Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 - 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.04 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP
TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC
MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ
ĐỀ TÀI:

THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2010 - 2012

GVHD : PGS.TS. NGUYỄN MINH TUẤN
LHP

: 210707101

SVTH : TRƯƠNG HOÀI NAM
MSSV : 10015091

Tp. Hồ Chí Minh Ngày 20 tháng 06 năm 2013.


Chuyên đề môn học
Chuyên đề môn học

GVHD: PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn
GVHD: PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành mơn chuyên đề môn học này, trước hết em xin chân thành cảm ơn quý
Thầy, Cô trong khoa Quản trị kinh doanh – Trường Đại Học Công nghiệp Tp. Hcm đã


tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm chuyên đề môn học. Em cũng chân
thành cám ơn thư viện trường đã tạo điều kiện cho em có điều kiện tham khảo các tài
liệu liên quan đến đề tài của em. Cuối cùng em kính chúc q Thầy, Cơ ln dồi dào sức
khỏe và thành công sự nghiệp cao quý.
Trân trọng kính chào!
SVTH: Trương Hồi Nam

SVTH: Trương Hồi Nam

Page 2



NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

.........................................................................................................................................


DANH MỤC HÌNH


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế xã hội và hội nhập vào kinh tế
thế giới, vì thế Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội đầu tư phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hóa, xâm nhập nhiều nền kinh tế mới trên tồn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam
còn phải gặp rất nhiều thách thức trong nền kinh tế mở cửa như hiện nay, đặc biệt là sự
cạnh tranh gây gắt trong các doanh nghiệp trên thế giới. Trong nền kinh tế thị trường
như hiện nay, vấn đề nổi bậc nhất và có tầm ảnh hưởng quan trọng cho nền kinh tế đó là
lạm phát. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian cũng
như trí tuệ mới mong đạt được kết quả khả quan. Vì vậy việc chống lạm phát khơng chỉ
là nhiệm vụ của riêng Chính Phủ mà là của mọi người mọi doanh nghiệp. Lạm phát ảnh
hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là người lao
động. Vì thế tôi quyết định chọn đề tài “Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2010
– 2012”.
2. Mục tiêu nghiên cứu



Hệ thống hóa và làm rõ các lý luận cơ bản liên quan đến lạm phát.
Đánh giá thực trạng về lạm phát của nước ta trong thời gian vừa qua (2010 –


2012).
− Đề xuất hệ thống các giải pháp để khắc phục tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam
trong thời gian vừa qua (2010 -2012).
3. Nội dung nghiên cứu


Tìm hiểu, nghiên cứu về thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2012,
các chủ trương, chính sách của nhà nước, doanh nghiệp trong việc giải quyết vấn
đề lạm phát đang tăng cao.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



Lý thuyết về lạm phát.
Các thông tin liên quan đến lạm phát trong giai đoạn (2010 -2012) và quan điểm

của nhà nước ta về lạm phát.
− Thực trạng về lạm phát của nước ta trong thời gian qua.
− Những giải pháp để khắc phục tình trạng lạm phát của nước ta giai đoạn 2010
-2012.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tìm hiểu, tổng hợp, phân tích và so sánh.. Những số liệu
và thông tin cần thiết cho đề tài được lấy từ nhiều nguồn thơng tin khác nhau như sách,
báo chí, internet…
6. Kết cấu đề tài
Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
 Phần mở đầu
 Phần nội dung

• Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề lạm phát
• Chương 2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2012
• Chương 3: Giải pháp và kiến nghị
 Phần kết luận


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Khái niệm lạm phát
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của
nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền
tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thơng thường theo nghĩa đầu tiên thì
người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia,
còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi
thị trường toàn cầu.
1.2 Phân loại lạm phát
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm
phát. Nếu phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế thường
phân biệt 4 loại lạm phát: thiểu phát, lạm phát thấp, lạm phát cao (lạm phát phi mã) và
siêu lạm phát.
 Thiểu phát

Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong
quản lý kinh tế vĩ mô. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4
phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát.
 Lạm phát thấp

