhà văn phải sống, trải
nghiệm, “cho đúng nghĩa một con người” rồi mới viết. Những điều họ viết ra phải
đƣợc họ nghiền ngẫm, nung nấu, phải gắn liền với những tâm tƣ trong chính tâm
hồn họ, phải là “máu thịt”, thì khi ấy, đứa con tinh thần của họ mới thực sự gây nên
những rung động đối với ngƣời tiếp nhận.
Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng viết ký chính là cách để trải nghiệm lại những thực
tế, những xúc cảm, những rung động… bản thân đã trải qua. Phải chăng vì thế ký
của ông sâu sắc và gây xúc động mạnh. Ông lựa chọn lối viết thiên về trữ tình, bên
cạnh đó, ký của ông bộc lộ một vốn kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực văn hoá,
lịch sử, địa lý, khoa học… và một tƣ duy sắc sảo. Đằng sau những trang viết ấy là
tâm hồn luôn trăn trở với đời, luôn tâm niệm làm sao để dâng hiến, đóng góp cho
đời những gì tinh tuý nhất, đẹp nhất.
Một số thể loại ký đƣợc ông thƣờng xuyên sử dụng, bao gồm: bút ký, tùy bút,
truyện ký và nhàn đàm.
Bút ký: là một tiểu loại của ký văn học, đƣợc xếp vào thể loại trữ tình, nằm
trung gian giữa ký sự và tùy bút. Bút ký thiên về ghi lại một cảnh vật mà nhà văn
mắt thấy tai nghe, thƣờng trong các chuyến đi, biểu hiện khá trực tiếp khuynh
hƣớng cảm nghĩ của tác giả. Kết hợp linh hoạt các phƣơng thức nghị luận, tự sự,
trữ tình nhƣng tùy theo độ đậm nhạt khác nhau của các phƣơng thức mà ta có bút

ký chính luận, bút ký tùy bút…
Tùy bút: Tuỳ bút là một thể loại văn xuôi thực sự tự do, phóng túng, không
bị ràng buộc bởi những khuôn khổ có tính quy phạm, cả về nội dung tƣ tƣởng và
24


cách thức thể hiện. Hiểu theo cảm tính, tuỳ bút là những trang văn xuôi mà nhà văn
tùy theo ngòi bút mà đƣa đẩy nhƣ Nguyễn Tuân từng quan niệm: "Nguyên tắc quan
trọng nhất của tùy bút là không có nguyên tắc gì cả". Trong Hán việt từ điển giản
yếu, tác giả Đào Duy Anh giải thích tuỳ bút là "tuỳ thời mà biên ch p", nghĩa là
ngoài cảm xúc chủ quan của ngƣời viết, tùy bút còn chịu sự chi phối của hoàn cảnh
khách quan. Có thể hiểu một cách chung nhất, tùy bút là sự ghi chép về những con
ngƣời và sự kiện cụ thể có thực và qua đó, tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tƣ, nhận
thức đánh giá của mình về con ngƣời và cuộc sống hiện tại.
Truyện ký: là thể loại có tính chất trung gian giữa truyện và ký nên tác phẩm
thƣờng có cốt truyện hoàn chỉnh tập trung vào việc trần thuật một nhân vật, thƣờng
là những danh nhân về khoa học, nghệ thuật; những anh hùng trên mặt trận chiến
đấu và sản xuất; những chính khách; những nhà hoạt động cách mạng;...
Nhàn đàm: Theo Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng nhàn đàm cũng là một thể loại văn
học, một loại bút ký cực ngắn và chỉ triển khai một vấn đề. Là ngƣời viết nhàn đàm
thành công, tuy nhiên ông cũng khuyến cáo “không nên lạm dụng nó” vì “hễ lạm
dụng thì vitamin B12 cũng trở thành có hại” [78].

25


×