Lạm phát ở mức độ thấp còn gọi là lạm phát một con số, biểu hiện ở hàng hóa tăng
chậm trong khoảng 10% trở lại (< 10%). Trong đó đồng tiền mất giá khơng lớn, chưa



ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh. Loại lạm phát này thường được các nước có
nền kinh tế phát triển duy trì như một chất xúc tác cho nền kinh tế phát triển.
 Lạm phát phi mã
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một
năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam
và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung thì lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho
nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi
người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng
hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn
và tích lũy của cải.
 Siêu lạm phát

Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng
khi tiền tệ mất giá trị. Siêu lạm phát xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa lạm phát phi mã.
1.3 Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế. Giá cả của các loại hàng hóa
và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá
trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở
thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm
gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá
trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể
coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích
thước của nó.
Các số đo phổ biến của chỉ số lạm phát:



− Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi

"người tiêu dùng thơng thường" một cách có lựa chọn.
− Chỉ số giá sản xuất (PPI): đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được

khơng tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với
CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị
nhận được bởi các nhà sản xuất là khơng bằng với những gì người tiêu
dùng đã thanh toán.
− Chỉ số giá sinh hoạt (CLI): à sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của

một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được
giả định một cách xấp xỉ.
− Chỉ số giá bán buôn: đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán bn

(thơng thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này
rất giống với PPI.
− Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một

cách có lựa chọn.
− Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính tốn của tổng sản phẩm quốc

nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với
tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo
cáo theo giá so sánh hay GDP thực.
− Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI).

1.4 Nguyên nhân lạm phát

1.4.1 Lạm phát theo thuyết tiền tệ


Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung
tiền.

Trên thực tế lạm phát là mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ
lệ lạm phát, mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong
việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền.


Tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách:


Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh



doanh tốt).
Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng

Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về
mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung
khơng tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy
nhiên, giá cả sẽ khơng tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp
cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng.
1.4.2 Lạm phát do cầu kéo
Tăng tiêu dùng, chi phí cơng cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ, sẽ
dẫn đến tăng cầu, áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hố vượt
q mức cung, song sản xuất vẫn khơng được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với

cơng suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự gia tăng của
cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm phát
do cầu kéo được ra đời từ đó.
1.4.3 Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp
nên còn gọi là lạm phát "đình trệ". Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ phía cung,
do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể
được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao
hơn.
Ví dụ:
y
y


y1
y0
y0
y*
y*
AD1
AD0
P
P1
P0
E1
E0
E0
ASSL
ASRL
P1

P0
E1
ASLR
AD
P


ASSR1
ASSR2

Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu
tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu
nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng
lên, cơng nhân và các cơng đồn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi
phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo thành vịng xốy lượng giá.

Chi tiêu q khả năng cung ứng

Chi phí tăng đẩy giá lên cao


Hình1: Sự tăng lên về giá do cung
1.4.4 Lạm phát dự kiến
Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu
hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều một cách
ổn định. Mọi người thể dự kiến được trước nên còn gọi là lạm phát dự kiến.
y
y*
AD


"
AD'
AD
E
E'
E"
ASLR
ASSR2
ASSR1
ASSR0
P2


P1
P0

Trong lạm phát dự kiến AS & AD dịch chuyển lên trên cùng, độ sản lượng vẫn giữ
nguyên, giá cả tăng lên theo dự kiến.
1.4.5 Các nguyên nhân khác
Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng theo,
tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt
đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ tiền gửi vào
ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi loại hàng hố có thể


dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá và tiếp tục đẩy giá
lên cao.
Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có thể in thêm
tiền để trang trại, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát.
Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, địi hỏi phải in thêm một

lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra
trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay
dân thơng qua bán tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa khơng tăng thêm nên khơng có
nguy cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc
lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là
điều chắc chắn.
Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính
sách cơ cấu kinh tế khơng hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào,
nguyên nhân do nước ngoài.
1.5 Tác động của lạm phát
Lạm phát (inflation) có ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh tế xã hội tùy theo mức độ của nó.
Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh những tác
hại không đáng kể; còn lạm phát cao và siêu lạm phát gây ra những tác hại nghiêm trọng
đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy thuộc vào lạm phát đó có dự
đốn trước được hay khơng, nghĩa là cơng chúng và các thể chế có tiên tri được mức độ
lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là một điều bất ngờ. Nếu như lạm phát hồn
tồn có thể dự đốn trước được thì lạm phát không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi
người ta có thể có những giải pháp để thích nghi với nó. Lạm phát khơng dự đốn trước
được sẽ dẫn đến những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên
làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.


 Đối với lĩnh vực sản xuất

Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động
không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền
làm vơ hiệu hố hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một
vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh
nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
 Đối với lĩnh vực lưu thơng


Lạm phát thúc đẩy q trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hố. Các nhà
doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thơng. Thậm chí khi lạm phát
trở nên khó phán đốn thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao.
Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn.
Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh
lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
 Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng

Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người
gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi
vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá
của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người
hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người
có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ
thống ngân hàng khơng cịn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các
chức năng của tiền tệ khơng cịn ngun vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ
của cải hình thức tiền mặt.
 Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước


Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát
xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị
trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém.
Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước khơng cịn đủ sức cung
cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... Các ngành, các lĩnh vực
dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc khơng có gì. Một khi
ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế
xã hội sẽ khơng có điều kiện thực hiện được.



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2010 – 2012
2.1 Tổng quan về lạm phát ở Việt Nam qua các thời kì
 Thời kì đổi mới

Trước 1975, hai đầu đất nước là hai nền kinh tế khác nhau. Một bên là nền kinh tế
thị trường tự do, một bên là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, do
đó giai đoạn này lạm phát chưa xuất hiện rõ nét.
Sau 1975, Miền Nam là nền kinh tế thị trường tự do tương đối phát triển, có xuất
khẩu. Miền Bắc
 Thời kì bắt đầu đổi mới

Từ năm 1979 đến 1985 nề kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã bộ lộ nhiều điểm yếu và
hạn chế đòi hỏi cần phải đổi mới. Tỷ lệ lạm phát 1984 là 164,9%, 1985 là 191,6%,
trong khi đó tăng trưởng kinh tế giảm từ 6% năm 1984 xuống khoảng 3% năm 1985.
 Lạm phát phi mã cuối thập kỷ 80

Năm 1986 tỷ lệ lạm phát là 487,2%, 1987 là 301,3%, 1988 là 308,2%, năm 1989 tỷ
lệ lạm phát là 74,3%. Trong khi tăng trưởng kinh tế năm này chỉ khoảng 1% đến 2%.
 Thời kì tăng trưởng kinh tế đi đôi với lạm phát (sau 1989)

Năm 1991 tỷ lệ lạm phát là 67,5%, năm 1992 tỷ lệ lạm phát giảm còn 17,6% và đặc
biệt năm 2003 tỷ lệ lạm phát là 5,2%. Trong giai đoạn này nhờ kiểm soát lạm phát
nên tăng trưởng tăng lên.
 Thời kì thiểu phát (1997 – 2005)


Năm 1997 giá cả thị trường ở mức ổn định, lạm phát ở mức 103,6% tăng trưởng
3,6% so với cuối năm 1996, năm 2004 là 9,5% và năm 2005 là 8.4%.

 Thời kì 2006 trở về sau

Năm 2006 tăng 6,6%, năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, thì năm 2009
tăng 6,52%. Năm 2010 tăng 11,75%, năm 2011 là 18,12% và năm 2012 là 6,81%.
2.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2012

Hình 2: Diễn biến lạm phát 2010 - 2012


Theo tin từ Tổng cục thống kê, chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng 12/2010 của cả nước tăng
1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát năm của cả nước 2010 lên 11,75% so với năm 2009.
Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm (khoảng 8%).


Hình 3: Chỉ số giá tiêu dùng qua các tháng năm 2010
Trong khi đó, nếu tính bình qn theo từng tháng (cách tính mới của Tổng cục
thống kê), chỉ số lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009.
Trong tháng 12, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31% trong đó nhóm
lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28% so với tháng 11. Ngành bưu chính viễn
thơng giảm nhẹ 0,02% so với tháng trước.
Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là hàng
ăn (16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành giao thơng, hàng hóa &
dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thơng vẫn là nhóm
duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Trong năm 2010, chỉ số giá
vàng tăng 36,72%, chỉ giá USD tăng 7,63%. Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý là
chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%; cao hơn 1,87% của khu vực thành
thị.

Hình 4: Chỉ số giá tiêu dùng 12/2010 – 12/2011



Theo thông lệ, hàng năm mức tăng giá tiêu dùng (CPI) thường đạt đỉnh vào những tháng
trước hoặc ngay sau Tết Nguyên Đán, và hạ dần vào cuối quý 1 cho đến hết quý 2 và 3...


Tuy nhiên, CPI trong 5 tháng qua tăng liên tục với tốc độ cao dần một cách đáng ngại,
với đỉnh chưa được xác lập rõ ràng, trong đó riêng tháng 3/2011 tăng vọt tới 2,17%, tức
cao hơn tốc độ tăng 2,09% của tháng 2/2011 và mức tăng 1,74% của tháng 1/2011). Đây
cũng là mức cao nhất so với tốc độ tăng của 32 tháng trước đó (tính từ tháng 6.2008) và
còn là mức cao thứ 2 so với tốc độ tăng CPI tháng 3 hàng năm trong vòng 20 năm qua
(chỉ sau tháng 3.2008). Vì vậy, CPI tháng 3.2011 so với tháng 12.2010 đã tăng 6,12%,
nghĩa là bằng 87,4% chỉ tiêu lạm phát 7% đề ra cho cả năm; nếu so với tháng 3.2010,
CPI đã tăng 13,89%; cịn tính bình quân 3 tháng năm 2011 so với cùng kỳ năm trước
(cịn gọi là mặt bằng giá) thì CPI đã tăng 12,79%...
Chỉ số CPI tháng 3/2011 tiếp tục tăng cao với tốc độ khác nhau giữa các nhóm
hàng hóa, dịch vụ...Mức tăng cao nhất thuộc về các nhóm hàng lương thực, thực phẩm;
và xu hướng tăng giá đang lan tỏa rộng khắp các lĩnh vực và nhóm hàng, trừ hàng điện
tử, như máy tính, điện thoại và một số hàng CNTT khác.
Xu hướng giảm tốc CPI đã bộc lộ từ đầu tháng 4 và tô đậm hơn trong tháng 5 và
6/2011, với các mức tương ứng lần lượt là 3,32%, 2,21 và 1,09%.
Tuy nhiên, tháng 7/2011 có sự đảo chiều lạm phát với mức tăng CPI so tháng trước tới
1,32% do gắn với sự tăng mua vét thực phẩm của thương gia nước ngoài và bất lợi của
thời tiết, khiến mất cân đối cung-cầu, khan hiếm và tăng giá thực phẩm đột ngột.
Tháng 8, CPI đã có sự cải thiện trở lại, với mức tăng chỉ còn 0.93% so với tháng
trước. Xu hướng này chắc chắn còn tiếp diễn trong suốt quý 3/2011, trước dịp tăng trở
lại cuối năm như thông lệ…
Với đà tăng đó, việc duy trì được được tốc độ tăng CPI năm 2011 ở mức 17 - 18%
so với tháng 12/2010 như mục tiêu đề ra (dù đã điều chỉnh lần 2 so với kế hoạch 7% đầu
năm) là rất khó, nếu khơng nói là khơng thể (tính chung CPI 8 tháng đầu năm so tháng
12/2010 đã tăng tới gần 16% và tăng trên 23% so cùng kỳ năm trước); song cần nhấn

mạnh rằng, sốt giá đột ngột và khan hiếm hàng hóa sẽ khó có cơ hội xẩy ra trong giả


định khơng có những đột biến về thiên tai và chính sách quản lý vĩ mơ, cũng như những
khủng hoảng mạnh trên thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và quốc tế…
Theo báo cáo mới nhất từ Tổng cục Thống kê, tháng cuối cùng trong năm, chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) cả nước tăng 0,53%, đẩy CPI cả năm tăng 18,58% so năm 2010. So
cùng kỳ tháng 12/2010, CPI cả nước tăng 18,13%. Giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
0,69% so tháng trước. Cả năm nhóm hàng hóa thiết yếu này tăng giá 26,49%. Trong đó,
giá các mặt hàng lương thực tăng mạnh 1,4%, cả năm tăng 22,82%. Giá thực phẩm tăng
0,49%, cả năm tăng 29,34%. Trong khi đó, giá hàng hóa may mặc, mũ nón và giày dép
tăng 0,86%, cả năm tăng 12,1% so với năm 2010. Chi phí dành cho nhà ở bao gồm tiền
thuê nhà, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tiếp tục tăng 0,51%, cả năm tăng tới
19,66%. Giá thuốc và dịch vụ y tế cuối năm tăng 0,24%, cả năm tăng 5,65%. Chi phí
cho giáo dục tăng nhẹ 0,05% trong khi cả năm tăng 23,18%. Nhóm hàng hóa duy nhất
giảm giá trong tháng cận Tết là bưu chính viễn thơng, giảm 0,09%, cả năm nhóm hàng
này giảm 4,06%. Lạm phát tháng 12 cao hơn các tháng trước đó, tháng 10 tăng 0,36%,
tháng 11 tăng 0,39% - đà tăng này phản ánh một phần tác động của biến động tăng giá
hàng hóa trước thềm Tết Nguyên đán và đặc biệt là Tết Dương lịch cũng như dịp lễ
Noel sắp tới. Với mức tăng CPI cả năm tăng 18,58%, Chính phủ đã khơng hồn thành
chỉ tiêu được Quốc hội giao trong phiên họp cuối năm năm ngối là khơng q 7%.
Thậm chí, mức tăng giá này cũng vượt dự kiến đã đưa ra trước đó là 18%. Tại phiên họp
Quốc hội diễn ra tháng 7 năm nay, Chính phủ đã đề nghị nới chỉ tiêu CPI cả năm lên
không quá 17%, song chỉ tiêu này đến nay đã không thực hiện được.
Lạm phát những tháng tới sẽ còn chịu áp lực lớn khi mới đây Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) đã cơng bố tăng giá điện bình qn lên 5% ngay trước thời điểm Tết
Dương lịch và Tết Nguyên đán.


Hình 5: Chỉ số giá tiêu dùng 12/2011 – 12/2012

− Chỉ số giá tiêu dùng CPI năm 2012 diễn biến ngồi dự kiến và khơng tn theo quy luật

của những năm trước đó: Ngoại trừ 2 tháng đầu năm, lạm phát tăng cao do yếu tố mùa
vụ với mức tăng lần lượt là 1% và 1,37% so với tháng trước, chỉ số CPI từ tháng 3 tới
tháng 8 chỉ tăng rất chậm.
Đặc biệt, trong tháng 6 và tháng 7/2012, lạm phát đã ở mức âm (với mức tăng CPI
lần lượt là -0,26% và -0,29% so với tháng trước). Qua đó, lạm phát so với cùng kỳ cũng
đã giảm nhanh từ 17,27% vào tháng 1/2012 xuống mức 5,04% trong tháng 8/2012. Vào
thời điểm đó, xu hướng trên của lạm phát đã làm dấy lên mối quan ngại về suy giảm
kinh tế và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, trong tháng 8 và tháng 9, lạm phát đã
đảo chiều hoàn toàn với mức tăng trong 2 tháng lần lượt là 0,63% và 2,2% so với tháng
trước. Đặc biệt, mức tăng của lạm phát tháng 9 (2,2%) cịn vượt ngồi dự báo của nhiều
chuyên gia. Song bước sang những tháng cuối năm 2012, lạm phát đã hạ nhiệt, mức
tăng CPI trong 3 tháng 10, 11 và 12 lần lượt là 0,85%, 0,47% và 0,27% so với tháng
trước. Tính đến hết tháng 12/2012, lạm phát tăng 6,81% so với tháng 12/2011, thấp hơn
so với mức tăng của năm 2011 (18,13%) và năm 2010 (11,75%). Như vậy là lạm phát
năm 2012 đã dừng ở mức dưới 7% - đạt được mục tiêu của Quốc hội đề ra.


×